GIỚI THIỆU NỀN ĐẠO ĐỨC NHÂN BẢN – NHÂN QUẢ
Một con người thiếu đạo đức cũng giống như một con thú vật, nhưng con thú ấy lại mang lốt người. Con người ấy chẳng bao giờ có một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự. Cuộc đời của họ chẳng có hạnh phúc, thường sống trong tâm trạng đau khổ, giận hờn, phiền muộn, lo âu, sợ hãi, bất an, bất toại nguyện, v.v...
Một gia đình thiếu đạo đức là một gia đình đau khổ. Phần đông trong gia đình đó mọi người sống chỉ còn biết chịu đựng với nhau, chịu đựng để mà sống, sống trong khổ đau, nên không bao giờ tìm được chân hạnh phúc, an vui chân thật. Sống trong gia đình đó cũng giống như sống trong địa ngục, địa ngục của trần gian.
Một xã hội thiếu đạo đức là một xã hội mà mọi người đều gian ác, xảo trá, lừa đảo, lường gạt bằng mọi cách, luôn luôn họ phải bon chen, đấu tranh, chà đạp lên nhau để tìm miếng ăn, manh áo, để tìm vật chất và tiền bạc, châu báu, ngọc ngà cho nhiều, v.v... Vì thế, đó là một xã hội rất phức tạp, rất đen tối, không trật tự, thiếu an ninh.
Đó là vì cuộc sống cá nhân mà mọi người quên đi đạo đức nhân bản - nhân quả; xem cá nhân là quan trọng, là trên hết, nên không còn có con người sống liêm sỉ, chí công, vô tư. Họ không còn biết yêu thương nhau, chỉ biết có tiền và vật chất, vì thế mà đạo đức lần lần biến mất. Nhưng khi đạo đức dần dần biến mất thì xã hội sẽ không có trật tự, an ninh, thường xảy ra trộm cướp, giết người, khiến cho cuộc sống của con người đầy dẫy sự đau khổ và bất an.
Để đạt được nhiều danh và lợi cho cá nhân của mình, con người sử dụng bằng mọi thủ đoạn:gian xảo, điêu ngoa, lường lận, đo thiếu, cân non hoặc bằng mọi cách lường gạt khác để lừa đảo, xảo trá lẫn nhau. Họ không từ bỏ những hành động hung bạo nào và còn có thể gây ra án mạng giết người.
Xã hội như vậy, muốn làm nên một việc gì thì phải có tiền; tiền là trên hết - có tiền mua Tiên cũng được. Vì thế mà đạo đức bị băng hoại, con người mất hết lương tri và lương năng. Vì xã hội con người thiếu đạo đức như vậy nên nhà nước đặt ra nhiều pháp luật để ngăn cấm và trị tội những kẻ phạm pháp trộm cướp giết người, gây rối, làm mất trật tự an ninh chung cho xã hội, cho đất nước. Nhưng đối với những người vô đạo đức, pháp luật là pháp luật, không thể trị họ hết vô đạo đức được.
Cho nên có nhiều người phạm pháp, bị pháp luật cưỡng bức đi cải tạo nhiều lần từ trại giam này đến trại giam khác, nhưng những người vô đạo đức này chẳng bao giờ biết sợ pháp luật, biết sợ nhà giam, biết sợ trại cải tạo. Khi được trả tự do về thì chứng nào tật nấy, nhất là những người đầu trộm đuôi cướp, du côn, du đảng, v.v...
Một đất nước không đạo đức là một đất nước không phồn vinh thịnh trị, mưa không thuận, gió không hòa, thường xảy ra trộm cướp giết người, bạo loạn, binh đao, chiến tranh xảy đến, khiến cho đất nước đó không có thanh bình và nhân dân không được an cư lạc nghiệp.
Vì thế đạo đức rất quan trọng cho cuộc sống của loài người trên hành tinh này. Nhưng đạo đức là gì? Từ xưa đến nay người ta đã nói rất nhiều về đạo đức bằng cách này hay bằng cách khác. Nhưng những đạo đức ấy chưa đủ, vì thế nó chưa mang đến sự bình an cho loài người.
Nói đến đạo đức là nói đến sự phát triển trí tuệ của con người. Sự phát triển ấy nhằm mục đích giữ gìn trật tự, an ninh xã hội và nâng cao phẩm cách con người; con người đối xử với nhau phải sống có tình, có nghĩa, có những hành động cao đẹp và cao thượng. Nhờ đó con người mới khác hơn loài cầm thú; nhờ đó con người thoát ra khỏi bản năng hung dữ ác độc của loài động vật; nhờ đó con người mới trở nên những bậc Hiền nhân, Thánh đức; nhờ đó con người mới có những năng lực mầu nhiệm trở thành siêu nhân.
Nói về đạo đức, chúng ta đã biết ở Việt Nam và Trung Hoa được truyền thừa nền đạo đức Khổng - Mạnh. Đạo đức Khổng - Mạnh gồm có: Tam Cang, Ngũ Thường.
Tam Cang gồm có: Quân Thần cang, Phụ Tử cang, Phu Thê cang.
Ngũ Thường gồm có: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín.
Đạo đức này đưa ra để dạy cho con người nhằm mục đích bắt buộc phải tuân thủ theo trật tự tôn ty của chế độ phong kiến, của giai cấp phong kiến, biến con người thành công cụ để phục vụ vua chúa: "Quân xử Thần tử, Thần bất tử bất trung. Phụ xử Tử vong, Tử bất vong bất hiếu."
Ở đây chúng tôi không muốn nói đến đạo đức phong kiến này mà chỉ nói đến một thứ đạo đức bình đẳng mà mọi người rất cần thiết như cơm ăn, như nước uống, như áo mặc và như hơi thở.
Vậy đạo đức này thuộc về đạo đức gì?
Kính thưa quý bạn!
Chúng tôi muốn nói đến đạo đức bình đẳng này chứ không phải nói đến đạo đức Tam Cang (quân thần, phụ tử, phu thê), Ngũ Thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) như đã nói ở trên hay bất cứ một thứ đạo đức nào khác (như đạo đức tộc họ của gia đình, đạo đức phong tục tập quán của mỗi dân tộc, của một xứ sở quê hương, của một đất nước hay là những thứ đạo đức mơ hồ trừu tượng của các tôn giáo từ xưa đến nay). Chúng tôi nói đến đạo đức thường xuất phát nơi những hành động sống hằng ngày của quý bạn, mà quý bạn thường xuyên trực tiếp tiếp xúc với mọi người, mọi việc làm, mọi đối tượng và mọi pháp, v.v...
Đạo đức này xuất phát từ những hành động thân, miệng, ý của quý bạn. Hành động thân, miệng, ý của quý bạn khi xuất phát sẽ không làm khổ mình, khổ người. Đó là đạo đức nhân bản - nhân quả, mà trên đời này ai cũng cần phải học hỏi và hiểu biết, vì nó là chính hành động sống của quý bạn hằng ngày đem đến sự an vui cho quý bạn và mọi người, mọi vật chung quanh. Nếu các bạn không học, không hiểu đạo đức nhân bản - nhân quả thì do những hành động của các bạn, vô tình các bạn sẽ làm khổ cho mình, cho người, cho muôn loài vật khác. Và như vậy quý bạn là người thiếu đạo đức. Nói thiếu đạo đức là nói nhẹ nhàng đối với các bạn, nếu không nói vậy thì sẽ nói thẳng rằng: quý bạn là người vô đạo đức, có nghĩa là vô đạo đức đối với mình, đối với mọi người và cũng như đối với tất cả mọi loài chúng sanh.
Đạo đức này không bắt buộc chúng ta phải phục vụ cho một giai cấp nào, cho một chế độ nào, cho một hệ tư tưởng nào hay cho một cá nhân nào.
Đạo đức này là một thứ đạo đức bình đẳng, luôn luôn phục vụ cho sự sống của muôn loài trên hành tinh này, không phân biệt màu da thứ tóc, không phân biệt chủng tộc, Tổ quốc, quê hương, đất nước riêng biệt nào cả.
Đạo đức này dạy con người không những biết thương con người mà còn biết thương yêu các loài động vật và ngay cả cỏ cây. Đạo đức này sẽ mang đến cho muôn loài một sự bình an. Thiếu đạo đức nhân bản làm người, quý bạn không bao giờ thoát ra khỏi bản chất của loài thú vật, vì con người cũng là một loài động vật như bao nhiêu loài động vật khác trên hành tinh này. Con người chỉ hơn các loài động vật khác là nhờ có trí tuệ thông minh, biết phân biệt phải trái, trắng đen, tốt xấu,... biết xấu hổ, biết sửa đổi và biết triển khai trí tuệ ấy để có những hành động không làm khổ mình khổ người và làm khổ tất cả muôn loài có sự sống khác. Do đó con người vượt hơn muôn loài vật khác nghĩa là biết ngăn chặn những thú tính trong tâm mình, biết tạo những hành động thương yêu đùm bọc lẫn nhau, biết chia xẻ ngọt bùi cay đắng, v.v...
Tại sao lại gọi là đạo đức nhân bản - nhân quả? Vì mỗi hành động thân, miệng, ý của chúng ta khởi ra lànhân thì tiếp ngay đó liền có sự thọ chịu khổ hay vui là quả.
Ví dụ: Khi chúng ta nói: "Thằng khốn nạn", nói như vậy là nhân, người bị mắng như vậy sẽ tức giận là quả, khi tức giận do bị mắng như vậy thì người ta sẽ chửi mắng lại hoặc đánh chúng ta là nhân khác, chúng ta bị chửi mắng lại hoặc bị đánh là quả tức là thọ chịu sự đau khổ của sự mắng chửi hoặc bị đánh. Nếu chúng ta không nói lời thô ác đó (thằng khốn nạn) thì nhân không có nên quả cũng không.
Tại sao lại gọi là nhân bản? Vì hành động thân, miệng, ý của con người tạo ra nên gọi là nhân bản tức là những hành động gốc nơi thân người.
Đạo đức nhân bản - nhân quả nói lên những hành động của con người không làm khổ mình khổ người. Hành động không làm khổ mình khổ người là những hành động sống hằng ngày của con người đối xử với nhau, nó rộng rãi bao la và vô lượng vô biên không thể nghĩ lường được, không thể nói hết được.... Tuỳ trường hợp, tùy hoàn cảnh xảy ra muôn vạn hình thái khác nhau, nhưng không ngoài thiện và ác.
Bộ sách Đạo Đức Làm Người ra đời là để đáp ứng kịp thời của thời đại khoa học hiện đại hoá đời sống con người. Vật chất phục vụ đời sống con người càng nhiều càng đầy đủ tiện nghi thì tâm tham đắm càng nhiều; tâm tham đắm càng nhiều thì đạo đức làm người sẽ mất dần. Và vì thế mà con người phải chịu nhiều đau khổ hơn, vì ai cũng không còn nghĩ đến đạo đức mà chỉ còn nghĩ đến danh và lợi.
Ở đời người ta nghĩ rằng vật chất càng nhiều sẽ đem đến nhiều hạnh phúc. Điều này không thể có được, vì vật chất càng nhiều thì người ta càng bon chen, đua đòi, sanh tâm hung ác và giết hại lẫn nhau. Sống mà chỉ chạy theo danh và lợi thì lúc bấy giờ con người chỉ còn là một con thú hung dữ mà thôi, không hơn không kém.
Bộ sách Đạo Đức Làm Người ra đời nhằm ngăn chặn những hành động ác làm khổ mình, khổ người, để quân bình vật chất và tinh thần, khiến cho mọi người được đầy đủ sự an vui hạnh phúc, không còn làm khổ cho nhau nữa.
Bộ sách Đạo Đức Làm Người sẽ chỉ dạy cho mọi người biết từng hành động sống hằng ngày của mình để biết hành động nào thiếu đạo đức đưa đến sự khổ đau cho nhau và hành động nào có đạo đức mang đến sự an vui và hạnh phúc cho mình, cho người.
Bộ sách Đạo Đức Làm Người sẽ xác định cho chúng ta biết hành động nào thiện và hành động nào ác để chúng ta không còn lầm lạc làm khổ mình, khổ người, để chúng ta chấm dứt những hành động tội ác. Khi làm một điều gì thì phải biết điều đó rất rõ ràng và cụ thể, chứ không thể làm mà vô tình không biết thì không được. Làm mà không biết thiện hay ác, tội hay không tội, v.v... là tự mình làm khổ mình khổ người; làm hại mình hại người thì đó là thiếu đạo đức.
Bộ sách Đạo Đức Làm Người sẽ dạy chúng ta đạo đức vệ sinh, vệ sinh môi trường sống, vệ sinh đời sống đối với mình đối với mọi người, vệ sinh cơ thể, vệ sinh tư tưởng, v.v... Nó còn dạy cho chúng ta đạo đức giao thông; đạo đức hiếu sinh, đạo đức buông xả (không tham lam trộm cướp); đạo đức thủy chung; đạo đức thành thật và uy tín; đạo đức khôn ngoan; đạo đức làm cha mẹ đối với con cái, đạo đức con cái đối với cha mẹ; đạo đức chồng đối với vợ, đạo đức vợ đối với chồng; đạo đức thầy đối với học trò, đạo đức học trò đối với thầy; đạo đức lời nói, cách thức xưng hô, cách nói chuyện với mọi người; đạo đức về mỗi hành động liếc, ngó, nhìn, nháy, v.v...
Muốn chấm dứt những sự đau khổ của con người trên hành tinh này thì không có phương cách nào tốt hơn những hành động đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình khổ người. Những hành động ấy phải là những hành động của chính mình thì mới có thể đem lại hạnh phúc chân thật cho mình, cho người.
Một người không có đạo đức nhân bản - nhân quả thì họ phải chịu đầy dẫy sự khổ đau, dù họ là vua chúa, quan to, chức lớn, hoặc những nhà tỷ phú giàu nhất trên thế giới hoặc những nhà bác học, bác sĩ, văn sĩ, nghệ sĩ, thi sĩ, v.v... Tất cả đều phải chịu chung số phận đau khổ, bất an, bất toại nguyện, v.v...
Một người nghèo cùng, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nhưng nếu họ sống có đạo đức nhân bản - nhân quả thì họ cũng vẫn thấy an vui, thanh thản không ai có thể làm họ phiền lòng được, dù trong cảnh nghèo cực.
Do vậy một người muốn đi tìm chân hạnh phúc thì phải tìm ngay nơi mình để biết sống trong đạo đức nhân bản - nhân quả. Sống biết cách không làm khổ mình khổ người thì ngay đó là chân hạnh phúc của cuộc đời.
Bởi vậy đạo đức nhân bản - nhân quả rất quan trọng cho cuộc sống của con người trên hành tinh này. Nhưng khi biên soạn và viết ra thành sách là một việc làm đòi hỏi phải có nhiều thời gian.
Hiện tình con người trên hành tinh này - không riêng ở một đất nước nào - đạo đức đang xuống dốc. Vì thế, chiến tranh, khủng bố giết người vô tội là một tội ác cực lớn, là một việc làm phi đạo đức, là hành động của loài ác quỷ. Nhu cầu quá cấp bách, chúng tôi gấp rút cho ra đời một số tập trong bộ sách Đạo Đức Làm Người trong giai đoạn này mong kịp thời ngăn chặn những hành động thiếu đạo đức, thiếu lòng yêu thương sự sống của muôn loài trên hành tinh này. Vì thế không thể nào tránh khỏi những sự thiếu sót, xin quý bạn và các bậc đức hạnh cao minh chỉ giáo để kỳ tái bản tới bộ sách Đạo Đức Làm Người được hoàn chỉnh hơn.
Kì 1: Nẻo Về Đạo Đức (1-2)
1. NGƯỜI CƯ SĨ PHẬT TỬ CÓ SÁU NGHỀ ÁC KHÔNG NÊN LÀM
Trong kinh A Hàm và Nikaya, Đức Phật đã ngăn cấm người cư sĩ không nên hành sáu nghề ác, vì sáu nghề này không phù hợp với tâm từ bi của đạo Phật. Sáu nghề ác đó như sau:
1. Không làm nghề săn bắn, nghề săn bắn là một nghề cực ác, giết hại biết bao nhiêu loài cầm thú như: nai, hươu, khỉ, chồn, heo, gà rừng và các loại chim chóc khác nữa v.v...
2. Không làm nghề chài lưới, nghề chài lưới cũng là một nghề rất độc ác, chuyên bắt tôm cá, giết hại loài thủy tộc như: đặt rọ, lờ, chài, lưới, vó, câu v.v...
3. Không làm nghề buôn bán thịt sống, nghề buôn bán thịt sống là nghề sát sanh trâu, bò, heo, dê, ngựa, chó, gà, vịt v.v... Người làm nghề này gọi là đồ tể giết gia súc bán từng ký lô cho người khác mua về làm thực phẩm, nghề này rất độc ác, giết hại chúng sanh không chút lòng thương xót.
4. Không làm nghề buôn bán thịt chín, nghề buôn bán thịt chín là nghề lấy thịt chúng sanh nấu thành thực phẩm như: phở, cháo lòng, hủ tiếu, bánh canh, bì chả, nem v.v... Nghề này cũng là nghề độc ác, người hành nghề này cũng đánh mất tâm từ bi.
5. Không làm nghề sản xuất và buôn bán rượu, vì sản xuất và buôn bán rượu khiến người ta nghiện ngập say sưa, không còn trí thông minh nên họ có thể la xóm, mắng làng, chửi vợ mắng con, bất kể cha mẹ, anh em ruột thịt, không biết dơ sạch, nằm ngoài đường, ngủ bụi, ngủ bờ, nằm sương nằm nắng, làm mất thể diện con người, thân thể dễ sanh bệnh tật, tạo cảnh khổ đau cho cha, mẹ, anh, em, vợ, con v.v...
6. Không làm nghề buôn bán người, nghề buôn bán người là nghề mãi nô (bán nô lệ) nghề buôn hương bán phấn (nghề mãi dâm) cũng là nghề buôn bán người. Nghề này rất độc ác, dùng thế lực, tiền bạc, vật chất bắt ép những người cô thân thất thế đang cảnh nghèo đói bán thân làm nô lệ, làm gái mãi dâm, khiến cho gia đình khổ đau và tan nát. Nghề mãi dâm là một nghề tồi bại làm mất nhân phẩm của con người, khiến con người không còn đạo đức và còn tệ hơn loài thú vật, vì con vật có lúc dâm và cũng có lúc không dâm, cho nên kẻ làm nghề bán trôn nuôi miệng là kẻ làm xấu xa thân phận làm người.
Sáu nghề nghiệp này là sáu nghề nghiệp độc ác, giết hại chúng sanh và làm khổ đau bệnh tật muôn người, nhất là nghề sản xuất và bán rượu, sản xuất và bán thuốc phiện, sản xuất và bán xì-ke ma túy, sản xuất và bán thuốc lá, thuốc lào v.v… là những thứ gây bệnh tật nghiện ngập hao tổn tiền bạc, của cải, tài sản biết bao nhiêu người, trải qua bao nhiêu thế hệ phải gánh lấy hậu quả đau khổ này.
Do thế, những người hành những nghề nghiệp này để nuôi thân mạng, cha mẹ, gia đình và làm giàu trên sự đau khổ của muôn người muôn vật. Họ là những người vô minh không thấy luật nhân quả đang chi phối diễn biến từng phút giây trong mỗi con người, luật nhân quả sẽ không tha thứ một ai, nếu ai đã làm điều ác thì phải hứng lấy hậu quả khổ đau. Nếu quý vị không tin lời Phật dạy thì hỏi thăm những gia đình đang hành những nghề nghiệp này. Trông bề ngoài có vẻ giàu sang sung sướng nhưng bên trong chẳng có hạnh phúc gì cả. Thường những gia đình này hay có những người đau ốm bệnh tật, không người này thì đến người khác, tai nạn thường xảy ra, khiến gia đạo bất an, lúc nào cũng lo lắng sợ sệt, cuộc sống của gia đình họ chẳng bao giờ êm ấm yên vui hạnh phúc.
Làm ác thì phải lãnh quả khổ. Không làm sao và cũng không ai cứu thoát khổ được. Đức Phật biết rất rõ nhân quả thiện ác, nên Ngài muốn cho đệ tử của mình thoát ra khỏi cảnh khổ đau, Ngài thường ngăn cấm không cho người cư sĩ hành sáu nghề nghiệp ác, dù nghề nghiệp ấy kiếm tiền rất dễ nhưng nó không phải là hạnh phúc chân chánh. Do đó, Ngài muốn cho các đệ tử của mình sống an vui hạnh phúc chân chánh, không còn gặp cảnh đau khổ nữa. Chính vì hằng ngày, trong cuộc sống chúng ta đã tạo ra nhiều nhân ác nên phải chịu những quả khổ đau đời đời kiếp kiếp chứ không ai mang đến quả khổ ấy cho ta được dù kẻ đó là quỷ thần ác độc. Cũng như không có một vị thần Thánh nào hay một Đức Phật cùng những vị Bồ Tát nào ban phúc lành cho chúng ta được. Xin các bạn lưu ý cho điểm này.
Nhân quả là một đạo luật công bằng, chính chúng ta làm ra là chúng ta phải chịu, không thể người khác chịu thay cho chúng ta được. Vì thế, không ai mang đến khổ đau cho chúng ta mà chính chúng ta, cũng như không ai mang đến hạnh phúc an vui cho chúng ta mà chính chúng ta.
Bởi người cư sĩ không thấy luật nhân quả rất công bằng và công lý, cho nên trong cuộc sống họ không biết chọn nghề nghiệp, chỉ thấy nghề nào làm ra tiền và có cơm ăn áo mặc dễ dàng, nhất là môi trường sống nơi đó mọi người làm nghề sát sanh là dễ kiếm tiền thì họ bắt chước làm theo, nhưng không ngờ lại tạo ra vô vàn tội ác. Từ những hành động tạo ra sự chết chóc và đau khổ cho chúng sanh thì chính bản thân họ và ngay cả gia đình đều phải thọ lãnh những quả khổ đau ấy từ người này đến người khác.
Là đệ tử của Đức Phật, những hàng cư sĩ phải lưu ý sáu nghề nghiệp ác độc này, luôn luôn phải vâng theo lời dạy của Đức Phật thì mới tìm thấy chơn hạnh phúc an vui của cá nhân và của cả gia đình mình.
Hành nghề đúng như vậy mới gọi là chánh nghiệp, chính nghề nghiệp chân chánh mới nuôi được chánh mạng của mình và của mọi người trong gia đình. Hạnh phúc từ ấy sẽ đến với các bạn. Các bạn có tin những lời dạy này không?
2. THỌ DỤNG THỰC PHẨM ĐỘNG VẬT
KHÔNG THẤY, KHÔNG NGHE, KHÔNG NGHI
Sáu nghề nghiệp ác đã dạy trong tập sách này chúng tôi có ghi chú thêm để quý thầy và các phật tử nhận thấy rõ. Tại sao lại có chư Tăng Nam Tông thọ dụng thực phẩm động vật? Có phải Đức Phật đã cho phép chư Tăng thọ dụng thực phẩm động vật hay không?
Để trả lời những câu hỏi này và làm sáng tỏ Phật giáo. Các nhà sư Nam Tông không biết dựa vào lời dạy nào của Đức Phật mà dám thọ dụng thịt động vật.
Thưa quý Hòa Thượng, quý sư, thầy và các phật tử hãy đọc lại bài kinh số 55 Jivaka trang 71, kinh Trung Bộ tập 2, Tạng Kinh Việt Nam do HT Minh Châu chuyển ngữ từ tiếng Pali sang Việt ngữ. Trong bài kinh này, đoạn kinh thứ nhất Đức Phật đã dạy người tu sĩ không được thọ dụng thịt động vật thấy, nghe và nghi: "Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt động vật không được thọ dụng thấy, nghe và nghi”.
Theo nghĩa của đoạn kinh này, khi một vị Tỳ-kheo “thấy” thực phẩm của người phật tử cúng dường có thịt chúng sanh thì không được ăn, đó là trường hợp thứ nhất. Khi thực phẩm của người hật tử cúng dường “không thấy” có thịt chúng sanh nhưng lại “nghe” người khác nói trong thực phẩm đó có thịt chúng sanh thì không được ăn, đó là trường hợp thứ hai. Khi thực phẩm của người phật tử cúng dường “không thấy” có thịt và cũng “không nghe” nói có thịt chúng sanh nhưng tâm lại sanh “nghi ngờ” thực phẩm này có thịt chúng sanh, vì có mùi tanh thì không được ăn, đó là trường hợp thứ ba.
Xét qua ba trường hợp trên đây, rõ ràng Đức Phật không cấm ăn thịt chúng sanh mà chỉ có lời khuyên để chúng Tỳ-kheo ý thức sự đau khổ của chúng sanh mà không ăn thịt. Ý thức sự đau khổ của chúng sanh mà không ăn thịt tức là thực hiện lòng từ bi thương xót chúng sanh, có nghĩa là sống đúng đạo đức hiếu sinh. Còn cấm tức là giới cấm, giới cấm là có sự bắt buộc không ăn thịt chúng sanh, có nghĩa là ăn chay, nhưng ăn chay ấy là ăn chay theo kiểu Đại Thừa Bà La Môn giáo (Ăn chay do giới cấm). Còn ngược lại, Phật giáo Nguyên Thủy chỉ dùng giới đức không cấm nhưng chỉ khuyên người tu sĩ phải tự giác ăn như thế nào để thể hiện được đạo từ bi đúng nghĩa của từ tâm.
Trường hợp thứ nhất và thứ hai thì quá rõ ràng, còn trường hợp thứ ba là nghi ngờ, dường như mơ hồ, nhưng thực ra thịt chúng sanh thì có mùi tanh hôi của chúng, mặc dù chúng ta không thấy, không nghe, nhưng mùi cá làm sao không tanh cá, mùi thịt bò làm sao không hôi bò, mùi thịt heo làm sao không hôi heo, mùi thịt gà làm sao không tanh gà v.v... Tất cả thịt động vật đều có mùi riêng của nó, làm sao chúng ta không nghi ngờ, mà đã nghi ngờ thì không được phép ăn, vì lương tâm và tình thương của chúng ta không cho phép nuôi mạng sống bằng sự khổ đau của loài vật khác.
Phật dạy lần thứ hai: "Này Jivaka! Ta nói trong ba trường hợp thịt được thọ dụng: "Không thấy, không nghe và không nghi". Có lẽ dựa theo lời dạy này, mà các nhà sư Nam Tông dùng lý luận biện hộ cho những hành động tội ác của mình: “Không thấy nghĩa là không thấy người giết con vật để cúng dường cho mình. Không nghe nghĩa là không nghe tiếng kêu của con vật khi bị giết để cúng dường cho mình. Không nghi nghĩa là thấy thực phẩm động vật phật tử cúng dường không nghi ngờ người ta giết con vật làm thực phẩm để cúng dường cho mình.” Cho nên, trong bài kinh Jivaka có mở ngoặc và đóng ngoặc (Vì mình mà giết). Bốn chữ này là do người sau thêm vào để thỏa mãn dục vọng tham ăn thịt chúng sanh.
Xưa các Tổ không có điều gì mà không dám làm, họ thêm bớt rất nhiều trong kinh sách Nguyên Thủy, ngày nay cũng vậy, họ cũng dám lý luận làm sai lệch lời dạy của Đức Phật, có khi vì bảo vệ danh dự của mình trong lúc vi phạm giới luật và cũng có khi vì không hiểu phương pháp hoặc do tu tập chưa chứng. Nếu bài kinh chấm dứt ở đây thì chúng ta khó làm sáng tỏ được Phật giáo. Nhưng bài kinh lại dạy tiếp phần thứ hai và phần thứ ba nên chúng ta mới thấy rõ bộ mặt bất thiện và lòng tham dục của các nhà sư Nam Tông khéo thêm thắt, khéo lý luận bóp méo kinh sách của Đức Phật để gây tội ác tày trời. Vì thế tất cả các xứ Phật giáo Nam Tông tu hành chẳng đến đâu, nhập định điên khùng "Minh Sát Tuệ".
Tu hành không đúng Tứ Niệm Xứ và Tứ Thánh Định của đạo Phật. Chẻ pháp môn Tứ Niệm Xứ ra từng mảnh: đây là trường Thiền tu Tâm Niệm Xứ; đây là trường Thiền tu Thân Niệm Xứ; đây là trường Thiền tu Thọ Niệm Xứ. Chẻ pháp môn Tứ Niệm Xứ ra từng mảnh như vậy mà lại còn hô hào rùm beng viết kinh sách phổ biến khắp nơi làm cho người sau hiểu lầm Phật pháp, tu hành sai lệch, chẳng giải quyết được sanh, già, bệnh, chết.
Trong khi pháp môn Tứ Niệm Xứ rất tuyệt vời, tu là thấy kết quả ngay liền, tu tập là có những thần lực siêu việt không thể nghĩ bàn. Do chia chẻ pháp môn Tứ Niệm Xứ nên các nhà sư Nam Tông tu hành chẳng tới đâu, chỉ loanh quanh trong các định tưởng, chẳng bao giờ đạt được sự giải thoát của Phật giáo. Các nước theo Phật giáo Nam Tông lấy Phật giáo làm Quốc giáo, mọi thanh niên đúng tuổi đều phải vào chùa tu tập ba năm, nếu ai muốn tu luôn thì ở lại tiếp tục tu hành còn không muốn tu thì phải “xuất sãi”.
Xuất sãi có nghĩa ra đời (hoàn tục) lập gia đình. Nhưng những người thanh niên này đã tu theo đạo Phật mà không có chút lòng từ bi nào cả, họ đã dám cầm dao, súng, vũ khí diệt dân tộc họ như giết heo, gà, dê v.v… và tàn sát đồng bào Việt kiều hàng vạn người đang cư trú trên đất nước Campuchia. Đó là một bằng chứng dân tộc Campuchia lấy Phật giáo làm Quốc giáo. Mọi người thanh niên công dân nước này đều phải tu hành ba năm, thế mà giết người như ác quỷ, làm cho cả thế giới đều ghê rợn và lên án tội ác của đất nước này.
Bởi tu hành mà còn ăn thịt chúng sanh thì thành ác quỷ chứ làm sao thành Phật được. Bài kinh Jivaka Đức Phật đã dạy như vậy mà các Tổ bên Nam Tông dám bịa ra ăn năm thứ bất tịnh nhục. Thật là đau lòng. Tại sao vậy? Tại vì tu sĩ Phật giáo Nam Tông ăn thịt chúng sanh nên tâm họ rất hung ác. Đời sống tu sĩ của họ sống ngược lại với đạo đức không làm khổ mình khổ người và khổ tất cả chúng sanh của đạo Phật.
Đạo Phật là đạo đức của loài người, đạo đức của loài người sao lại nỡ nhẫn tâm ăn thịt chúng sanh mà không chút lòng thương yêu. Vậy những người tu sĩ này có phải là tu sĩ của đạo Phật hay không? Xin các bạn trả lời cho.
Cũng trong bài kinh ấy Đức Phật dạy tiếp cho các vị tỳ-kheo không nên ăn thịt chúng sanh bằng phương pháp tu tập và trau dồi "Tứ Vô Lượng Tâm".
Bài kinh dạy tiếp: "Này Jivaka! Tỳ-kheo sống dựa vào một làng hay một thị trấn nào, vị ấy phải luôn tu tập tâm mình biến mãn khắp cùng một phương với lòng từ và an trú, phương thứ hai, thứ ba, thứ tư cùng khắp thế giới trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ cùng khắp vô biên, tâm vị ấy biến mãn và câu hữu với lòng từ quảng đại vô biên không hận, không sân và an trú". Với ý nghĩa của đọan kinh này, khi một vị tỳ-kheo ăn uống thì phải quan sát khắp cùng trên món ăn của mình đồng thời khởi tâm từ bi thương xót tất cả muôn loài chúng sanh, nếu thấy có thịt chúng sanh thì thà chết chớ không ăn.
Đó là thực hiện đạo từ bi, lòng hiếu sinh của mình. Bài pháp dạy rõ ràng như vậy thế mà các nhà sư Nam Tông nỡ nhẫn tâm ăn thịt được thì chúng tôi rất thương hại cho họ, chỉ một đời tu hành mà chẳng có ích lợi gì cho bản thân mình cho tất cả chúng sanh.
Đoạn kinh này Đức Phật đã xác định rõ ràng: một người tu sĩ đạo Phật phải luôn tu tập "Tứ Vô Lượng Tâm". Người đã tu tập Tứ Vô Lượng Tâm thì còn lòng dạ nào ăn thịt chúng sanh được. Phải vậy không các bạn? Vậy mà các sư Nam Tông vẫn nuốt trôi được thịt chúng sanh mới thực là hay!
Về phần các vị tỳ-kheo, Đức Phật đã dạy không ăn thịt chúng sanh bằng hai bài pháp tuyệt vời:
1- Ăn thịt chúng sanh không thấy, không nghe và không nghi.
2- Ăn thịt chúng sanh với lòng từ bi biến mãn khắp cùng mười phương trên dưới.
Cũng trong bài kinh ấy Đức Phật dạy người cư sĩ phải cúng dường thực phẩm cho Phật và chúng Thánh Tăng: "Này Jivaka! Người nào vì Như Lai hay vì đệ tử của Như Lai mà giết hại sinh vật làm thực phẩm cúng dường, người ấy chất chứa nhiều phi công đức do năm nguyên nhân. Khi người ấy nói như sau:
"Hãy đi và dắt con thú này đến đây". Đó là nguyên nhân thứ nhất, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Con thú ấy khi bị dắt đi, bị lôi kéo nơi cổ nên cảm thọ đau đớn khổ ưu. Đó là nguyên nhân thứ hai, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy nói:
"Hãy đi và giết con thú này". Đó là nguyên nhân thứ ba, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi con thú ấy bị giết, cảm thọ đau đớn khổ ưu vô cùng, đây là nguyên nhân thứ tư, người ấy chất chứa nhiều phi công đức. Khi người ấy cúng dường Như Lai hay đệ tử của Như Lai một cách phi pháp. Đó là nguyên nhân thứ năm, người ấy chất chứa nhiều phi công đức".
Qua đoạn kinh này chúng ta thấy rất rõ Đức Phật đã dạy rất kỹ cho người cư sĩ không nên cúng dường Phật và chúng Thánh Tăng thực phẩm động vật. Vì cúng dường như vậy là cúng dường phi pháp, không có phước mà tổn đức thêm trọng tội vì sát hại sanh linh.
Một bài kinh rất có giá trị với các tu sĩ Nam Tông. Bài Jivaka trong Trung Bộ kinh đã khẳng định người tu sĩ đạo Phật không được ăn thịt chúng sanh, nên ăn thực phẩm thực vật với mục đích là để trau dồi tâm từ, bi, hỷ, xả của mình để ly dục ly ác pháp, khiến cho thân tâm thanh tịnh, nhập được các loại thiền định, làm chủ được sự sống chết luân hồi.
Ngược lại, một người tu sĩ còn ăn thịt chúng sanh tức là tâm dục chưa ly, ác pháp chưa lìa thì rất uổng cho một đời tu hành theo đạo Phật mà chẳng hưởng được sự giải thoát của đạo Phật, trái lại còn bị đọa vào địa ngục (địa ngục ở đây không phải cõi địa ngục mà là trạng thái đau khổ của thân hay phiền não của tâm). Tu mà còn tâm ác như vậy thì phải mang nợ đàn na thí chủ muôn đời, muôn kiếp.
Hiện giờ các nhà sư Nam Tông ăn uống cho khoái khẩu, thân hình mập béo, lấy ác pháp mà nuôi thân mạng thì thân mạng này phải chịu thọ khổ muôn vàn vì đã đem vào thân những sự đau khổ của chúng sanh thì làm sao tránh khỏi sự đau khổ ấy.
Ghi chú:
Đọc bài kinh Jivaka, chúng ta nhận xét về đạo Phật. Đạo Phật là một tôn giáo tự lực, dạy đạo đức nhân bản – nhân quả rất thực tế và cụ thể. Cho nên Đức Phật là một nhà tâm lý học thông suốt mọi tình cảm, tâm tư và nguyện vọng của mọi người. Vì thế giáo pháp của Ngài dạy toàn là đạo đức làm người. Vì dạy đạo đức làm người nên nói về tâm lý của con người rất là sâu sắc:
1- Dạy người cư sĩ không làm nghề nghiệp ác để tránh nhân quả xấu như: tai nạn, bịnh tật, yểu tử v.v...
2- Dạy chư Tăng không ăn thịt chúng sanh bằng sự ý tứ cẩn thận trong từng miếng ăn của mình bằng một tấm lòng thương yêu rộng lớn đối với muôn loài chúng sanh.
3- Dạy phật tử không nên cúng dường thịt chúng sanh làm ra thực phẩm cho Phật và chúng Thánh Tăng. Cúng dường như vậy là phi pháp, phi công đức (không có phước báo mà còn thêm tội lỗi).
Toàn bộ giáo lý của Đức Phật từ sơ thiện, trung thiện, đến hậu thiện, Ngài dạy con người cách thức sống trong thiện pháp, ngăn ngừa và đoạn dứt các ác pháp. Vì thế mà ngay từ bước đầu tiên Đức Phật đã dạy người cư sĩ không làm sáu nghề nghiệp ác như trên đã giảng.
Cách thức tu của đạo Phật rất cụ thể. Ở đây quý thầy và các phật tử phải hiểu cho rõ ràng, đổi nghề nghiệp, không làm nghề ác nữa tức là tu hành, tu tức là sửa đổi, thay đổi, làm tốt lại, làm thiện lại và không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh, chứ không phải ngồi đó gõ mõ, tụng kinh, niệm Phật, lần chuỗi, ngồi Thiền hay lạy hồng danh sám hối mà tiêu tội hưởng phước được v.v…
Quý vị đừng lầm hiểu theo sự hướng dẫn tu tập của các nhà học giả Đại Thừa, khi tu tập là phải ngồi Thiền, nhập thất, tụng kinh, sám hối, niệm Phật, niệm chú, truyền tâm ấn, la hét, đánh, xô đẩy để ngộ Phật tánh. Đó là hình thức tu tập chịu ảnh hưởng ngoại lai của các tôn giáo khác, chẳng giúp gì cho chúng ta giải thoát tâm tham, sân, si, phiền não, thương, ghét, giận hờn, thù oán, tật đố, nghi kỵ và các ác pháp khác. Cách thức tu tập của đạo Phật trong kinh điển Nguyên Thủy dạy thực tế và cụ thể hơn, có kết quả ngay liền khi bắt tay vào tu, không như những pháp hành của các nhà học giả dạy ở trên theo kinh sách phát triển Đại Thừa. Như trên đã nói, quý vị đổi nghề ác làm nghề thiện là quý vị không làm khổ chúng sanh, không làm khổ đau cho chúng sanh tức là quý vị không làm khổ đau cho quý vị, không làm khổ đau cho quý vị tức là giải thoát.
Dạy người không làm nghề ác, không làm việc ác tức là tu thiện đấy các bạn. Các bạn có hiểu biết điều này không?
Dạy người không cúng dường thực phẩm bằng xương máu chúng sanh tức là tạo nghiệp thân ít bịnh, tuổi thọ sống lâu.
Dạy chư Tăng không ăn thịt chúng sanh là trau dồi tâm từ, bi, hỷ, xả để đối trị tâm tham, sân, si, ích kỷ, nhỏ mọn v.v...
Bài kinh này quý thầy và quý phật tử nên lưu ý lời dạy của Đức Phật: "Ăn thịt chúng sanh phải không thấy, không nghe và không nghi". Lời dạy này có nghĩa là trong sự ăn uống phải trau dồi mắt tai của mình, phải ý tứ cẩn thận, khi ăn khi uống phải biết rõ trong thực phẩm đang ăn có xương máu và sự chết chóc đau khổ của chúng sanh trong đó hay không? Nếu có chúng ta thà chết trong giới luật của Phật chớ không ăn mà phạm giới.
Tại sao vậy? Tại vì người tu sĩ đạo Phật thường trau dồi tu tập tâm mình lòng thương yêu rộng lớn đối với tất cả chúng sanh, đối với nhân loại khắp mười phương thế giới. Nếu chúng ta chỉ vì bổ béo cho xác thân vô thường bất tịnh này và chạy theo dục lạc, ảo giác ngon ngọt của vị giác thì chúng ta chưa phải một vị tu sĩ đạo Phật chân chánh có lòng từ bi.
Đạo Phật ăn chay trên ăn chay, ăn chay vì lòng thương yêu chúng sanh vô bờ bến. Ngược lại, trong thế gian này có những người ăn chay, không ăn thịt chúng sanh nhưng làm thực phẩm giống như thịt chúng sanh thì đó là ăn chay theo kiểu phàm phu, ăn chay còn thèm thịt nên tạo thực phẩm chay giống như thực phẩm thịt chúng sanh để ăn đỡ thèm. Cách thức ăn chay như thế Đức Phật không chấp nhận. Đạo Phật tu thật, làm việc thiện từ trong lòng thiện sanh ra, ăn chay vì thương xót chân thật đối với chúng sanh nên không nỡ ăn thịt chúng sanh.
Ăn chay chỉ vì sợ địa ngục, sợ quỷ Vô Thường, quỷ Dạ Xoa hành hạ, thiêu đốt, đâm chém, cắt lưỡi, móc họng, rút gân v.v…
Ăn chay để cầu sanh về Cực Lạc, Thiên Đường v.v…
Ăn chay để cầu cho tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu trừ, tuổi thọ sống lâu v.v...
Ăn chay như vậy đạo Phật không chấp nhận vì không phải pháp tu hành để giải thoát, đó là một loại ăn chay để an ủi tinh thần, ăn chay như vậy giống như con bò ăn cỏ, không có nghĩa lý gì của đạo giải thoát cả.
Kì 2: Nẻo Về Đạo Đức (3-5)
3. CHÁNH NGHIỆP VÀ CHÁNH MẠNG
Đạo Phật rất tuyệt vời, dạy tu tập để thoát ra cảnh khổ đau của đời sống con người bằng sự thay đổi trong nghề nghiệp ác để không làm khổ mình khổ người, kế đến dạy ăn uống để nuôi thân bằng những thực phẩm không có sự đau khổ, bố thí cho mọi người và cúng dường cho chư Tăng vật cúng dường không được phi pháp, không làm tổn phước đức, đầy đủ phước báo hiện tại và mai sau:
1- Làm thì tránh nghề nghiệp ác và hành động ác.
2- Ăn thì ý tứ cẩn thận, không phải đụng đâu ăn đó, gặp gì ăn nấy, ăn có nơi có chỗ, không phải ngồi quán, ngồi lều giữa chợ giữa đường và còn phải trải tâm từ bi biết ơn người làm ra của cúng dường, không nhẫn tâm ăn thịt chúng sanh, đầy lòng thương xót khắp cùng.
3- Cúng dường chư Tăng bằng mồ hôi nước mắt của mình làm ra, không được gian tham trộm cắp, không được giết hại chúng sanh. Người tu sĩ khi thọ thực phẩm phải tránh ăn thịt chúng sanh và còn phải quán xét sự tu tập của mình (công đức) có xứng đáng thọ dụng hay không?
Từ một nghề nghiệp chân chánh (Chánh Nghiệp) làm bằng sức lao động chân tay hoặc bằng trí óc tạo ra những thực phẩm lương thiện để nuôi thân mạng (Chánh Mạng) không có sự gian ác và đau khổ trong đó. Trong Bát Chánh Đạo, Đức Phật đã khẳng định có hai nẻo (hai lớp học) tu tập chỉ về cách sống của người tu sĩ chân chánh (Chánh Nghiệp và Chánh Mạng). Đó là hai nẻo tu tập để thoát ra cảnh giới địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh. Một người hành nghề nghiệp giết hại chúng sanh, làm đau khổ người khác thì nghề nghiệp ấy đạo Phật gọi là tà nghiệp, tà nghiệp còn có nghĩa là hành động, lời nói và ý nghĩ ác, hành động giết hại chúng sanh và làm đau khổ người khác hay mắng chửi người khác, nói xấu người khác, vu khống người khác, chuyện ít xích ra nhiều, thêm bớt v.v… Đó là, hành động ác, hành động ác là tà nghiệp, nhân tà nghiệp thì quả phải khổ đau, không chạy tránh đường nào được cả. Cho nên nhân quả không thể trốn tránh, dù có trốn lên Trời hay chui xuống đất cũng không thoát khỏi.
Tà nghiệp còn có nghĩa là nghiệp quả khổ. Thấy một người gặp tai nạn khổ sở có thể đi đến tù tội và tử hình, thì đó đều là do nghiệp quả ác của họ. Người bệnh tật đau khổ rên la trăn trở suốt đêm ngày cho đến khi chết thì đó cũng là nghiệp quả ác của họ, do họ đã tự tạo ra nhân ác trong quá khứ v.v... Tà nghiệp còn gọi là thói hư tật xấu như người ham mê bài bạc, rượu chè, đĩ thõa, điếm đàng, du đãng v.v…
Tà nghiệp còn là những hành động phóng dật, chạy theo dục lạc ác pháp thế gian làm khổ mình, khổ người, khổ chúng sanh v.v…
Tà nghiệp còn là những hành động sai trái phi pháp luật làm ra tiền của đem về nuôi thân mạng cũng như những hành động bắt và giết hại chúng sanh để trao đổi và buôn bán làm ra tiền nuôi sống cha mẹ, gia đình, vợ con… Thì đó là lấy tà nghiệp nuôi lớn tà mạng, không phải chỉ riêng mình mà còn cả gia đình.
Dưới đôi mắt của Đức Phật nhìn những nghiệp ác của chúng sanh đem về nuôi thân mạng thì đó là đem vào thân mạng một nghiệp ác, một sự khổ đau, một tai họa lớn. Nên Ngài dạy những hành động đó là những hành động không chân chánh, những hành động tà nghiệp nuôi dưỡng tà mạng, nuôi tội ác và nuôi đau khổ cho mình cho người.
Muốn không tạo ra các tà nghiệp, Đức Phật ngăn cấm không cho đệ tử của mình hành sáu nghề ác để tránh đem vào thân mạng những sự khổ đau do nghiệp quả ác chính mình đã tự tạo ra.
Vì Chánh Mạng nên Đức Phật còn dạy thêm, đừng nên ăn thịt chúng sanh vì ăn thịt chúng sanh là nuôi tà mạng, đem vào thân mạng những bệnh tật tai ương, đem vào cuộc sống những sự đau khổ tai họa hiểm nghèo, đem vào gia đình những chuyện bất an, bất toại nguyện v.v…
Người cúng dường và bố thí cho chư Tăng bằng sự gian ác sẽ không được phước báo mà còn phi công đức, thọ lấy những quả khổ địa ngục, súc sanh v.v...
Người nhận của bố thí cúng dường mà không thấy từ sự gian ác của người cúng dường, thọ dụng như vậy là nuôi tà mạng, do nuôi tà mạng, thân tâm không thanh tịnh, không ly được dục và ác pháp. Vì thế, vị tỳ-kheo này tu hành uổng công chẳng có kết quả, chẳng nhập được Tứ Thánh Định, chẳng thực hiện được Tam Minh.
Bởi vậy Đức Phật dạy: “chư Tăng phải thiểu dục tri túc, thừa kế pháp, không nên thừa kế thực phẩm”, không thiểu dục tri túc, không thừa kế pháp, luôn thừa kế vật chất và thực phẩm thì tâm sanh ra tham dục, ham muốn phóng dật, chạy theo ngũ dục lạc, ăn uống phi thời, ngủ nghỉ phi thời, trí tuệ đần độn, tưởng tuệ phát triển, thường luận Đông, luận Tây che đậy lỗi lầm, phá sạch giới bổn, sống đời sống dục lạc chẳng biết sợ hãi những lỗi nhỏ nhặt, chẳng biết xấu hổ khi oai nghi tế hạnh cũng không có, đi, đứng, nhìn, ngó, giống như người thế gian.
Chánh Nghiệp, tức là nói về những bài học về hành động thân, miệng và ý phải chân chánh, ở đây có nghĩa là do ba nơi này tu tập không làm hành động ác.
Chánh Mạng, tức là nói về những bài học sự nuôi dưỡng thân mạng chân chánh. Thân mạng chân chánh ở đây có ý nghĩa tu sửa không ăn uống lặt vặt phi thời, ăn uống không đúng giờ đúng lúc, phải ăn uống có tiết độ, ăn uống không phải vì thèm khát, ăn uống là vì sự sống để tu tập, không vì lợi dưỡng, không ăn thịt chúng sanh, không ăn uống những chất độc hại gây tạo cho cơ thể bệnh tật khổ sở dù những thực phẩm đó có ngon ngọt béo bổ đến đâu cũng nên tránh xa, đó là nuôi chánh mạng.
Thân mạng được nuôi sống chân chánh có những ích lợi:
1- Thân không trả nghiệp quả khổ đau.
2- Thân không bệnh tật khổ đau.
3- Tuổi thọ được lâu dài.
4- Thân được mạnh khỏe, tu tập dễ dàng hơn.
5- Thân được mạnh khỏe, tâm hồn được an vui, thanh thản và vô sự.
Người tu theo đạo Phật cần phải siêng năng tu tập trau dồi những bài học về Chánh Nghiệp và Chánh Mạng. Vì đó là đạo đức nhân quả nằm trong cuộc sống của mỗi con người khi tu tập theo đạo Phật. Chúng ta là những đệ tử của Đức Phật không thể xem thường Chánh Nghiệp và Chánh Mạng. Vì Chánh Nghiệp tốt thì Chánh Mạng mới tốt theo, Chánh Nghiệp thanh tịnh thì Chánh Mạng mới thanh tịnh. Do đó đời sống mới được an vui, hạnh phúc, bằng ngược lại, Chánh Nghiệp xấu thì Chánh Mạng phải chịu nhiều tai ương, họa khổ v.v...
Vị tỳ-kheo đệ tử của Đức Phật cũng phải lưu ý Chánh Nghiệp và Chánh Mạng. Nếu Chánh Nghiệp không đúng Phạm hạnh, phạm phải những lỗi lầm nhỏ nhặt không biết xấu hổ thì Chánh Mạng tu hành chẳng tới đâu, tâm lậu hoặc không sao diệt được, thiền định thì rơi vào tà Thiền, tà định, tu suốt đời chẳng có ích lợi gì, còn mất thì giờ vô ích.
Vì thế người cư sĩ cũng như vị tỳ-kheo muốn được giải thoát an vui hạnh phúc trong kiếp sống này thì sự tu hành phải tu đến nơi đến chốn. Trước tiên, phải tu tập Chánh Nghiệp và trau dồi mỗi hành động thân, miệng, ý của mình toàn thiện, tức là không làm khổ mình khổ người. Nhờ đó mới nuôi thân bằng Chánh Mạng thì chắc chắn có muôn vạn người tu theo đạo Phật đều đạt được kết quả giải thoát như nhau. Nếu mọi người biết sống đúng Chánh Nghiệp, nuôi thân bằng Chánh Mạng thì thế gian này là Thiên Đàng Cực Lạc không còn phải đi tìm nơi đâu, không cần phải niệm Phật cầu vãng sanh Tây phương. Phải không các bạn?.
4. NIỀM TIN
Nếu trên bước đường tu tập đầu tiên mà quý vị đã nghe lời dạy của Đức Phật, thay đổi nghề nghiệp ác bằng những nghề nghiệp thiện là quý vị đã đặt trọn niềm tin nơi Đức Phật, Pháp, chư Hiền Thánh Tăng và Giới luật.
Niềm tin đó có được nơi quý vị là do chỗ suy tư quán triệt lời dạy của Đức Phật. Ví như Ngài dạy câu này: "Đừng làm khổ mình, khổ người thì sẽ thoát ra cảnh khổ.” Với lời dạy này biết áp dụng vào đời sống thì rất đúng không sai, có kết quả ngay liền. Khi Ngài dạy thay đổi nghề nghiệp ác, chúng ta tư duy thấy rất đúng, vì những nghề nghiệp ác đó chúng ta đang hành là những nghề làm đau khổ và giết hại chúng sanh rất nhiều như: nghề chài lưới, săn bắn, bán rượu, thuốc phiện v.v... Người có trí sau những lời dạy này chúng ta cũng đủ đặt trọn niềm tin ở Ngài, vì đó là một lời dạy rất thực tế đem lại sự an vui cho mình, cho người và cho các loài vật đang sống trên hành tinh này. Do thế, chúng ta tin và không bao giờ có ai lay chuyển được lòng tin ấy.
Tại sao vậy? Tại vì lời dạy của Ngài rất thực tế và cụ thể, đem đến sự giải thoát an vui hạnh phúc cho chúng ta và tất cả muôn loài vật như trên đã nói. Mình không làm khổ ai, chắc không ai làm khổ mình. Nếu có người khác làm khổ mình, có lẽ người ta chưa nghe và chưa hiểu lời dạy của Đức Phật. Nếu mọi người ai cũng được nghe, hiểu và thực hành theo đúng lời dạy của Ngài thì thế gian này là Thiên Đàng Cực Lạc, hạnh phúc biết bao cho muôn loài, còn đâu đau khổ nữa.
Pháp môn tu tập của Ngài rất thực tế mang lại sự giải thoát cụ thể ngay liền tức khắc, nếu chúng ta chỉ thay đổi nghề nghiệp thì ngay đó chúng sanh thoát chết, thoát khổ, người mạnh không ăn hiếp người yếu, con vật lớn không ăn thịt con vật nhỏ. Nhìn thấy cảnh thoát chết thoát khổ của chúng sanh, tâm hồn chúng ta hân hoan, bàn tay chúng ta không còn làm ác, không còn vấy máu nữa, mắt chúng ta không còn thấy sự chết chóc, đau khổ của chúng sanh nữa. Đó là hạnh phúc biết bao cho muôn loài vạn vật đang sống trên hành tinh này.
Từ sự suy tư quán xét và cân nhắc kỹ lưỡng, thấy rất rõ sự giải thoát cho mình, cho người và chúng sanh. Sự thay đổi nghề nghiệp ác chuyển thành nghề nghiệp thiện mà còn được hạnh phúc như vậy, giải thoát như vậy, thì thử hỏi người tu sĩ xuất gia sống ba y một bát thì còn giải thoát và hạnh phúc biết dường nào, nhất là nhập các định làm chủ sanh tử luân hồi, chấm dứt tái sanh thì lòng tin ấy phải như thế nào?
Nhờ có kết quả chúng ta mới tin sâu hơn, vì vậy lúc đầu chúng ta tin Phật, Pháp, Tăng, nhưng lòng tin ấy chưa phải là lòng tin sâu. Vậy, tin Phật, Pháp, Tăng và Giới như thế nào mới gọi là tin sâu?
Muốn niềm tin được sâu, lâu dài và bền bỉ thì kết quả tu hành giải thoát trong cuộc sống hàng ngày, thân và tâm phải được thành tựu giải thoát cụ thể trong mỗi pháp môn tu tập, mỗi sự thực hành tu tập đều phải có kết quả dù ít dù nhiều thì lòng tin ấy mới tăng trưởng, bền bỉ và lâu dài.
Mới đầu quý vị chỉ có tư duy theo lời dạy của Đức Phật và nhìn thấy những người khác thay đổi nghề nghiệp được hạnh phúc an vui. Do thế, quý vị quyết tâm thay đổi nghề nghiệp ác, trước tiên quý vị thấy kết quả giải thoát là không còn thấy những sự giãy giụa đau khổ và chết chóc của loài vật. Đôi bàn tay quý vị cũng không còn làm đổ máu chúng sanh nữa, không còn thấy những người say rượu đi ngoài đường té xuống đứng lên, chân bước tới chân bước lui, chửi vợ mắng con hoặc chửi làng chửi xóm, không còn thấy phụ nữ làm nghề bán thân nuôi miệng đồi bại như một loài thú vật không biết xấu hổ, không còn thấy những người ngồi quán ngồi lều ăn thịt chúng sanh như loài ác thú, không còn thấy những loài thủy tộc mắc lưới mắc câu giãy giụa đau khổ trước cái chết, không còn thấy những loài thú vật sợ hãi chạy tán loạn trước những người thợ săn… Lòng quý vị hân hoan sung sướng, nhìn thấy cảnh đó là cảnh giải thoát cho mình cho người và cho muôn vật. Thật là hạnh phúc biết bao cho con người và loài vật trên hành tinh này.
Ngoại cảnh yên vui của mọi người và muôn vật đang hòa nhịp với tâm hồn quý vị thanh thản, an lạc, khiến cho đời sống càng hạnh phúc hơn và lòng yêu thương của mọi người, mọi chúng sanh càng lúc càng thấm thía hơn nhiều phải không hỡi quý vị? Mới đầu chúng ta đổi nghề còn thấy vất vả và khó khăn, sau một thời gian mới lấy lại bình thường, không còn lo lắng sợ hãi như lúc ban đầu. Dần dần nghề nghiệp mới phát triển hơn, nghĩ tới hồi nào còn đi chài lưới, giờ này còn ở sông ở biển, mỗi khi có gió to bão lớn, sự sống chết như chỉ mành treo chuông, người thân trong gia đình đau đớn khổ sở, lo lắng thức suốt đêm cầu nguyện cho người thân mình tai qua nạn khỏi, bể lặng, sóng yên. Nỗi khổ tâm nhất với những người làm nghề giết hại chúng sanh là gia đình thường sống trong nỗi lo âu, bệnh tật tai họa hay xảy đến cho họ, nhưng họ nào biết được.
Đến với đạo Phật, thực hiện sống đúng lời dạy của Ngài, người nào chịu khó nghiệm xét sẽ thấy nhiều điều kiện may mắn đến với họ hơn là những tai họa. Hồi tưởng lại khi còn làm nghề nghiệp ác thường có nhiều sự tai biến bất an xảy ra cho gia đình nhưng họ không để ý, khổ thì cứ khổ, lo lắng thì cứ lo lắng, nhưng cuộc sống cứ thả trôi theo dòng đời ba chìm bảy nổi mãi mãi và mãi mãi. Nhưng khi bước chân vào đạo Phật, bằng sự thay đổi nghề nghiệp đúng như lời Đức Phật dạy, họ đã tìm được sự giải thoát khổ trong những hành động thiện. Chớ không phải chờ đợi mười năm hay hai ba chục năm sau mới thấy được sự giải thoát đó, giải thoát ngay liền khi chúng ta sống thiện, làm những điều thiện tức là không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh.
Có những người hiểu sự giải thoát của đạo Phật một cách lầm lạc, nghĩa là giải thoát của họ là cầu gì phải được nấy, muốn gì thì phải được toại nguyện nấy. Cái đó không phải sự giải thoát của đạo Phật, mà đó là sự chạy theo của lòng ham muốn và bị sự trói buộc thêm của vật chất thế gian, khiến đã khổ lại càng khổ thêm nhiều hơn nữa. Đạo Phật vốn buông ra để không khổ, từ bỏ lòng tham muốn để thoát ly sanh tử luân hồi. Đại khái các hành pháp của đạo Phật là như vậy, ôm vào thì sanh ác pháp, buông ra thì thiện pháp tăng trưởng.
Sống trong cảnh cơm ăn áo mặc đầy đủ, không giàu sang danh vọng to nhưng tâm hồn thanh thản biết đủ, an nhàn, ít muốn, thảnh thơi an lạc. Biết nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trước mọi cảnh, mọi người. Cái đó, không phải là giải thoát của đạo Phật sao? Tiền bạc, danh vọng, sắc đẹp, ăn uống, ngủ nghỉ, khen chê, sợ hãi, lo toan v.v… đều không làm động tâm thì đó chẳng phải là giải thoát sao?
Giải thoát của đạo Phật là nhằm vào chỗ tâm bất động trước mọi cảnh, mọi vật, mọi sự cám dỗ của cuộc đời và mọi sự cảm thọ đau đớn khổ sở vô tận của thân tâm, chớ không phải chỗ xuất hồn, nhập xác, ngồi Thiền năm bảy ngày, thọ hưởng hỷ lạc tưởng hay ngồi trầm tư mặc tưởng một thế giới siêu hình nào đó, nó cũng không phải thần thông phép lạ mà cũng không phải là kiến tánh thành Phật v.v... Đó là những thứ ảo giác, huyễn hoặc, giàu tưởng tượng làm mê hoặc lừa đảo tín đồ.
Nhờ có kết quả giải thoát thật sự như vậy; nhờ có tu tập tâm bất động được như vậy người ta mới tin đạo Phật, mới bỏ hết cuộc đời như Đức Phật đã dạy: "Cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, sống không gia đình, không nhà cửa, đời sống chỉ còn ba y một bát đi xin ăn mà thôi.” Nếu không kết quả thật sự như vậy thì chẳng còn ai dám theo đạo Phật vì cuộc sống của đạo Phật rất khổ (xa lìa ngũ dục lạc thế gian). Vả lại sự tu hành còn phải dày công và còn nhiều gian nan vất vả khác nữa.
Chẳng hạn như quý thầy hiện giờ đang tu Thiền Đông Độ suốt cả năm năm, mười năm, có người đã tu từ 15 đến 20 năm rồi mà vẫn chưa thấy giải thoát gì cả, kiến tánh rồi tiệm tu mà cứ tu mãi tu hoài, tu cho hết vọng tưởng và hằng ngày cứ ngồi thiền, ngồi đó mong giữ cho tâm hết vọng tưởng để làm Phật, nhưng khi hết vọng tưởng lại rơi vào vô ký và rơi vào những trạng thái hỷ lạc của tưởng. Khi thì như thế này, khi thì như thế khác, lúc được lúc mất, nhưng gặp việc thì tâm tham, sân, si vẫn còn chẳng mất, thấy danh lợi thì tâm vẫn còn tham, ăn uống phi thời, không đúng hạnh Thánh thì làm sao gọi là giải thoát được.
Từ bắt đầu tu tập ngồi 30 phút tăng dần đến một giờ rồi mười giờ, mười hai giờ nhưng vọng tưởng có lúc hết lúc không, có lúc rất an ổn, có lúc rất bất an, tiến tới thì không tới được nữa, lui thì rất uổng công. Trường hợp và hoàn cảnh tu tập này quý thầy có thối tâm hay không? Chỉ còn an ủi mình bằng những lời nói của các Tổ: “Tu phải trải qua nhiều kiếp”, có Tổ phải tu hai ba chục năm v.v…
Quý thầy nuôi hy vọng và tự an ủi mình: chắc có lẽ mình tu chưa đến nơi đến chốn, phải ráng tu thêm nữa. Mười năm qua nhìn lại, tâm nào tật nấy, tham, sân, si còn đủ, thôi thì phải ráng tu tập thêm. Hai mươi năm qua tu tập hết sức mình làm chủ sự sống chết thì chẳng thấy gì, mà cứ có ai động đến tâm thì tham, sân, si lại nổi lên ầm ầm, phiền não đau khổ vẫn còn, tu mãi tu hoài mà sao không hết được? Ngồi thiền bảy, tám tiếng đồng hồ cho đến mười một, mười hai tiếng đều được, nhưng ngồi một, hai ngày thì lại không được.
Tại sao vậy? Tại vì, không có pháp hành và tu tập không đúng pháp nên kết quả không có, tu tập dậm chân tại chỗ nhưng đã lỡ tu, lỡ dạy người khác, bây giờ biết ăn làm sao, nói làm sao, đó là những thầy lớn, nói ra thì mất danh mất lợi, nói ra khó nói quá, tiến thối lưỡng nan, thôi mặc kệ tới đâu hay tới đó, cứ nhắm mắt làm liều, còn các thầy nhỏ thì đã lỡ rồi, ra đời thì sợ người ta chê cười mà tu thì chẳng đến đâu, cứ dối gạt phật tử mà sống bằng cách thuyết giảng, nay kinh này mai kinh khác như trao đổi thực phẩm để người ta dễ ăn dễ nuốt, thường dùng những lối lý luận mơ hồ trừu tượng bằng những pháp huyễn pháp thoại ở đầu môi chót lưỡi, loanh quanh nghĩa lý nhai lại của các Tổ xưa có bấy nhiêu, cứ lặp đi lặp lại, thêm mắm dậm muối làm có vẻ mới mẻ để lừa đảo người, cho nên có người bảo: "Coi chừng bị lưỡi lừa của ông ta". Nhưng ai đã gõ cửa đúng của đạo Phật thì ngay đó có sự giải thoát liền, chiêm nghiệm được sự giải thoát đó một cách cụ thể.
Vả lại, khi bước chân vào đạo Phật chúng ta thấy sự tu tập rất cụ thể, giải thoát rõ ràng không có mơ hồ, vì pháp thiện và pháp ác ai cũng có thể dễ nhận ra. Nói như vậy có nghĩa là những người nào đã học xong đạo đức nhân quả thì mới dễ nhận ra pháp ác và pháp thiện. Tu hành của đạo Phật tức là sống, sống thiện là giải thoát, sống ác là đau khổ.
Đổi nghề nghiệp ác làm nghề nghiệp thiện, nếu biết tư duy quán xét là ngay liền có một tâm hồn yên vui, an lạc không những một mình mà cả gia đình. Nhất là những người biết thiểu dục tri túc thì sự yên vui hạnh phúc lại càng gia tăng gấp bội.
Những ai đã tin sâu nhân quả và đã học được đạo đức nhân bản – nhân quả thì sẽ chứng nghiệm phước báo rất rõ ràng, dù người đó không cầu mong điều gì, cứ hân hoan sung sướng làm việc thiện thì luật nhân quả sẽ đem phước báo đến cho họ và họ luôn luôn hưởng trọn đầy hạnh phúc của cuộc sống. Đối với những người này ác pháp đến với họ như nước đổ trên lá khoai môn.
5. ĐẠO VÀ ĐỜI
Muốn thành tựu được lòng tin tịnh tính sâu sắc, quý vị phải suy nghĩ cho kỹ và so sánh giữa cuộc sống "Đời" và cuộc sống "Đạo". Đời có cuộc sống theo Đời, Đạo có cuộc sống theo Đạo. Sự sống theo Đạo là đi ngược lại sự sống theo Đời, Đạo thì buông xả ra, Đời thì ôm lấy vào, cho nên quý vị đừng tưởng cuộc sống Đời và cuộc sống Đạo giống nhau.
Không! Hoàn toàn không! Không giống nhau một chút nào cả. Người tu sĩ đạo Phật có cuộc sống như thế gian, nghĩa là có vợ, có con, sống chạy theo danh lợi, ăn ngủ phi thời là những người cư sĩ trọc đầu chứ không phải là một vị tỳ-kheo xuất gia đệ tử của Đức Phật, họ diệt Phật giáo chết cũng giống như trùng trong lông sư tử sẽ diệt sư tử. Người tu sĩ Phật giáo sống như người thế gian ăn ngủ phi thời, không buông xả vật chất, tâm dễ dính mắc sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Ngũ triền cái luôn luôn che mờ trí tuệ họ, thất kiết sử thường trói buộc như dây xích sắt khiến họ khó vẫy vùng nên họ đã trở thành Ma Ba Tuần. Vì thế làm sao sống đúng Phạm hạnh ly dục ly ác pháp được? Làm sao nhập Tứ Thánh Định làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi được? Làm sao nhập Định Vô Lậu xả tâm diệt ngã chấm dứt khổ đau? Làm sao nhập Định Bất Động Tâm sống thanh thản an lạc và vô sự?
Nếu một người tu sĩ mà còn có lối sống như thế gian thì không thể nào tu hành theo đạo Phật được, đó là những kẻ mượn chiếc áo Phật giáo tìm miếng cơm để sống, sống như vậy là sống một cách hèn hạ, chỉ biết lừa đảo tín đồ mê muội để sống bằng mồ hôi nước mắt của người khác, thật là đáng khinh bỉ.
Có người lầm hiểu đạo Phật, cho rằng chỉ cần biết được pháp môn tu tập chớ không phải do sự sống đúng Phạm hạnh. Hiểu như vậy là hiểu sai, hiểu như vậy có nghĩa là sự sống và sự tu tập là hai lối khác nhau: niệm Phật, tụng kinh, bái sám, niệm chú, ngồi thiền trước điện Phật có ăn nhập gì vào cuộc sống đâu? Đó là cái hiểu về tu hành nông cạn của những người tâm còn tham đắm quá nhiều vật chất, đời không muốn bỏ mà đạo lại muốn thêm.
Đạo Phật vốn tu nghĩa là sống, sống biết sửa sai, sửa quấy những lỗi lầm, biết ngăn chặn không làm những điều ác, biết xa lìa mọi cám dỗ vật chất thế gian, biết tiết độ trong ăn uống ngủ nghỉ. Biết thiểu dục tri túc đối với đời sống, biết phòng hộ mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, biết giữ chánh niệm để tâm được thanh thản, an lạc và vô sự.
Lấy cuộc sống Đạo của những bậc chân tu đem so sánh với cuộc sống người thế gian, bên nào khổ, bên nào thoát khổ. Khi đã so sánh như vậy ta mới thấy đời sống con người thật khổ, khổ như thật, đời sống xuất gia tu hành phóng khoáng như hư không, không gì trói buộc được, không gì làm động đến tâm họ được. Khi đã thấu rõ cả hai cuộc sống ta mới quyết định chọn một trong hai con đường này. Nếu không so sánh không thể thấu rõ mà vội vàng chọn lấy con đường tu thì e rằng chúng ta nông nổi bồng bột, đến chừng vào Đạo đã trở thành một tu sĩ thì chừng đó tiến thối lưỡng nan.
Đời sống Đạo rất khó, không phải dễ như mọi người lầm tưởng. Rồi đây cuộc sống Đạo chẳng ra Đạo, Đời chẳng ra Đời, chết cũng dở, sống cũng dở. Lấy cuộc sống của mọi người mà suy ngẫm cuộc sống của mình. Đời sống trong gia đình đầy rẫy những triền phược, biết bao dây mơ rễ má trói buộc, biết bao nhiêu vật chất cám dỗ và lôi cuốn vào đường tội ác. Đường đời đầy dẫy ô nhiễm và uế trược, biết bao chông gai và hố thẳm của ác pháp đang chờ đón, càng suy ngẫm chúng ta mới thấy rằng, đời sống con người sinh ra là để khổ, khổ thật.
Chúng ta mới lớn lên chưa lập gia đình, đời còn tươi đẹp giống như một giấc mơ, ăn rồi đi học, chẳng lo nghĩ gì hết, đói no có cha mẹ lo, đến khi lớn lên một chút, biết ham muốn, biết xài tiền, biết ăn chơi vui đùa chớ chưa biết khổ là gì nên thường rủ rê bạn bè uống rượu, cờ bạc rồi đánh nhau, hoặc đua xe gắn máy, gây tai nạn giao thông, gãy chân, gãy tay, có khi mất mạng. Bây giờ mới thấy khổ nhưng cái khổ đó có thấm vào đâu.
Đến khi lập gia đình, chừng đó mới thấy cái khổ của đời sống con người: vợ con, tiền bạc, nhà cửa và những vật dụng tiêu thụ hàng ngày.
Khi cha mẹ còn sống, có thiếu hụt cái gì thì ông bà giúp đỡ cho, đến khi cha mẹ mất, chẳng còn ai giúp đỡ, tự mình phải lo lấy cuộc sống của mình, trên vai chất gánh nặng phải lo toan đủ thứ, thế mà vợ con đâu biết, nên đâu phải lúc nào cũng ngọt ngào với mình, vợ con cũng phải có những tư tưởng riêng, lối sống ưa thích riêng do những đặc trưng riêng biệt, mình cũng vậy. Cho nên sống với nhau đâu phải lúc nào cũng hợp nhau được. Do sự khác biệt đó nên trong nhà thường có sự lục đục, rầy rà trái ý nhau làm cho tâm mình bất toại nguyện, phiền não, chớ đâu phải sung sướng gì. Nếu không nhẫn nhục, tùy thuận với nhau thì gia đình là một địa ngục tại trần gian, càng tư duy suy nghĩ ta càng thấy đời sống khổ đau, quá khổ, không có gì là hạnh phúc nhưng nó lại trói buộc chặt hơn bất cứ một thứ gì. Chẳng hạn, đang sống chung với nhau có một người chết, thử hỏi những người còn sống có buồn khổ không?
Chắc chắn không ai là không đau khổ. Hai vợ chồng ngồi trong mâm cơm vừa ăn vừa nói chuyện hàng xóm, rốt cuộc gây gổ nhau thì thử hỏi có vui sướng gì không? Thấy thế, đời sống có vui sướng gì? Hai vợ chồng sống chung với nhau không tiền không bạc, vợ thì ham muốn cái này cái kia, do đó vợ chồng cãi cọ hờn giận nhau, thế mới biết đời khổ, khổ mọi điều, nhưng ở đời người ta đâu biết, đâu thấy cái khổ đó, người ta chỉ thấy cái ảo ảnh bề ngoài tưởng là hạnh phúc như đôi vợ chồng trẻ ngồi trên chiếc xe hơi bóng loáng, hoặc trên chiếc xe Honda, hình ảnh này thật là hạnh phúc nhưng lòng dạ họ đang khổ nào ai biết. Một người nghèo nói: "Tôi nghèo không có cơm ăn áo mặc, tôi quá khổ", nhưng người giàu có lại nói: "Tôi có tiền có bạc, tôi lại còn khổ hơn nữa, tôi ngủ không yên sợ trộm cắp.” Đó là mọi thứ khổ đau ưu não của cuộc đời.
Ở gần nhau con gà, con vịt, con chó, con heo qua lại đã xảy ra những trận gây gổ, làm náo loạn cả xóm làng, con cái chơi giỡn với nhau, vì bênh con đã xảy ra chuyện lớn, kẻ đi tù, người nằm nhà thương, còn hai gia đình thì hận nhau mãi, chuyện nhỏ mọn lặt vặt đó đã khiến cho đời người bất an, bất toại nguyện.
Nhìn lại, đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không, không có một vật gì trói buộc, không có một hoàn cảnh nào làm dao động tâm, tâm hồn rộng lớn như đất trời, bao dung tất cả mọi thứ, dơ xấu bất tịnh cũng chẳng buồn, tốt đẹp quý báu như vàng bạc ngọc ngà cũng chẳng mừng vui. Bởi vậy, thật khó cho những người còn sống ở trong gia đình không thể thực hiện sống theo pháp hạnh đầy đủ hoàn toàn, trắng bạch như vỏ ốc của những người xuất gia.
Đem so sánh giữa hai đời sống thế gian và xuất thế gian: đời sống thế gian suốt đời nô lệ cho vật chất, đời sống xuất thế gian hoàn toàn cởi bỏ ách nô lệ vật chất. Vì thế nên không còn một vật gì hết, chỉ còn ba y một bát, tối ngủ yên giấc không sợ trộm cắp gì cả, không sợ hư hao gì hết, bởi vì còn có gì nữa đâu mà hư hao, nhà cửa cũng không, gia đình cũng không, lấy gì mà sợ vợ đói con khát. Cuộc sống người xuất gia là như vậy nên tâm hồn an vui thanh thản và hoàn toàn hạnh phúc, tâm hồn trong trắng như vỏ ốc không có vật gì làm hoen ố, ác pháp không làm dao động được tâm. Họ sống độc cư, độc bộ, độc hành nhưng lại biết hòa mình trong mọi cuộc sống của người khác bằng đức nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng.
Từ chiếc áo của người cư sĩ chúng ta đem so sánh với chiếc áo của người xuất gia, ta nhận xét người cư sĩ tu theo đạo Phật hoàn toàn khó giải thoát như người xuất gia, chỉ giải quyết được cuộc sống bằng thiện pháp và không thể thực hiện được sự làm chủ sống chết bằng Thiền định.
Khi quán triệt cuộc sống Đời và Đạo ta mới thấu rõ người tu sĩ đạo Phật không thể sống theo dục lạc thế gian, không thể sống có vật chất tài sản được, phải xa lìa viễn ly tất cả, buông bỏ xuống hết, không chùa to tháp lớn, không ti-vi, tủ lạnh, không xe hơi, xe cúp, không điện thoại di động v.v… sống đời thiểu dục tri túc, ba y một bát, hằng ngày sống một bữa ăn, không ăn uống lặt vặt phi thời, đi khất thực nuôi thân, chẳng thân chẳng sơ với ai, chẳng tiền chẳng bạc, chẳng danh chẳng lợi, ai hỏi Đạo thì chỉ thẳng, chẳng nói, chẳng dạy điều mê tín gạt người. Vì thế cuộc sống Đời và cuộc sống Đạo không thể giống nhau được, giống nhau thì không phải Đạo.
Ở đây, trong tu viện có tu sĩ và cũng có cư sĩ, nam có, nữ có nhưng sự cân nhắc tu hành quả thật chỉ có buông bỏ mà quý vị chưa hoàn toàn buông bỏ sạch trong. Chúng tôi biết rất rõ quý vị nghe chúng tôi giảng để hiểu biết chớ sự thật tu hành để giải thoát cảnh trần lao đau khổ thì quý vị không đủ ý chí cương quyết và khả năng hành trì được.
Người có quyết tâm đi tìm sự giải thoát thì phải gan dạ, gọt bỏ râu tóc, mặc y áo xấu xa, cắt đứt dây mơ rễ má tình cảm với gia đình, cha mẹ, anh em chị em ruột thịt, vợ con và người thân quyến thuộc, lại còn phải bỏ tất cả tài sản của cải châu báu vàng bạc.
Có đoạn dứt được như vậy thì con đường thiền định của đạo Phật mới tu tập được, có tu tập được thiền định (Tứ Thánh Hiện Tại An Lạc Trú Định) thì mới làm chủ được sự sống chết, mới tịnh chỉ được các hành trong thân. Sự tu hành này nó không đơn giản mà phải tu tập hết sức.
Các thầy phải tự suy nghĩ, các hành đang hoạt động trong thân của chúng ta như: tim đập, gan, phèo, phổi, thần kinh đang hoạt động không ngừng nghỉ, hơi thở đang ra vô tự động, da đang bài tiết. Tất cả những sinh hoạt này đang tạo ra một sức sống cho thân mạng chúng ta. Thế mà tu tập Bốn Thánh Định chúng ta điều khiển làm cho nó ngưng hoạt động thì đây không phải là một việc dễ làm, nếu tâm của chúng ta chưa thanh tịnh, chưa ly dục ly ác pháp, còn thương, còn ghét, còn giận, còn hờn, còn tham muốn vật này vật khác, chưa đoạn lìa tình cảm thế gian thì chắc chắn quý thầy không thể thực hiện được, không thể làm chuyện vĩ đại này được.
Giáo lý của Đức Phật đã vạch ra con đường tu hành rất rõ ràng, lấy nhân quả làm nòng cốt đối tượng cho sự tu tập, vì thế thay đổi nghề nghiệp ác là hành động đầu tiên trau dồi thân tâm thiện (Chánh Nghiệp), kế đến chúng ta lần lượt tu tập những hạnh bố thí cúng dường để xả bỏ lòng ích kỷ hẹp hòi, để xa lìa lòng ham muốn nhiều của mình và hàng ngày còn trau dồi đức nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trong mỗi đối tượng, mỗi hoàn cảnh, mọi sự việc. Chính những sự tu tập này đã mang đến cho quý vị và gia đình một sự an vui hạnh phúc tuyệt vời.
Người cư sĩ chỉ cần tu tập bấy nhiêu đây cũng đủ đem lại một cuộc sống an lành hạnh phúc mà hầu hết mọi người trên thế gian này đều mơ ước, chỉ có những người chưa biết an phận thì con đường tu tập này không phù hợp. Nếu không có đạo Phật chỉ đường vạch lối giải thoát cho loài người thì loài người đi tìm hạnh phúc trong ảo tưởng, đó chỉ là một giấc mơ đẹp mà thôi.
Ở đây, chúng tôi xin lưu ý các bạn: Đời và Đạo không thể đi chung nhau một đường, mà hai nẻo rõ ràng. Đời là đau khổ, Đạo là giải thóat; Đời thì ôm vào tất cả, Đạo thì buông ra chẳng còn một vật.
Vì thế mà các bạn quan sát biết rõ người tu đúng và người tu sai, người nào tu theo đúng chánh pháp của đạo Phật; người nào tu sai lạc vào tà pháp của ngọai đạo thì các bạn không còn lầm người. Đó là Đạo và Đời đã xác định rõ như vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét