3/3/15

Dựng lại Chánh Pháp Như Lai Phần IV: GIỚI - ĐỊNH - TUỆ

Phần IV: Học Giới - Định - Tuệ 

TRỞ VỀ VỚI PHÁP MÔN GIỚI - ĐỊNH - TUỆ
(Giới - Định - Tuệ là con đường đạo đức Nhân bản - Nhân quả)


Sau khi đọc những tập sách “Đường Về Xứ Phật”, quý vị đã thấy rõ âm mưu thâm độc của Bà La Môn giáo có thâm ý từ xưa quyết tâm diệt Phật giáo trên hành tinh này nên đã khéo léo lồng giáo pháp của mình vào kinh sách của đạo Phật, để rồi biến Bà La Môn giáo trở thành Phật giáo phát triển bằng những bài kinh gạch nối trong các bộ kinh A Hàm, nhất là bộ kinh Tăng Nhất A Hàm để biến giáo lý chân chánh của đạo Phật thành giáo lý ngoại đạo.
Hiện giờ, giáo pháp phát triển đã được ăn sâu và ngự trị trong lòng tín đồ Phật giáo, nó trở thành một truyền thống bám chặt vào tư tưởng của con người theo kiểu cha truyền con nối (Tổ Tổ truyền nhau). Một truyền thống đã trở thành tập khí, thói quen mê tín, lạc hậu của con người khó bỏ được ngay liền.
Hiện giờ, thói quen mê tín và lạc hậu ấy đã ăn sâu vào tâm hồn của mọi tín đồ Phật giáo khiến cho người ta rất khó bỏ và có muốn bỏ đi cũng rất sợ tội đọa địa ngục, vì trong kinh sách phát triển đã hù dọa người ta như vầy:
Nếu phật tử nào có tâm quan niệm trái bỏ kinh luật phát triển thường trụ, cho rằng không phải của Phật nói mà đi thọ trì kinh luật tà kiến và tất cả các giới của Thanh Văn, Nhị Thừa cùng ngoại đạo ác kiến, phật tử này phạm khinh cấu tội.
Đó là những lời hăm dọa trong Bồ Tát giới “Phạm Võng” đã in thành sách do Hòa Thượng Trí Tịnh lược giảng, câu kinh trên ở trang 144. Đây là những bằng chứng rất cụ thể được in thành kinh sách giấy trắng mực đen thì không còn ai muốn bao che sự gian ác của kinh sách phát triển được.
Cuối cùng, Bà La Môn giáo quét sạch kinh sách Phật giáo chân chánh với chiêu bài “Phật Di Lặc là Giáo chủ Phật giáo thời vị lai.” Như thế, người ta thay đổi Giáo chủ của một tôn giáo như thay đổi một nhà vua trong thời phong kiến mà tất cả tín đồ Phật giáo không hề hay biết mà vẫn còn ủng hộ đấng Giáo chủ này, thật là Bà La Môn giáo rất khéo léo trong việc thay thế đức Phật Thích Ca Mâu Ni bằng Phật Di Lặc.
Chúng ta cũng thấy rất rõ ràng, trước khi muốn lật đổ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người ta đã lần lượt thay thế giáo lý của đức Phật Thích Ca Mâu Ni bằng những giáo lý của Bà La Môn và còn chế ra giới luật Bồ Tát giới, cấm tín đồ Phật giáo không được tu học theo giáo pháp nguyên gốc của Phật dạy. Vì sợ mọi người tu học theo giáo pháp này thì giáo pháp phát triển sẽ bị lộ tẩy những điều sai.
Kinh sách phát triển đã biến Phật giáo thành ba tông phái lớn ở khắp thế giới:
1- Thần giáo (Tịnh Độ Tông)
2- Huyền bí giáo (Mật Tông)
3- Hữu ngã giáo (Thiền Tông)
Với mục đích thâm độc đưa ra ba Tông phái như ba mũi tên độc nhắm bắn vào một mục tiêu là “tín đồ Phật giáo”. Cho nên toàn thể tín đồ Phật giáo không thể có một người nào thoát khỏi ba mũi tên độc này, nếu không bị mũi tên này thì lại dính mũi tên kia. Bằng chứng, tất cả tín đồ Phật giáo hiện giờ không tu Tịnh Độ thì lại tu Thiền Tông, không tu Thiền Tông thì lại tu Mật Tông.
Ba tông phái này chiếm trọn tín đồ Phật giáo. Còn Phật giáo chính gốc Nguyên Thủy thì chẳng còn ai tu nữa, mặc dù họ biết giáo lý Nguyên Thủy (gốc) của đức Phật rất rõ ràng nhưng họ chẳng quý trọng mà lại còn có vẻ xem thường, vì giáo lý đó mang tên rất thấp kém “Tiểu thừa, Nhị thừa, Phàm phu thiền, Ngoại đạo thiền”.
Những tín đồ bình dân ít học và phụ nữ thì lại rơi vào Tịnh Độ mê tín, cúng bái, cầu khẩn, tụng kinh, niệm Phật, xin xăm, bói quẻ, cầu siêu, cầu an, cúng sao, giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu, làm ma chay, cúng vong, tiễn linh, làm tuần, mở cửa mả v.v...
Những tín đồ ham mê thần thông, những sự huyền bí linh hiển thì lại rơi vào Mật Tông, chuyên bắt ấn, niệm chú, luyện bùa, trị bệnh tà ma, quỷ quái, đàng Dưới, đàng Bố, bà Thủy, Long Vương v.v...
Những tín đồ ham mê thiền định có tính cách thiết thực, cụ thể và khoa học hơn nên họ thoát ra khỏi sự mê tín dị đoan, lạc hậu của Tịnh Độ Tông và thần thông huyền bí, bùa chú của Mật Tông Tây Tạng thì họ lại rơi vào Thiền Tông bằng cách tọa thiền thọ hưởng các trạng thái của dục tưởng trừu tượng, không thực tế mà các vị thiền sư Đông Độ và các vị thiền sư Nam Tông hiện giờ đang say mê tu tập.
Các thiền sư Nam Tông mặc dù họ đang học tu theo giáo pháp Nguyên Thủy nhưng lại tu sai lời Phật dạy, lấy hơi thở hoặc dùng cơ bụng (phình xẹp), hoặc tập trung chú ý quá sức vào các hành động ngoại thân như đi, đứng, nằm, ngồi, mặc y, mang bát, ăn, uống, v.v… ức chế tâm quá độ làm cho sáu thức ngưng hoạt động để rồi tưởng thức hoạt động, khiến cho thân tâm sanh cảm giác “xúc tưởng hỷ lạc”. Các sư lầm tưởng đó là trạng thái hỷ lạc của thiền định nên cố giữ và ôm chặt các trạng thái hỷ lạc tưởng thức, gặp trạng thái này các sư đều bị chết chìm trong pháp định tưởng này.
Lối tu như vậy, các sư Nam Tông do không có thiện hữu tri thức có kinh nghiệm nhập Bốn Thánh Định và Tam Minh hướng dẫn nên lạc vào thiền tưởng giống như Thiền Đông Độ. Chứng minh cụ thể như thiền sư Nam Tông A Chaan - Chah (Thái Lan) trả lời những câu hỏi đạo, ngôn ngữ ngài giống như thiền sư Đông Độ.
Thiền Tông xây dựng một giáo lý tưởng tượng tuyệt đối “Bản thể vạn hữu” còn gọi là “Phật tánh” với những lý luận khéo léo khiến cho các nhà khoa học lầm tưởng đó là khoa học tâm linh.
Nhưng đó chỉ là những mánh khóe lừa đảo giới trí thức và các nhà khoa học. Vì thế, sự tu hành của họ cũng chẳng đi đến đâu cả, có nghĩa là họ chưa làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người.
Giới đức của một bậc thánh Tăng, các vị thiền sư này sống chưa đủ đức hạnh thánh và đôi khi họ cũng còn có những hành động phàm phu tục tử như những người khác. Tại sao chúng ta biết như vậy?
            Xét giới luật của đức Phật dạy, về đạo đức làm người và làm thánh thì họ có những hành động đều phạm giới luật, mà lại phạm vào những giới luật làm người, làm thánh Tăng.
            Ví dụ như giới cấm một vị tu sĩ không ăn uống phi thời, thế mà các vị đều ăn uống phi thời. Nếu phân tích giới này ra chúng ta thấy rất rõ:
1- Loài thú vật không có đạo đức nên ăn uống phi thời, ăn uống không có giờ giấc, ăn uống lặt vặt, lúc nào có cũng ăn được.
2- Con người có đạo đức hơn, không ăn uống lặt vặt phi thời, ăn uống có giờ giấc, có bữa ăn hẳn hoi, ngày ba bữa hoặc hai bữa ăn, ăn uống có tiết độ. Còn những người ăn uống lặt vặt, ăn uống phi thời, lúc nào cũng ăn uống được là loài cầm thú, vô đạo đức về ăn uống, không phải là con người.
3- Vị tỳ-kheo Tăng và vị tỳ-kheo Ni là thánh Tăng và thánh Ni thì ăn uống ngày một bữa vào giờ trưa (ngọ). Nếu ăn uống phi thời như người phàm phu, như loài cầm thú tức là còn tham ăn, tham uống, còn sợ thân này thiếu chất bổ dưỡng, còn thích ăn ngon, thích ăn theo ý của mình thì không thể gọi những người này là thánh Tăng và thánh Ni được, dù họ có thần thông phép tắc, tàng hình, kêu mây, gọi gió, v.v… hoặc ngồi thiền năm bảy ngày, triển khai những thứ thần thông tưởng để lừa đảo người nhẹ dạ thì chính họ là những ác quỷ chứ không phải là con người và súc sanh nữa.
Dù họ là nhà học giả có trình độ kiến thức thông suốt tam tạng kinh điển, có bằng tiến sĩ Phật học mà sống phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới của Phật, họ sống không đúng đạo đức làm thánh Tăng, thánh Ni thì không được xem họ là những người nhập lưu vào dòng thánh của đạo Phật, họ chỉ là những người còn đứng ngoài cổng chùa.
Đơn giản chỉ có một giới luật như vậy mà chúng ta đã nhận ra thánh, phàm, súc sanh và ác quỷ, còn biết bao nhiêu giới luật dạy về những đức thánh mà quý vị tỳ-kheo Tăng và tỳ-kheo Ni đã vi phạm rất nhiều thì làm sao gọi là nhập lưu vào dòng thánh  của đạo Phật được.
Bà La Môn giáo xếp loại Phật giáo Nguyên Thủy là Tiểu Thừa, là Nhị Thừa, là ngoại đạo, còn ba tông phái Thiền, Tịnh, Mật được gọi là Đại Thừa, Tối Thượng Thừa và còn mạo nhận là giáo lý chơn chánh của đạo Phật để dễ bề lừa đảo và đưa tín đồ Phật giáo vào con đường mê tín, lạc hậu, phi đạo đức v.v...
Hiện giờ quý vị đã thấu rõ đâu là giáo pháp của đức Phật, đâu là không phải, nhưng chắc gì quý vị đã tin chúng tôi. Cho nên những gì chúng tôi nói, quý vị cứ suy ngẫm, đừng vội tin, đúng thì tin, không đúng thì thôi, miễn sao quý vị tu hành được giải thoát là chúng tôi hoan hỷ vui mừng.
Trong thế gian này ai là người đã tu theo đạo Phật, sống đúng giới hạnh, đạt được chân lý cứu cánh, nhập Bốn Thánh Định, thực hiện Tam Minh. Nếu quan sát nhìn chung khắp trên thế giới chưa có một người nào thực hiện được thì làm sao dạy tu tập theo đường lối của đạo Phật cho đúng được. Hầu hết đều dạy tu hành sai theo kiến giải, tưởng giải của mình, đó là cách thức tu mò chứ không đúng như lời của đức Phật đã dạy trong các kinh vì không có kinh nghiệm tu hành đúng như pháp và tu đến nơi, đến chốn.
Cho nên thầy trò truyền nhau mà chẳng có người nào tu đến đâu cả, chỉ dậm chân tại chỗ rồi lý luận nào làBồ Tát còn tạp khí; nào là tùy duyên tiêu cựu nghiệp; nào là thấy các pháp như mộng như huyễn (Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng như bào ảnh v.v…), nào là thấy sáu trần như hoa đốm giữa hư không, v.v... đó là những danh từ lý thuyết suông mà thôi, chẳng có pháp hành nên khó thực hiện được giải thoát.
Tất cả những tập “Đường Về Xứ Phật” được đến tay quý vị và sẽ chia ra làm ba nhóm phật tử:
1- Nhóm thứ nhất cho chúng tôi còn mang bản ngã, tự cho mình là trên hết không còn ai tu hơn mình, theo như kinh sách phát triển dạy: “Người còn thấy mình tu chứng quả A-la-hán là chưa chứng quả A-la-hán; người mà hay chống đối các pháp môn khác là người chưa chứng đắc; người còn thấy cái sai cái đúng, chưa vô phân biệt là người chưa chứng đắc”.
2- Nhóm thứ hai là nhóm trung lập, ý của nhóm này khuyên chúng tôi không nên nói thẳng quá, đừng nói cái sai của người khác mà hãy nói cái gì mình đã tu và thực hành được, đừng động đến kẻ khác, chỉ dạy những gì mình biết, còn sai đúng mặc kệ họ.
3- Nhóm thứ ba, nhóm này chấp nhận và nhận xét những lời chúng tôi nói là đúng. Những cái sai không hợp lý trong kinh sách phát triển rất nhiều: những điều mê tín, những điều phi đạo đức và những lý luận lừa đảo lường gạt tín đồ không thể kể hết được. Cái lợi ích của kinh sách phát triển giúp cho mọi người thì ít, mà tai hại cho người đời thì rất nhiều nhưng khéo che đậy bưng bít khiến mọi người khó thấy được.
Cho nên, có nhiều người lầm tưởng giáo pháp kinh sách phát triển làm lợi ích cho xã hội. Nhưng sự thật không phải vậy, đó chỉ là những bức màn “Tứ Nhiếp Pháp” khéo che đậy, những thủ đoạn gian xảo, lừa đảo của giáo pháp này là để quyến rũ mọi người theo tôn giáo của mình đông đảo biến thành một lực lượng phục vụ và quên mình lăn xả, dám hy sinh cho những sự mê tín lạc hậu này. Còn làm việc từ thiện của Đại Thừa giáo có sự tích cực, đó chỉ là một hành động thế tục hóa theo trào lưu xã hội mà thôi.
Con người biết lợi dụng giáo pháp này cũng dễ làm giàu không mấy khó khăn. Bằng chứng quý thầy hiện giờ là những phú Tăng “Triệu phú, tỷ phú” chứ không còn là bần Tăng đi xin ăn như thời đức Phật. Khi được đọc những gì chúng tôi đã nói và nói thẳng thì những người chịu ảnh hưởng kiến chấp và ngoan cố của giáo pháp của kinh sách phát triển sẽ dùng những lý luận bưng bít che đậy mà giáo pháp này đã vạch sẵn từ lâu để phản ứng lại và giãy giụa trong những giờ phút hấp hối của nó khi người ta phát giác.
Dù cho các nhà kinh sách phát triển có luận như thế nào? Có khéo che đậy như thế nào thì sự thật vẫn là sự thật, như Hòa thượng Minh Châu đã nói: “Chơn lý vẫn là chơn lý”. Dù ai có nói gì thì chơn lý cũng vẫn phải là chơn lý; cái sai vẫn là cái sai, khi đã không đúng, dù muốn đúng cũng không thể đúng được. Vì đúng, phải có sự chứng minh cụ thể làm chủ được bốn sự đau khổ của kiếp người: sanh, già, bệnh, chết. Phần đông, các thiền sư trong giai đoạn hiện giờ thuyết giảng lung tung, nói đông, nói tây mà chẳng biết cách nào làm chủ sanh, già, bệnh, chết.
Nếu bảo rằng “vô ngã” như trong kinh sách phát triển đã dạy thì đức Phật đâu không tự xưng: “Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn”. Nếu bảo rằng “vô ngã” như trong kinh sách phát triển thì đức Phật không tự xưng như bài kệ đây:
Trên trời dưới trời.
Khắp trong thế gian.
Con người duy nhất.
Vượt qua: Sanh, già, bệnh, chết”.
Còn nếu bảo rằng còn thấy cái sai cái đúng thì chưa chứng đắc thì tại sao đức Phật lại bài bác sáu mươi hai luận thuyết của ngoại đạo là những tôn giáo đồng thời và trước đạo Phật. Ngài là giáo chủ của đạo Phật, là người chứng quả A-la-hán mà Ngài lại bài bác như vậy thì Ngài là người “hữu ngã” sao? Tại sao Ngài lại tuyên bố đạo Phật là “đạo Vô Ngã”? Có mâu thuẫn chăng? Chúng tôi xin trả lời để quý vị không còn thắc mắc hữu ngã và vô ngã.
Đạo Phật chủ trương lấy thiện, diệt ác, lấy đạo đức nhân quả làm cuộc sống của mình không làm khổ mình, khổ người. Từ chỗ này chúng ta suy ra để thấy đạo Phật không mâu thuẫn “Vô ngã ác pháp, chứ không phải vô ngã thiện pháp”. Nếu chúng ta tu hành vô ngã cả thiện pháp lẫn ác pháp thì hóa ra chúng ta là cây, là đá; cây, đá là một loại vô tri, vô giác, đó là cái “vô ngã” của kinh sách phát triển chứ đạo Phật không có vô ngã như kiểu đó.
Vả lại đức Phật dạy chúng ta quán Tứ Niệm Xứ: “Vô thường, khổ, không, vô ngã”. Chữ vô ngã ở đây chỉ cho chúng ta thấu rõ thân, thọ, tâm, và pháp không có ngã, tức là trong bốn chỗ này không có cái gì là ta, của ta. Các nhà học giả đã lầm chỗ pháp hành để ly dục ly ác pháp nhập Sơ Thiền cho là “đạo Phật vô ngã”.
Nếu chúng ta tu hành để trở thành cây đá thì chúng ta tu để làm gì? Cái vô ngã đó chỉ là một lý luận suông danh từ chữ nghĩa chứ đã là con người thì không thể tu tập đạt kết quả vô ngã như vậy được, đó là một triết thuyết của tưởng thức như bao nhiêu triết thuyết khác mà các nhà triết học đã đưa ra như: Triết học hiện sinh của Krishnamurti, Triết học vô sản của Karl Marx v.v...
Còn bảo rằng ai làm sai mặc kệ họ, không nên nói ai hết thì mới gọi là người tu chứng. Những phật tử trung lập này họ hiểu rằng, khi tu hành chứng đạo là không được quyền phê phán, bài bác cái sai, cái tai hại lừa đảo, gian xảo, lường gạt mọi người bằng những thủ đoạn gian ác không lường trước được, bằng chứng giáo pháp phát triển đã dạy người bao nhiêu thứ mê tín, lạc hậu, phi đạo đức, làm hao tốn tiền của, mồ hôi nước mắt của tín đồ quá nhiều mà chẳng ích lợi gì cho họ.
Thưa quý vị, chúng tôi tu chứng là để thấy được cái sai, cái đúng của mình để sửa đổi làm cho tốt, cho thiện hơn và thấy được cái sai của Phật giáo là một tôn giáo mà chúng tôi đang theo tu, để chúng tôi chỉnh đốn lại, gạt bỏ những cái sai để làm ích lợi cho mọi người đang và sẽ tu theo đạo Phật, chứ không phải tu chứng để làm thinh như cây đá, Phật giáo sai đúng như thế nào cũng chẳng dám nói ra.
Tu chứng như vậy là tu chứng cái gì? Trong lúc tín đồ Phật giáo đặt trọn niềm tin ở quý thầy tu hành chứng đắc để làm gương sáng đạo đức và dạy họ tu hành thiền định để tiến bước trên đường giải thoát của đạo Phật.
            Tu hành chứng đắc tức là người đã biết đường lối đi đến nơi đến chốn, thế mà thấy mọi người tu sai, không biết đường lối đi mà lại làm thinh không chỉ lối cho kẻ khác đi thì người tu hành đó có tốt bụng không? Có tâm từ bi không? Có thương người lạc lối đang đi sai đường gặp nhiều hiểm nguy trong rừng thẳm âm u chăng?
Trước mắt chúng ta đang thấy rõ ràng, tất cả tín đồ Phật giáo hiện giờ chẳng tiếc công, tiếc của, sẵn sàng bỏ công, bỏ sức, bỏ của để xây dựng một Phật giáo chân chánh và cao quý, nhưng không ngờ lại lầm lạc xây dựng một Phật giáo mê tín, lạc hậu, lừa đảo, phi đạo đức v.v... Người đã tu chứng đắc thấy biết đúng sai rõ ràng mà nỡ đành lòng nào nhìn ngó những tín đồ Phật giáo như vậy sao?
Xưa đức Phật đã từng bài bác cái sai của Lục Sư ngoại đạo, của Bà La Môn giáo khiến cho mọi người mới thấu rõ đâu là chánh pháp, đâu là tà pháp. Còn bây giờ, chúng tôi muốn chỉnh đốn lại những điều không đúng của đạo Phật, cái gì của đạo Phật là phải của đạo Phật, không phải là phải loại trừ ra khỏi đạo Phật thì quý vị bảo rằng chúng tôi bài bác, tự xem mình là trên hết, tức là còn mang bản ngã, còn mang bản ngã tức là chưa chứng.
Ở đây, chúng tôi không hiểu quý vị muốn nói chứng đắc là chứng đắc cái gì. Riêng chúng tôi chẳng thấy có chứng đắc gì cả.
Trên đường tu hành theo đạo Phật, chúng tôi chỉ thấy mình luôn luôn sửa sai những hành động thân, miệng, ý để từ những hành động sai đó không còn làm khổ mình, khổ người nữa, có được những hành động như vậy thì chúng tôi thấy tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự.
Tâm chúng tôi như “cục đất”. Chùa to, Phật lớn không cám dỗ chúng tôi được; danh lợi, ăn ngủ, sắc dục không lôi cuốn được chúng tôi, còn bảo rằng chúng tôi chưa vô ngã thì chúng tôi vẫn thấy mình còn nguyên vẹn, có mất mát chỗ nào đâu mà gọi là vô ngã.
Chúng tôi nói những điều sai trái không đúng của Phật pháp trong kinh sách phát triển là vì giáo pháp này đã từng lừa đảo, lường gạt thầy Tổ của chúng tôi nhiều đời, nhiều kiếp, bỏ biết bao nhiêu công lao mồ hôi, nước mắt của các ngài để rồi các ngài gặt hái được những gì, “giải thoát” hay lại phải chết trong đau khổ?
Chúng tôi nói là vì ích lợi cho những người trong hiện tại đang bị lừa gạt và sẽ phí uổng một đời tu hành của họ chẳng đi đến đâu cả.
Chúng tôi nói là vì những thế hệ con người mai sau, và để con cháu của chúng ta tránh khỏi những cặm bẫy ác nghiệt của kinh sách phát triển. Nó không dạy chúng ta đạo đức làm người, đạo đức làm thánh nhân mà dạy chúng ta những điều phi đạo đức, những pháp môn mơ hồ, huyền bí, cao siêu để làm Phật, Thánh, Tiên v.v...
Trong khi chúng ta đang cần có một đạo đức làm người không làm khổ mình, khổ người, thì Phật giáo Nguyên Thủy đã có đầy đủ những pháp môn dạy về đạo đức, như vậy thì kinh sách phát triển đã dìm mất đi và biến nó trở thành một thứ đạo đức nhân quả mê tín, tạo ra cảnh địa ngục hù dọa tín đồ để lường gạt tín đồ bằng cách cúng bái, cầu xin v.v...
Mục đích của đạo Phật ra đời là nhằm giải quyết bốn sự khổ của kiếp làm người, tức là giải quyết giúp tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ, chứ không phải đi tìm một “Phật tánh cao siêu tuyệt vời”. Vì thế pháp môn của đạo Phật là pháp môn toàn thiện, mà pháp môn toàn thiện là pháp môn dạy đạo đức không làm khổ mình, khổ người, tức là đạo đức nhân quả. Quý vị đừng lầm đạo đức nhân quả của đạo Phật là đạo đức mê tín của kinh sách phát triển.
Kinh sách phát triển đã từng xây dựng đạo đức nhân quả mê tín để lừa đảo và lường gạt những tín đồ nhẹ dạ mê tín, lạc hậu, u mê, v.v… để biến thành một nghề “thầy tụng và phù thủy”.
Người tu theo Phật giáo Nguyên Thủy đã thực hiện được đạo đức nhân quả là người đã ly dục ly ác pháp; người đã ly dục ly ác pháp là người nhập Sơ thiền; người đã nhập được Sơ thiền là người nhập được bất động tâm định; người đã nhập được bất động tâm định là người đã sống trọn vẹn đạo đức nhân quả, tức là sống toàn thiện.
Chính nơi đây chúng ta đã đạt được mục đích của đạo Phật: “Ly dục ly ác pháp”. Đó là kinh sách Nguyên Thủy đã từng dạy như vậy, còn kinh sách phát triển lại dạy khác hơn: “Kiến tánh thành Phật”, chỉ thấy tánh mới thành Phật, còn không thấy tánh thì chưa thành Phật.
Tu theo đạo Phật, qua sự hiểu biết nông cạn của chúng tôi, chẳng phải tu để làm Phật mà để được thoát ra khỏi bốn sự đau khổ của kiếp làm người. Khi chúng tôi tu đến đây, chúng tôi biết rõ tâm mình bất động trước các pháp. Dù trong hoàn cảnh nào chúng tôi vẫn thấy tâm mình an vui và thanh thản vì đã sống một đời sống đạo đức không làm khổ mình, khổ người.
Như thế chúng tôi cũng hạnh phúc lắm rồi, chúng tôi không dám đòi hỏi những cái cao siêu huyền bí hơn, làm Phật, Thánh, Tiên v.v… Và cũng không dám mơ thần thông phép tắc, tàng hình biến hóa, kêu mây, gọi gió, biết chuyện quá khứ, vị lai v.v...
Còn hiện giờ ai muốn nghĩ về chúng tôi như thế nào cũng được, khen chúng tôi không mừng, chê chúng tôi không buồn vì biết khen chê đó là ác pháp, là pháp làm khổ mình, khổ người.
Chúng tôi đã sanh ra làm người, mà làm người như thế nào có ích cho mình, cho người thì chúng tôi làm, còn những điều gì lừa đảo, lường gạt và làm hại người khác thì chúng tôi không làm, dù có chết chúng tôi cũng vẫn không làm. Không làm không phải chúng tôi sợ quý vị chê cười, mạt sát, mạ nhục, chỉ trích v.v…
Còn chúng tôi làm, không phải vì những lời khen của quý vị hoặc vì danh, vì lợi do sự cúng dường của quý vị. Chúng tôi làm vì con người cần phải có một nền đạo đức công lý, công bằng và bình đẳng, cho nên trước chông gai khó nhọc, gian khổ, nhọc nhằn, dù cho có cay đắng dường nào, có vất vả đến đâu, có nguy hiểm tánh mạng như thế nào thì chúng tôi cũng chẳng sờn lòng vì sống và làm đúng đạo đức và lẽ phải.
Còn những người chưa hiểu chúng tôi, chê trách chúng tôi, nói xấu chúng tôi, chúng tôi chẳng bao giờ hờn giận họ, vì họ chưa hiểu việc làm của chúng tôi, mặc họ nói gì cũng được, dù họ có thù oán chúng tôi, đạp bằng địa cái mảnh đất Trảng Bàng hoặc đốt sạch cái rừng Trảng Bàng này thì chúng tôi cũng chẳng hề phiền trách họ, vì họ đã hiểu lầm việc tu hành và việc làm của chúng tôi mà thôi.
Điều mơ ước của chúng tôi là làm sao đem đạo đức nhân quả đến từng mọi người để mỗi người không còn làm khổ mình, khổ người nữa, thì đó là niềm vui và sung sướng nhất của chúng tôi.
Chúng tôi mong rằng, ngày nào mọi người trên hành tinh này luôn luôn sống đối xử với nhau bằng đạo đức nhân bản - nhân quả với lòng thương yêu và biết tha thứ cho nhau những lỗi lầm, không còn hành động vì mình mà làm khổ mình, khổ người, để mọi người được an vui, hạnh phúc và không bao giờ còn thấy con người còn mang bản chất loài cầm thú hung ác.
Nếu được như ước vọng của chúng tôi thì cuộc sống con người trên hành tinh này là đang sống nơi cõi Cực Lạc, Thiên Đường và sự ước mơ của con người đã thành sự thật, không còn là một giấc mộng.
Sau cùng, mong rằng chúng tôi có nói những lời nói sơ sót nào không vừa ý và bất toại nguyện của quý vị thì xin quý vị vui lòng tha thứ và chỉ dạy cho những chỗ sai lầm ấy để kỳ tái bản sau, những tập sách này sẽ được hoàn chỉnh hơn. Hẹn gặp lại quý vị sau!

Kì 1: Học Giới – Định – Tuệ (Mở đầu - 1)

BÀI MỞ ĐẦU
Hôm nay là buổi học đầu tiên về Chánh Pháp Như Lai (đường lối tu tập của đạo Phật Nguyên Thủy), xin quý thầy và quý phật tử chắp tay lên niệm hồng danh đức Phật:
“Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni” (3 lần).
Đây là những bài học đạo đức nhân bản - nhân quả làm người, nó được mọi người có đủ duyên rèn luyện tu tập từ khi có đạo Phật xuất hiện trên hành tinh này. Đấng Giáo Chủ Đạo Phật được người đời sau tôn xưng là Đức Thích Ca Mâu Ni. Người đã tự tu, tự chứng và đã giác ngộ đạo lý nhiệm mầu, thật sự làm chủ sanh, già, bệnh, chết. Đó là một sự giải thoát ra khỏi kiếp sống của con người đầy dẫy đau khổ và luôn luôn nối tiếp mãi trong kiếp luân hồi sanh tử không bao giờ dứt.
Đạo Phật đã có mặt trên trái đất này từ 2541 năm cho đến nay (1997), nhưng nếu chúng ta chịu khó nghiên cứu kỹ về kinh sách và lịch sử của đạo Phật theo kinh tạng Nguyên Thủy thì đạo Phật chỉ có tồn tại được một trăm năm mà thôi.
Chúng ta đừng dựa vào kinh sách phát triển và lịch sử huyền thoại của Đại Thừa do các Tổ biên soạn theo kiến tưởng giải thì không đúng như kinh sách và chánh sử của Phật giáo. Xin các bạn lưu ý điều này. Nếu các bạn cứ tin vào kinh sách và lịch sử phát triển của Đại Thừa thì vô tình các bạn đã tiếp tay với các Tổ Đại Thừa mà diệt Phật giáo, làm cho nền đạo đức của Phật giáo bị mất gốc.
Khi đức Phật còn tại thế thì chúng tỳ-kheo tu tập đúng chánh pháp. Còn từ khi ông A Nan mất, và về sau này chúng tỳ-kheo đều tu sai pháp của đạo Phật (Ông A Nan là người đệ tử trực tiếp sau cùng của đức Phật nhập diệt). Vì thế, không còn người tu chứng lái con thuyền Phật giáo vững vàng nên các Tổ Bà La Môn tự tung, tự tác kết tập và biên soạn kinh sách theo kiến giải, tưởng giải của mình, không có một chút kinh nghiệm tu chứng, nên kinh sách phát triển Đại Thừa biên soạn theo kiểu thế tục hóa mê tín dân gian.
Cho nên khi các Tổ tu chưa chứng mà đi truyền đạo đến các nước khác thì bị các tôn giáo khác đồng hóa. Vì thế, kinh sách phát triển Đại Thừa là một loại kinh sách tưởng tạp nhạp.
Tuy vậy, một trăm năm đầu ấy, ngay từ khi đức Phật còn tại thế, chúng tỳ-kheo đã có nhiều người sống không đúng Phạm hạnh, không ly dục ly ác pháp “nên đức Phật buộc lòng phải chế giới bổn Patimokha để ngăn cấm, nhưng từ khi có giới bổn ra đời thì chúng tỳ-kheo lại càng vi phạm nhiều hơn”. (đoạn kinh này do lý giải của các Tổ trong các kinh Đại Thừa).
Riêng chúng tôi nghiên cứu kinh sách Nguyên Thủy thì không phải vậy. Vì bộ kinh giới Sa Môn Quả, Đức Phật đã dạy đầy đủ giới luật, không có thiếu một giới nào cả: “giới cấm, giới đức, giới hạnh và giới hành” trong kinh Trường Bộ tập 1 thuộc tạng kinh Nikaya – Pali.
Chỉ có giới cấm sau này các Tổ biên soạn ra và gán cho Phật chế ra. Trong bộ giới cấm của các Tổ, chúng ta thấy có nhiều chỗ sai lầm rất lớn như: Đức Phật là một người tu chứng đầy đủ trí tuệ, thế mà chế giới ra, giới luật lại được sửa đi, sửa lại năm lần bảy lượt. Các bạn thấy như vậy có đúng không? Còn trong kinh Sa Môn Quả, đức Phật chỉ thuyết giảng Thánh Hạnh quả của người tu sĩ Phật giáo cho vua A Xà Thế nghe có một lần chứ không bao giờ sửa đi sửa lại. (Do điều này mà chúng ta biết bộ giới cấm là do các Tổ biên soạn viết ra).
Đến khi đức Phật thị tịch, các vị đại đệ tử của Người không đủ uy đức điều khiển với một số chư Tăng quá đông đảo (1250) vị tỳ-kheo. Vì thế, sau khi trà tỳ đức Phật xong, các vị đại đệ tử của đức Phật, nhất là ông Ca Diếp đã trực tiếp nghe một số chúng tỳ-kheo vui mừng khi hay tin đức Phật nhập diệt.
Sau khi đám tang xong, ông vội vàng mở cuộc họp, thiết lập cuộc kết tập kinh luật lần đầu tiên để lấy đó làm giềng mối cho đạo Phật ở ngày mai.
Từ khi đức Phật nhập diệt, kinh luật đã được thiết lập theo các Tổ, nhưng mầm mống chia rẽ và phá giới phạm giới đã có từ lúc đức Phật còn tại thế. Cho nên, ít ai còn giữ gìn và sống đúng giới hạnh. Đến khi ông A Nan tịch thì không còn ai có đủ quyền lãnh đạo nên lần lượt chư Tăng chia thành nhiều bộ phái (20 bộ phái) và mỗi bộ phái tự kiến giải kinh luật riêng của bộ phái mình. Do đó, kinh sách phát triển của đạo Phật càng ngày càng tăng lên rất nhiều.
Chính những kinh sách này dẫn đến lìa xa đạo Phật (mất gốc). Người tu sĩ đạo Phật sống không còn đúng Phạm hạnh, tâm không ly dục ly ác pháp được nên thiền định tu hành chẳng có kết quả, nhập định chẳng được, phần đông rơi vào tà định. Vì thế, thời nay ít ai tu đúng "Chánh niệm" và nhập đúng "Chánh định". Tứ Niệm Xứ và Tứ Thánh Hiện Tại An Lạc Trú Định chỉ còn là lý thuyết suông.
Những học giả, những giảng sư và những hành giả tu chưa đến nơi đến chốn, đem tưởng giải và kiến giải ra giảng những kinh Tứ Diệu Đế, Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Định, Thập Thiện, Đạo Đức Nhân Quả của đạo Phật v.v… Họ không thể triển khai nổi, chỉ thuyết giảng loanh quanh, lập lại những kiến giải, tưởng giải của những người xưa rồi thêm vào những kiến giải vay mượn của các tôn giáo khác, của cả khoa học hiện đại ngày nay.
Đọc lại những quyển kinh luận của các nhà học giả, sư, thầy viết ra, lý chánh pháp mù mờ không rõ, đời - đạo viên dung lố bịch, đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, mượn râu ông nọ cắm cằm bà kia giống như chiếc áo chắp vá chỗ này, chắp vá chỗ khác, hành pháp thì không thông, nên tưởng tượng ra các hành, dựa theo khoa học, võ học, dưỡng sinh, khí công, các pháp hành của Yoga v.v… tu tập ức chế thân tâm một cách quá đáng, tạo ra biết bao nhiêu bịnh tật cho những hành giả ngu si tự đem mình vào chỗ chết, chỗ khổ mà không biết.
Kinh sách phát triển của đạo Phật quá nhiều, nhưng chẳng biết tìm đâu ra một cuốn kinh nào để tu đến nơi đến chốn, đọc vào chỉ toàn là luận lý thuyết suông, thực hành thì vay mượn những pháp môn của ngoại đạo. Chính những người đã viết ra những bộ kinh sách đang bày bán, họ cũng chẳng tu đến đâu, vì họ đang sống chạy theo dục lạc thế gian như những người khác, vì thế biết rõ họ chưa giải thoát.
Sau mười năm trong thất, sống giữ gìn giới luật đúng Phạm hạnh và tu tập Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Định, chúng tôi đã thấy được kết quả của những pháp môn này, làm chủ sự sống chết và chấm dứt tái sanh luân hồi. Ra thất, chúng tôi thành lập Tu Viện Chơn Như, quyết tâm chấn hưng lại Phật Pháp. Mười bảy năm trôi qua, biết bao nhiêu người theo tu với chúng tôi, chỉ có ăn, ngủ, độc cư mà không ai tu nổi thì làm sao tu định vô lậu ly dục ly ác pháp, không ly dục ly ác pháp được thì làm sao nhập Tứ Thánh Hiện Tại An Lạc Trú Định được.
Hiện Tai An Lạc Trú Tứ Thánh Định không nhập được thì không bao giờ làm chủ sự sống chết và chấm dứt luân hồi.
Tu viện của chúng tôi chỉ còn lại một vài nguời sống đúng Phạm hạnh, ly dục ly ác pháp, hiện giờ họ đang thực hiện khá sâu vào Tứ Niệm Xứ để thực hiện Thiền định (Tứ Thánh Định) họ sẽ là những người thắp sáng lại đạo Phật sau này nếu chúng sanh có đủ duyên, còn nếu không đủ duyên tức là thiếu phước thì những tu sĩ này sẽ không đủ nghị lực và bền chí chiến đấu lại những nghiệp lực cuối cùng của đời họ thì Phật giáo chấn chỉnh rất mờ mịt và khó khăn vô cùng. Vì giới luật là cửa ngõ để bước vào được nhà Thiền định, mà giới luật thì quá khắc nghiệt. Cho nên, sống đúng giới luật thì quá khó khăn vô cùng.
Con đường tu hành theo đạo Phật rất thực tế và cụ thể cho tất cả mọi người đều có thể giải thoát khỏi cảnh khổ của thế gian bằng một cuộc sống "Đạo" ly dục ly ác pháp. Sống có ly dục ly ác pháp thì sự tu hành theo đạo Phật mới có kết quả, bằng ngược lại thì tu hành vô ích, không lợi mình lợi người còn mang nợ đàn na thí chủ.
Vì sống đạo thì phải ly dục ly ác pháp nên ít có người theo sống được, hầu hết đều bỏ cuộc tu hành hoặc tu có hình thức, hoặc biến thái đạo Phật qua một hình thức khác (Bồ tát hạnh) để dễ bề hành dục lạc.
Suy đi nghĩ lại, chúng tôi đắn đo nhiều lần. Có nên triển khai giáo án đường lối tu tập của đạo Phật cho hậu thế ngày mai không? Nếu đường lối tu hành của đạo Phật không được phổ biến ở đời này, nhất là “đạo đức nhân bản - nhân quả giải thoát không làm khổ mình, khổ người” thì loài người sẽ đi về đâu? Và sẽ khổ đau biết dường nào?
Sự mê mờ vô minh của con người từ ngàn xưa đến nay đã lầm chấp và cho các pháp thế gian là thật có sẽ đem lại hạnh phúc cho họ, khi họ được đầy đủ. Vì sự lầm chấp này, họ ôm giữ khư khư không chịu buông bỏ ra. Do thế, ác pháp càng tăng trưởng, thiện pháp càng suy giảm, con người khổ đau lại càng khổ đau hơn.
Lòng thương xót loài người, họ đã theo đạo Phật từ xa xưa, hiện giờ và mai sau, bao thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, giải thoát đâu không thấy, chỉ thấy toàn ưu bi sầu khổ, bịnh, chết lại càng khổ đau hơn. Tu mãi chỉ có an ủi tinh thần một cách trừu tượng, mơ hồ chẳng có thực tế chút nào cả, chẳng có lối thoát ra, loanh quanh lẩn quẩn trong mê hồn trận của Đại Thừa và Tối Thượng Thừa Thiền Tông.
Những gương thầy Tổ của chúng ta trước khi chết họ phải chịu khổ đau quá ư cay đắng, khiến cho chúng ta bâng khuâng và lo nghĩ rất nhiều về số phận của mình và các đệ tử sau này.
Đạo Phật nói riêng và các tôn giáo khác nói chung có giải quyết được sự khổ đau của con người hay chăng? Nhất là bốn nỗi khổ của kiếp làm người: sanh, già, bệnh, chết. Không lẽ tôn giáo ra đời chỉ là những điều an ủi tinh thần suông của thế hệ này, đến thế hệ khác sao?
Cho nên, chúng ta tự hỏi: “mục đích của các tôn giáo đến với loài người để làm gì?” Đến với loài người để xây dựng nền đạo đức nhân bản – nhân quả, giúp cho con người tự không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh, hay là tôn giáo đến để ru ngủ con người vào một giấc mơ đẹp Thiên Đàng, Cực Lạc, Niết Bàn hay chứng Thiền, chứng đạo hoặc kiến tánh thành Phật, thành Tiên, thành Thánh v.v… 
Do những sự tư duy trên đây, bắt buộc chúng ta phải xác định rõ ràng về tôn giáo: Nếu giáo lý của tôn giáo nào chứng nghiệm được như khoa học thì giáo lý ấy là đạo đức nhân bản – nhân quả của loài người, còn giáo lý nào chứng nghiệm khoa học không được thì giáo lý ấy là giáo lý mơ hồ, trừu tượng, giáo lý mê tín, giáo lý ru ngủ con người giống như liều thuốc an thần.
Sau những ngày nghiên cứu các tôn giáo, chúng tôi chọn Phật giáo, vì Phật giáo rất gần gũi với khoa học.
Chọn xong và đem hết cuộc đời mình quyết hy sinh làm một cuộc thí nghiệm trên giáo pháp của tôn giáo ấy. Nhờ sự quyết tâm đó, chúng tôi đã loại bỏ ra rất nhiều pháp môn của ngoại đạo đang pha trộn trong giáo pháp của Phật giáo. Cuối cùng, chúng tôi chứng nghiệm sự giải thoát của đạo Phật rất cụ thể và rõ ràng.
Khi sống trong trạng thái giải thoát, chúng tôi không đành lòng nhìn con người dần dần đi xuống hố thẳm khổ đau mà cứ tưởng mình vượt ra đau khổ bằng khối óc, đôi tay, bằng những kỹ thuật, khoa học, công nghệ hiện đại v.v…
Họ tin rằng, khoa học và công nghệ hiện đại sẽ làm ra vật chất đầy dẫy thì loài người sẽ đầy đủ hạnh phúc an vui, không còn khổ đau nữa. Sự nghĩ tưởng như vậy, họ đã lầm.
Nếu con người không có đạo đức thì đừng lấy vật chất mà giải quyết sự khổ đau của con người được. Vật chất càng nhiều, sự khổ đau của con người càng lớn, do lòng ham muốn vật chất nên tạo ra nhiều ác pháp và thế gian này sẽ là địa ngục. Nếu không có đạo đức, mà vì vật chất thì con người sẽ trở thành ác thú hay là quỷ dữ v.v…
Biết mình tu hành chưa đủ uy đức như Phật, chưa đủ tài trí làm công việc lớn này nhưng không thể làm ngơ trước sự đau khổ của muôn người; trước sự tồn vong của đạo Phật, nhất là nền đạo đức nhân bản – nhân quả.
Một tôn giáo có hàng triệu triệu người theo tu hành, lại tu không đúng chánh pháp. Vì thế, chúng tôi chẳng ngại nói lên sự thật để xây dựng lại đường lối tu tập của đạo Phật đúng đắn, để làm sáng tỏ lại giáo pháp và nền đạo đức của đức Phật và để cứu giúp biết bao nhiêu người đang lầm đường lạc lối, tu sai pháp (tu ức chế tâm).
Nếu trên thế gian này còn có những bậc chân tu của Phật giáo thì hãy vì tiền đồ của Phật giáo, vì tất cả chúng sanh, vì nhân loại … Hãy cùng với chúng tôi, vui lòng góp sức chỉ những chỗ sai sót để chúng tôi kịp thời chấn chỉnh cho đúng đường lối tu hành và đạo đức nhân bản - nhân quả của đạo Phật.
Xin chân thành tri ân quý vị.

1. NGƯỜI CƯ SĨ ĐẾN VỚI ĐẠO PHẬT
TRƯỚC TIÊN CẦN PHẢI THÔNG HIỂU
Duyên Phật pháp
Một người có đủ duyên được đọc kinh sách của đạo Phật sẽ thấy được chân lý của Đạo rất thực tế và cụ thể. Đạo Phật hướng dẫn con người cách thức sống có đạo đức, tu tập và trau dồi thân tâm để thoát khỏi kiếp sống đọa đày trầm luân đau khổ của kiếp người bằng sức tự lực của chính mình, nhất là điều khiển được sự sống chết như ý muốn và còn chấm dứt được sự tái sanh luân hồi.
Vì thế, khi bắt đầu đến với đạo Phật để trở thành người đệ tử chân chánh thì quý vị cần phải thông hiểu những gì chân thật của Phật giáo và những gì không chân thật của ngoại đạo mang danh đạo Phật.
Quý vị cần phải sáng suốt chấp nhận những gì đúng của Phật giáo và phải biết gạt bỏ những gì không phải của Phật giáo. Và cuối cùng, quý vị cần phải biết kính trọng và không kính trọng những gì phải và những gì không phải của đạo Phật.
Phần đông phật tử hiện giờ không cung kính và tôn trọng chánh pháp của đạo Phật, họ thường tôn kính giáo pháp phát triển Đại Thừa của Bà La Môn và luôn luôn tu hành theo giáo pháp trừu tượng mê tín đó, mặc dù kết quả tu hành chẳng ra gì.
Nếu có ai mạnh dạn nói rằng: giáo pháp phát triển của Đại Thừa không phải là của Phật thuyết, đó là giáo pháp mê tín của ngoại đạo Bà La Môn thì họ căm tức và tìm mọi cách chống lại. Đôi khi còn dùng những lời lẽ xỉ vả, mạt sát một cách hung tợn và bảo thủ.
Khi một người chưa biết Phật pháp, chưa hiểu đạo Phật, một hôm có đủ duyên được đọc một cuốn kinh Phật như trường hợp chúng tôi đã nghe quý phật tử thuật lại:
"Con từ hồi nào tới giờ chưa biết Phật pháp, một hôm được người bạn trao cho cuốn kinh Thủ Lăng Nghiêm, nhờ đọc kinh này, con thấu lý của đạo Phật quá tuyệt vời, quá hay. Nên từ đó con hướng tâm đến đạo Phật, thường đi nghe thuyết giảng trong các chùa và mua thêm những loại kinh sách Phật để tham cứu đường lối và cách thức tu tập của đạo Phật, càng đọc kinh sách Phật con lại càng có ý muốn đi tu hơn !!!"
Đó là những người hữu duyên may mắn được đọc các bộ kinh như: “Thủ Lăng Nghiêm, Kim Cang Kinh, Pháp Hoa Kinh, Phật Học Phổ Thông và toàn bộ giáo lý A Hàm hoặc kinh Nikaya”. Ngược lại, những người chưa đủ duyên, chưa được đọc kinh sách Phật, chưa hiểu đạo Phật ra sao nên nhìn đạo Phật như một tôn giáo mê tín, ông Phật như ông thần chuyên phò hộ và ban phước lành cho nhân gian.
Hầu hết hiện giờ mọi người hiểu đạo Phật qua bốn hệ phái khác nhau :
1. Tịnh Độ Tông biến Phật giáo thành tôn giáo mê tín, cúng bái, cầu khẩn, niệm Phật cầu vãng sanh như đạo Bà La Môn.
2. Thiền Tông biến Phật giáo thành Tiên giáo.
3. Duy Thức Tông biến Phật giáo thành khoa tâm lý học.
4. Mật Tông biến Phật giáo thành tôn giáo huyền bí, linh thiêng.
Thật ra Phật giáo không phải tâm lý học, không phải cảnh giới siêu hình (Cực Lạc) không phải bản thể của vạn hữu, cũng không phải linh thiêng siêu phàm nhập thánh mà chính là cuộc sống bình thường như mọi người đang sống, nhưng họ đã lìa xa lòng ham muốn và các ác pháp.
Người nào hiểu đúng và biết cách sống đúng "ly dục ly ác pháp" sẽ có tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự. Đó chính là người hữu duyên với chánh pháp của đạo Phật, bằng ngược lại thì đó là vô duyên hoặc gặp tà pháp, hoặc có duyên với tà pháp như người phật tử đã nói ở trên.
Vô duyên không gặp chánh Phật pháp còn hơn là nhưng người hữu duyên mà lại gặp tà pháp của ngoại đạo. Gặp tà pháp của ngoại đạo thì lại sanh ra kiến chấp, kiến chấp rất là khó bỏ. Con người vốn vô minh nên khi gặp pháp nào cũng đều tin. Tin một cách mù quáng nên dễ dính mắc tà pháp nhưng dù biết đó không đúng pháp của đạo Phật nhưng rất khó bỏ.
Vì thế, trên thế gian này có rất nhiều tôn giáo, nhưng tôn giáo nào cũng có người theo, nhất là những tôn giáo có thần thông lại dễ cám dỗ người theo hơn. Do đó, giáo pháp nào có thần thông thì người theo càng ngày càng đông như kiến bu trên cục đường. Nghe thần thông ai lại không mê, nhưng thần thông chỉ là một loại tưởng lực, ảo giác, lừa đảo con người.
Người tín đồ chân chánh của Phật giáo.
Do sự hiểu biết không thâm sâu về đạo Phật, hiểu biết một cách nông cạn, vì thế những tín đồ Phật giáo có thể chia làm 5  loại:
1. Người tín đồ đến chùa cúng bái, cầu an, cầu siêu, xin xăm, bói quẻ, xem ngày tốt xấu, cúng sao, giải hạn v.v… (Phật tử mê tín ).
2. Người tín đồ đến chùa cúng dường chư Tăng, nghe thuyết pháp giảng kinh để tìm hiểu đạo Phật, những người này có học thức nhưng lại thiếu cân nhắc, nghe giảng pháp nào tin ngay pháp nấy. Không biết pháp có đúng hay sai của đạo Phật, cứ nghe giảng có lý là tu tập. Do thế sanh ra kiến chấp, tranh luận hơn thua. (Phật tử nông nổi).
3. Người tín đồ đến chùa ít cúng dường chư Tăng, ít lễ Phật, ít cúng bái, chỉ chuyên nghe thuyết giảng kinh điển, học thuộc làu nghĩa lý và thỉnh nhiều loại kinh sách của các nhà học giả nghiên cứu sưu tầm soạn ra, lấy đó làm tiêu chuẩn rồi cũng tự kiến giải nghĩa lý ấy theo quan điểm riêng tư của mình, tìm các bậc tu hành tranh luận hơn thua để hạ nhục họ và tự cho mình như một bậc thầy thông suốt lý đạo. Đôi khi còn tỏ ra như mình đã tu chứng. (Phật tử kiêu căng).
4. Người tín đồ đến chùa không cúng bái Phật, không cúng dường chư Tăng, không nghe thuyết giảng kinh, chỉ móc nối làm ăn. (Phật tử mượn danh làm ăn).
5. Người tín đồ đến chùa cúng bái Phật, cúng dường chư Tăng, nghe thuyết giảng kinh điển để tìm hiểu và cân nhắc pháp môn nào đúng, pháp môn nào sai để chọn lấy pháp môn chân chánh của đạo Phật rồi mới tu tập. (Phật tử chân chánh).
Trong năm loại phật tử, chỉ có loại phật tử thứ năm mới chính là tín đồ Phật giáo thuần thành, chấp hành nghiêm túc theo đúng lời dạy của đức Phật, còn bốn loại phật tử kia là tín đồ không hiểu đạo Phật, chịu ảnh hưởng tà giáo ngoại đạo khiến Phật giáo suy vong cũng chính do bốn hạng phật tử trên, nhất là hạng phật tử mê tín.
Nếu không là đệ tử của đức Phật thì thôi, mà đã là đệ tử của đức Phật thì phải có sự sáng suốt, ngăn ngừa bảo vệ không cho tà giáo ngoại đạo xâm chiếm vào Phật giáo mới đúng. Đàng này thì khác, đệ tử của đức Phật mà lại nối giáo cho ngoại đạo để diệt Phật giáo. Thật là đau lòng!
Kính thưa quý vị! Không phải quý vị hiện giờ đang thực hành và ca ngợi giáo pháp của ngoại đạo sao? Những điều quý vị đến chùa cúng bái, cầu siêu, cầu an, cúng sao giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu v.v… và như vậy, quý vị có làm đúng như lời Phật dạy không?
Quý vị hằng ngày ngồi thiền, niệm Phật đã được những kết quả giải thoát gì? Tâm có hết tham, sân, si chưa? Hay chỉ ngồi kiết già ba bốn tiếng đồng hồ, quý vị cho đó là kết quả ư! Ở những giáo pháp này đã biến quý vị trở thành những con chiên ngoan đạo, quý vị có biết không?
Những giáo pháp này đã biến Phật giáo thành tà giáo ngoại đạo, mê tín, lạc hậu, thiếu khoa học, không logic. Các vị có tin lời nói của chúng tôi không? Đó là một sự thật hiển nhiên, xin các vị suy ngẫm lại.
Vị Minh Sư Phật giáo.
Người vô duyên không được gặp Phật pháp, cuộc đời trôi theo dòng nước dục lạc uế trược thế gian, bảy nổi ba chìm, khổ đau vô tận từ kiếp này chuyển sang kiếp khác không bao giờ dứt, như con kiến đi quanh vòng miệng lu.
Người vô duyên không gặp chánh pháp, lại gặp tà pháp, càng tu tự ngã càng cao, thường gạt người để mua danh cầu lợi, làm nhiều điều tội ác, thật là uổng phí cho một đời tu của một kiếp người.
Người hữu duyên gặp được Phật pháp nhưng không gặp được Minh sư, không thấu rõ lý chánh pháp của đạo Phật, tu tập theo kiến giải của các nhà học giả, giống như loài vật gặm xương, bỏ đi thì uổng, nhai lại thì chẳng có gì.
Người hữu duyên và có tâm quyết tu theo đạo Phật, để mong cầu thoát ra cảnh khổ trần lao thế tục mà lại gặp những kinh sách phát triển Đại Thừa của các nhà học giả biên soạn ra từ xưa và nay thì tu hành dở sống dở chết mà chẳng ra gì, Đời chẳng ra Đời, Đạo chẳng ra Đạo.
Để làm sáng tỏ trong giới tu sĩ Phật giáo ngày nay, chúng ta có thể chia làm sáu loại tu sĩ như sau (sáu hạng tỳ-kheo):
1. Tỳ-kheo chuyên cúng bái, tán tụng, kệ ngâm (ứng phú đạo tràng), các vị tỳ-kheo này ít học giáo lý, chùa là nơi sinh sống như một gia đình, có vợ, có con, tự làm ăn mọi nghề nghiệp như một gia đình thế tục: làm ruộng, làm rẫy, làm vườn, chăn nuôi heo, gà, dê, bò v.v… Có ai thỉnh đi cúng bái, tụng niệm cầu siêu, cầu an v.v… đều đặt giá tiền công hẳn hòi.
2. Tỳ-kheo chuyên cúng bái tụng niệm, cầu siêu, cầu an, tổ chức lễ lộc, tổ chức hành hương, tổ chức từ thiện v.v... Các vị tỳ-kheo này không có vợ con, có trình độ giáo lý và có học thức, đi đám tụng niệm không lấy tiền công, chỉ nhận tiền cúng dường trai tăng tứ sự v.v... Chùa là nơi sinh hoạt của những phật tử mê tín suốt ngày.
3. Tỳ-kheo chuyên học tập giáo lý, làm việc Giáo hội, giảng sư dịch thuật, soạn kinh viết sách, các vị tỳ-kheo này có trình độ văn hóa cao, có kiến thức Phật giáo sâu rộng nhưng không có tu hành, họ thuộc về cấp lãnh đạo Giáo hội Phật giáo.
4. Tỳ-kheo vừa tu vừa thuyết giảng kinh điển, Thiền, Mật và Tịnh cho tín đồ tu tập theo kiến giải của mình, những tỳ-kheo này tu theo Bồ Tát Đạo, hành Bồ Tát Hạnh. Bốn hạng tỳ-kheo trên đây thuộc về Bắc Tông Đại Thừa giáo.
5. Tỳ-kheo chuyên ăn thịt chúng sanh, đó là những sư Nam Tông tu theo kinh sách Nguyên Thủy nhưng bị kiến giải của các nhà học giả có học thức cao trên đại học thường phá giới, sống phi Phạm hạnh nên hiểu sai lời dạy của đức Phật đã trở thành những ác tri thức, mất chủng tử từ bi, xa lìa hạt giống chánh pháp, thường lý luận để ăn thịt chúng sanh: “Ăn không thấy, không nghe, không nghi”.
6. Tỳ-kheo cất thất, am, cốc riêng để tu một mình, đó là những tu sĩ tiêu cực, yếm thế, chỉ tìm sự an vui cho cá nhân. Họ tưởng tu như vậy là giải thoát, nhưng nào ngờ là trốn đời chạy theo tâm ham muốn sống cảnh yên tịnh.
Trên đây là sáu hạng tỳ-kheo:
a- Nếu quý vị chọn loại một làm thầy thì quý vị tu theo Phật giáo Đại Thừa Ứng Phú Đạo Tràng mê tín, chịu nhiều ảnh hưởng phong tục tập quán dân gian, những tỳ-kheo này phần đông phá giới, phạm giới, sống không bao giờ đúng giới hạnh, những tu sĩ này được xem là những cư sĩ trọc đầu.
b- Nếu quý vị chọn loại hai làm thầy thì quý vị tu theo Phật giáo Đại Thừa thuộc Bà La Môn giáo, tu phước hữu lậu.
c- Nếu quý vị chọn loại ba làm thầy thì quý vị tu theo Phật giáo Đại Thừa danh lợi.
d- Nếu quý vị chọn loại bốn làm thầy thì quý vị tu theo Phật giáo Thiền Tông, Mật Tông, Tịnh Độ Tông. Những pháp môn tu này giống như người nhai viên sắt, nuốt chẳng vô, nhả chẳng ra.
e- Nếu quý vị chọn loại năm làm thầy thì quý vị tu theo Phật giáo Nam Tông trở thành ác tri thức, mất tâm từ bi, xa lìa đạo giải thoát.
f- Nếu quý vị chọn loại sáu làm thầy thì quý vị tu theo Phật giáo yếm thế trốn đời, tiêu cực. Cuộc đời tu hành chẳng tu tới đâu, chỉ có công mà chẳng lợi ích gì.
Trong đạo Phật có sáu loại tu sĩ như vậy, nếu quý vị không chấp nhận họ làm thầy của mình thì quý vị chấp nhận ai làm thầy của mình?
Chúng tôi xin giới thiệu một vị Minh sư của đạo Phật để quý vị khỏi tìm kiếm đâu xa và khỏi bị Tà sư ngoại đạo lường gạt. Vị Minh sư ấy là "Giáo Pháp và Giới Luật của đức Phật”.
Xưa đức Phật cũng nhờ nương vào giáo pháp và giới luật này mà Ngài tu chứng đạo. Cho nên khi thành đạo Ngài đã quỳ xuống đảnh lễ giáo pháp này và tôn xưng nó là Thầy của mình. Đến khi nhập diệt vào Niết Bàn, Ngài di chúc lại: “Sau khi Ta nhập Niết Bàn, các thầy tỳ-kheo hãy lấy Giáo Pháp và Giới Luật của Ta làm Thầy, làm chỗ nương tựa vững chắc tu hành…”
Chúng tôi cũng xin giới thiệu kinh sách của chính đạo Phật để quý vị khỏi lầm kinh giả:
1. Bốn bộ kinh A Hàm;
2. Năm bộ kinh Nikàya.
Tuy rằng bốn bộ kinh A Hàm và năm bộ kinh Nikàya là kinh gốc của đạo Phật, nhưng trong ấy các Tổ đã có sự thêm bớt rất nhiều, nhất là kinh A Hàm, các Tổ đã dịch làm lệch ý của Phật và còn soạn viết những bài kinh gạch nối giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa. Vậy quý phật tử khi nghiên cứu đừng tin trọn những kinh sách này mà hãy nhớ lời đức Phật đã dạy:
“Này các Kàlàmà!
1- Chớ có tin vì nghe truyền thuyết.
2- Chớ có tin vì nghe truyền thống.
3- Chớ có tin vì nghe người ta nói đồn.
4- Chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng.
5- Chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình.
6- Chớ có tin vì đúng theo một lập trường.
7- Chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dự kiện.
8- Chớ có tin vì phù hợp với định kiến của mình.
9- Chớ có tin nơi phát xuất có uy quyền.
10- Chớ có tin vì bậc Sa Môn là Đạo Sư của mình.
Nhưng này các Kàlàmà! Khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này bất thiện, các pháp này là có tội lỗi, các pháp này bị người có trí hiểu biết chỉ trích, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận sẽ đưa đến bất hạnh, khổ đau.” Thời này các Kàlàmà hãy từ bỏ chúng không nên tin theo”.
Những lời dạy trên đây của đức Phật là những lời nhắc nhở và cảnh cáo đệ tử của mình, đừng quá vội tin mà bị lừa đảo những pháp môn ngoại đạo giả mạo của Phật giáo.
Rút ra từ những lời dạy này, khi bước chân vào các tôn giáo thì chúng ta cần phải dè dặt cẩn thận nhiều hơn, không nên tin mù quáng mà phải chọn đúng chánh pháp dạy đạo đức làm Người, làm Thánh. Vì chính đạo đức làm Người, làm Thánh là sẽ không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả những loài chúng sanh.
Đạo Phật là một tôn giáo tự lực.
Người muốn đi theo con đường tu hành chân chánh của đạo Phật thì phải thấu rõ đời sống của con người từ khi sinh ra cho đến khi chết toàn là một cuộc sống khổ. Khổ như thật, khổ vì thân tâm của mình mang đầy ắp phiền não tham, sân, si. Khổ vì mọi người sống chung quanh mình tư tưởng không đồng nhau, khổ vì hoàn cảnh trái ngang lúc thuận, lúc nghịch, khổ vì cơm ăn áo mặc phải vất vả gian nan.
Khi chúng ta thấy đúng, biết đúng khổ như vậy thì mới dám chọn con đường tu hành của đạo Phật. Nếu không thấy đời sống khổ như thật, còn thấy nó có hạnh phúc, có an lạc, sung sướng thì đừng nên chọn con đường tu hành của đạo Phật.
Tai sao vậy? Tại vì con đường tu hành của đạo Phật là con đường đi ngược lại với cuộc sống của đời người. Vả lại, con đường tu hành theo đạo Phật là một con đường phải tự lực dùng sức lực của mình, luôn luôn phải trau dồi thân tâm và rèn luyện tu tập cố sức xả bỏ những tâm niệm đầy tham muốn và các ác pháp đang vây quanh.
Khi muốn xả bỏ như vậy thì chúng ta cần phải gan dạ, lầm lỳ, kiên trì, chịu đựng, kham nhẫn v.v… Và còn phải đầy đủ nghị lực để mạnh dạn dứt bỏ những thói hư, tật xấu chứ không phải vào điện Phật cúng bái, cầu khẩn, van xin, nhờ tha lực chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ, trợ lực cứu khổ cứu nạn, giải thoát các khổ đau, tai ương, bệnh tật v.v… hay phóng hào quang tiếp độ những vong hồn người chết về cõi Cực Lạc Tây phương. Và cũng không phải tu hành bằng cách tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, ngồi thiền, luyện bùa, luyện chú để có thần thông, pháp thuật v.v… hoặc để cầu được sinh về Cực Lạc, Niết Bàn bằng những tha lực, oai lực của chư Phật, chư Bồ tát.
Muốn tu theo đạo Phật để thoát cảnh khổ đau của kiếp làm người thì phải dùng sức tự lực của chính mình, chứ không phải bằng tha lực của người khác như trong các kinh sách phát triển Đại Thừa dạy.
Đọc kinh sách Nguyên Thủy, chúng ta thấy đức Phật dạy tu hành bằng những pháp môn tự lực, hầu hết không có một bài pháp nào dạy tu tập cầu tha lực. Chỉ có kinh sách phát triển Đại Thừa mới có dạy tu tha lực mà thôi (niệm Phật cầu vãng sanh).
Khi nghe giảng đến đây, có người lại hỏi chúng tôi: Vậy kinh sách Nguyên Thủy Phật dạy: “Tứ Bất Hoại Tịnh” không phải pháp môn Tứ Bất Hoại Tịnh là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới sao?
Kính thưa quý phật tử! Đức Phật dạy niệm Phật là sống như Phật chứ không phải niệm danh hiệu Phật; niệm Pháp là sống đúng như pháp, tu tập đúng như pháp chứ không phải tụng kinh; niệm Tăng là sống hòa hợp như chúng Tăng, không chống trái nhau chứ không phải trai tăng cúng dàng lạy lễ các vị Tăng để cầu phước báu; niệm Giới là sống đúng Phạm hạnh, không hề vi phạm giới luật và không phạm một lỗi nhỏ nhặt nào chứ không phải hằng tháng vào ngày 30 và ngày rằm cùng nhau tụng Giới.
Nghe dạy niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới thì các nhà học giả kiến giải theo chữ nghĩa mà giải thích ra, niệm là đọc lầm thầm trong ý như câu; “Nam Mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni hay Nam Mô Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn”.
Niệm như vậy là niệm theo kiểu Đại Thừa không có nghĩa gì cả, không có sự giải thoát gì cả. Ở đây đức Phật dạy niệm tức là sự tư duy Phật, Pháp, Tăng và Giới để chúng ta thấu triệt Phật, Pháp, Tăng và Giới hàm nghĩa giải thoát như thế nào để chúng ta noi theo đó mà thực hiện sống và tu tập đúng như Phật, như Pháp, như chúng thánh Tăng và như Giới luật đã dạy.
Có hiểu biết và tu tập như vậy thì mới có giải thoát thật sự, còn niệm danh hiệu Phật, tụng kinh, cúng dàng trai tăng và đảnh lễ chư Tăng và tụng Giới, dù có niệm Phật, Pháp, Tăng và Giới như vậy cho đến muôn kiếp ngàn đời cũng chẳng có giải thoát được chút nào.
Người ta đã lầm niệm như vậy là để nhất tâm bất loạn tức là niệm không có vọng niệm xen vào, chỉ duy nhất có câu niệm Phật mà thôi thì sẽ được vãng sanh Tịnh Độ, đó là hiểu theo Tịnh Độ Tông (Thất nhựt nhất tâm bất loạn chuyên trì danh hiệu A Di Đà Phật dữ chư Thánh chúng hiện tại kỳ tiền…). Còn hiểu theo Thiền Tông thì nhất tâm bất loạn tức là chẳng niệm thiện niệm ác, chẳng niệm thiện niệm ác là Thiền định, là Phật tánh.
Nhưng tất cả những sự tu tập như vậy đều sai hết quý vị ạ! Chỗ nhất tâm bất loạn của quý vị sẽ rơi vào thế giới tưởng của tưởng uẩn, nơi đây là mê hồn trận của tà giáo ngoại đạo. Quý vị tu hành cần nên cảnh giác nơi hang hùm nguy hiểm này. Nếu tu tập đến đây quý vị coi chừng rối loạn thần kinh mà nguy hiểm tánh mạng, biến quý vị trở thành người điên khùng.
Người mới bước chân vào đạo Phật, ngơ ngác trước đống kinh sách khổng lồ của Phật giáo Đại Thừa. Có những loại kinh sách chúng ta đọc vào thấy toàn sự tu tập đều nhờ tha lực để trợ lực trên bước đường đi đến giải thoát như: kinh Vô Lượng Quang, kinh Di Đà, kinh Quy Ngươn, kinh Pháp Hoa v.v…
Tất cả kinh này đã làm cho người tu sĩ nhụt chí, mất hết nghị lực, biến Phật giáo thành một tôn giáo tha lực, một tôn giáo mê tín khiến cho người đời sau tu hành chỉ còn biết cầu cạnh vào kẻ khác, do những sự tu hành sai này, đạo Phật chẳng còn ai tu chứng.
Họ lý luận, người mới tu phải tụng kinh, bái sám, niệm Phật, lạy hồng danh chư Phật, phải cầu tha lực, còn người tu lâu năm phải tự lực ngồi thiền quán niệm hơi thở. Người tu hành mà hiểu Phật giáo như vậy tức là chẳng hiểu Phật giáo gì cả. Hiểu như vậy là hiểu theo Phật giáo Đại Thừa.
Người mới tu như các cư sĩ bước chân vào Đạo, đức Phật đã dạy bài học tu tập tự lực đầu tiên là phải dứt bỏ sáu nghề nghiệp ác đang sanh sống hàng ngày, nghĩa là chúng ta muốn theo đạo Phật tu hành thì phải đổi nghề ác làm nghề thiện. Qua bài kinh dứt sáu nghề ác, chúng ta thấy rõ sự tự lực của đạo Phật ngay từ lúc ban đầu.
Khi bước chân vào Đạo ta được nghe Người dạy: “Thông hiểu những gì cần phải thông hiểu, dứt bỏ những gì cần phải dứt bỏ, tu tập những gì cần tu tập, trau dồi những gì cần trau dồi”. Những việc làm này không thể cầu tha lực của người khác được.
Đạo Phật là một tôn giáo xây dựng trên nền tảng thiện pháp, mọi ác pháp đều phải được loại trừ dứt bỏ, nhờ có loại trừ ác pháp, tăng trưởng thiện pháp, cuộc sống mới có sự giải thoát an vui, hạnh phúc cho mình, cho người. Loại trừ ác pháp chỉ có tự lực, không thể có tha lực, những điều làm ác phải tự mình dứt bỏ chứ không thể cầu cạnh người khác giúp mình được.  
Ví như mình đi ăn cắp, ăn trộm, nhờ người khác giúp mình đừng ăn cắp, ăn trộm có được không? Không thể được, phải tự mình biết đó là một việc làm ác khiến người ta sầu khổ thì mình nên dứt bỏ, cũng như sáu nghề nghiệp ác không thể cầu chư Phật giúp mình dứt các nghề nghiệp ác đó được. Chính phải tự mình tự lực dứt bỏ, không hành nghề ác đó nữa.
Nhờ thế chúng ta mới biết rõ đạo Phật là đạo tự lực. Kinh sách tha lực không phải kinh sách đạo Phật. Đạo Phật nhìn cuộc đời với đôi mắt nhân quả, nhân quả chỉ có tự lực mới dứt bỏ được mà thôi, dù cho có một đấng vạn năng cũng không giúp chúng ta vào việc này được.
Vì thế đạo Phật là một tôn giáo mà phi tôn giáo; một tôn giáo không có đấng thiêng liêng vạn năng cứu khổ, một tôn giáo bằng sức tự lực của con người cứu mình ra mọi cảnh khổ, nên đạo Phật còn gọi là “Đạo Độc Cư, Độc Bộ, Độc Hành”.
Đạo Phật còn gọi là nền đạo đức nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh.



2. HIỂU RÕ THÂN NGƯỜI LÀ THÂN NGŨ UẨN
(Định Vô Lậu câu hữu Ngũ Uẩn)
Như thế nào là Định Vô Lậu câu hữu với Ngũ Uẩn? Định Vô Lậu câu hữu với thân Ngũ Uẩn có nghĩa là Quán xét tư duy phá chấp thân ngũ uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) như sau:
1- Sắc Uẩn:
Quán xét sắc thân do bốn đại đất, nước, gió, lửa hoà hợp tạo nên, không có gì là của mình, không có gì là bản ngã của mình, không có gì là mình. Vậy tại sao ta lại ngu si lầm chấp cho sắc thân này là của ta, thân này là ta, là bản ngã của ta. Một ngày kia thân này hoại diệt: đất phải trả về cho đất, nước phải trả về cho nước, gió phải trả về cho gió, lửa phải trả về cho lửa thì cái gì còn lại là của ta, là ta, là bản ngã của ta nữa đâu.
Thế tại sao mỗi khi bị người khen chê, chửi mắng, xỉ vả sắc thân là chó, là trâu, là đồ tồi, đồ bẩn thỉu thì ta lại căm tức, thù hận oán ghét họ. Sự căm tức thù giận oán ghét họ là vì ta không rõ, chấp sắc thân là có thật, là của ta, là bản ngã của ta.
Từ đây ta hiểu rõ sắc thân không phải là ta, của ta, bản ngã của ta mà là một khối duyên hợp do nhân quả tác thành hay nói cách khác hơn cho dễ hiểu là do môi trường sống tạo nên theo quy luật vô thường của nhân quả.
Khi quán xét như vậy ta không còn dính mắc chấp đắm vào sắc thân, nhờ đó ta đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm một cách dễ dàng, các chướng ngại pháp trong tâm ta được đẩy lui thì tâm ta vô lậu, do đó nó mới có tên là Định Vô Lậu câu hữu với Sắc Uẩn.
2- Thọ Uẩn:
Chúng ta đã quán xét tư duy tu tập sắc uẩn xong, kế tiếp quán xét tu tập thọ uẩn, vậy tu tập thọ uẩn như thế nào để đẩy lui chướng ngại pháp trong tâm?
Khi thân ta bị đau nhức khổ sở vô cùng, chúng ta tư duy quán xét thọ uẩn. Vậy thọ uẩn do duyên gì hợp lại mà có?
Thọ uẩn có là do duyên nhân ác tích lũy tạo thành do sắc uẩn hành, sắc uẩn hành ác nên sắc uẩn thọ khổ chứ không ai tạo tác khổ cho sắc uẩn cả, nếu sắc uẩn không hành ác thì thọ khổ do đâu mà có được?
Thọ uẩn có ba trường hợp xảy ra:
a) Thọ khổ; b) Thọ lạc; c) Thọ không lạc không khổ.
Thọ uẩn hoạt động hai chỗ:
- Hoat động nơi sắc uẩn gọi là não, hay là đau nhức.
- Hoạt động nơi tưởng uẩn tức là tâm uẩn gọi là ưu, hay là buồn phiền tức giận, lo toan sợ hãi.
Nếu sắc uẩn và tưởng uẩn không hành ác pháp thì không có thọ lạc, thọ khổ và thọ không lạc không khổ, không có ba thọ này thì sắc uẩn và tâm uẩn thanh thản, an lạc và vô sự, còn ngược lại sắc uẩn và tưởng uẩn hành ác pháp thì có ba thọ hiện tiền khiến cho con người phiền não đau khổ. Cho nên ba thọ có là do duyên nhân quả, nhân quả có là do hành, vì vậy quán xét nhân quả của sắc uẩn là quán xét hành động nơi thân, miệng, ý.
Nếu muốn ba thọ này không có thì phải thường xuyên nơi thân, miệng, ý phải cảnh giác không làm, không nói, không suy tư điều ác, luôn phải thể hiện điều lành tức là lúc nào cũng không làm khổ mình khổ người. Do quán xét như vậy tâm chúng ta đẩy lui các chướng ngại pháp, đó là tu Định Vô Lậu câu hữu với Thọ Uẩn.
3- Tưởng Uẩn:
Kế tiếp chúng ta quán xét tưởng uẩn, tưởng uẩn tức là tâm uẩn. Tâm uẩn thuộc về loại vô hình, nó không có hình sắc như sắc uẩn nhưng chúng ta cũng dễ nhận ra, nó thường khởi niệm tưởng, khi niệm có tức là tâm có, khi không niệm tức là tâm không, tâm không không có nghĩa là không có tâm. Tưởng uẩn có ba trạng thái:
1) Niệm thiện. 2) Niệm ác. 3) Niệm không.
Kinh sách Đại Thừa và Thiền Tông lấy niệm không làm Phật Tánh (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm hoặc Chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền).
Trong khi tưởng uẩn chỉ là một cùng với bốn duyên kia kết hợp để tạo thành con người theo luật nhân quả, nói một cách khác để dễ hiểu hơn, tưởng uẩn là một duyên trong năm uẩn được kết hợp lại theo môi trường sống của luật nhân quả. Khi năm uẩn này tan rã hoại diệt thì chẳng còn một vật gì trong năm uẩn này tồn tại.
Người không có trí hiểu biết thường sống trong tưởng tri lầm chấp cho rằng thân ngũ uẩn này là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Còn như trên chúng tôi đã nói, kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ lấy tâm không niệm tức là “tưởng không” làm Phật Tánh, thật là lầm chấp sống trong ảo tưởng mà tưởng là thật tướng Niết Bàn, rồi chấp chặt thành thân kiến kiết sử mà không biết, tu mãi từ đời thầy Tổ đến con cháu, chít chắt mà vẫn chẳng có ích lợi gì, chỉ toàn dùng những ngôn ngữ lừa đảo những người sau.
Tưởng uẩn được kết hợp tạo thành bằng nghiệp thiện ác, nghiệp thiện ác được tạo thành bởi dục và ác pháp cho nên người tu sĩ theo đạo Phật phải tìm mọi cách ly dục ly ác pháp, đó là pháp đầu tiên mà họ cần phải tu tập, ly dục ly ác pháp tức là không tạo nghiệp thiện nghiệp ác mới nữa.
Không tạo nghiệp thiện nghiệp ác mới nữa tức là ly nghiệp thiện nghiệp ác mới, đó là khiến cho thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh.
Còn muốn lìa nghiệp thiện ác cũ thì phải ly hỷ tưởng, đây là giai đoạn thứ ba của bốn thiền đạo Phật. Muốn lìa nghiệp thiện ác cũ tức là ly hỷ tưởng thì phải đóng tầm tứ mà trong kinh Phật dạy: “Diệt tầm tứ nhập Nhị Thiền hay tịnh chỉ tầm tứ nhập Nhị Thiền”. 
Khi diệt tầm tứ xong ta ly hỷ tưởng mới được, còn tầm tứ chưa diệt chúng ta không thể ly hỷ tưởng được, ly hỷ tưởng tức là lìa nghiệp thiện ác cũ. Ở đây xin quý vị nên hiểu trong bốn thiền có hai giai đoạn ly, một giai đoạn diệt, một giai đoạn xả.
Thiền Thứ Nhất: Ly dục ly ác pháp thuộc về sắc uẩn (Ly là chừa bỏ hẳn, lìa xa, cảnh giác tâm tham dục và các ác pháp để nó không còn trở lại).
Thiền Thứ Hai: Diệt tầm tứ tức là ngưng sáu thức thuộc về sắc uẩn (Diệt tức là không còn để nó trở lui, trở lại được).
Thiền Thứ Ba: Ly hỷ tưởng dục thuộc về tưởng uẩn (Ly hỷ tưởng có nghĩa là lìa hỷ tưởng, chứ chưa diệt bỏ hẳn, phải cảnh giác kẻo nó sẽ còn trở tại).
Thiền Thứ Tư: Xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh thuộc về sắc uẩn và tưởng uẩn, xả tức là bỏ không còn lấy lại. Do sự tu tập quán xét như vậy khiến cho tưởng dục không còn sanh khởi, tức là chúng ta đã đẩy lui chướng ngại pháp trong tâm, đó là tu Định Vô Lậu câu hữu với Tưởng uẩn.
4- Hành Uẩn:
Hành uẩn là sự hoạt động của sắc uẩn và tưởng uẩn, chúng ta tư duy thấy các hành là vô thường, là khổ. Thế nào các hành là vô thường, là khổ?
Các hành thường có lúc hành thiện, có lúc hành ác, nhưng cũng có lúc không hành thiện hành ác, sự hoạt động của các hành thì không thường, lúc như thế này lúc như thế khác nên gọi là vô thường. Vì hành động có lúc thiện, lại có lúc ác nên tạo ra biết bao nhiêu là nghiệp khổ cho loài người nên kinh gọi các hành khổ là như vậy.
Một người tọa thiền thân không động, miệng không nói và ý không tư duy thì giống như cây đá, đó là thiền của Đại Thừa và Thiền Đông Độ, ngược lại thiền định của đạo Phật thân không hành ác, nhưng thân hành thiện, miệng không nói lời ác, nhưng miệng nói lời thiện, ý không suy nghĩ điều ác, nhưng ý suy nghĩ điều thiện.
Cho nên đạo Phật không chấp nhận hành không, không chấp nhận hành ác, chỉ chấp nhận hành thiện, vì vậy tu theo đạo Phật không trở thành cây đá mà trở thành một con người hữu ích cho mình cho người, có nghĩa là không làm khổ mình khổ người, tạo cảnh sống thế gian thành cõi Cực Lạc, Thiên Đàng.
Khi quán sát hành uẩn như vậy chúng ta thấu rõ phải sử dụng hành uẩn nào cho đúng với Phật Pháp để mình và người được giải thoát.
5- Thức Uẩn:
Trong bốn uẩn đầu chúng ta đã học xong và cũng biết cách tu tập, rèn luyện mỗi uẩn bằng giới luật và bằng thiền định. Như vậy chúng ta đã rõ, giới luật giúp chúng ta tu tập nhập Thiền Thứ Nhất hay nói cách khác là giới luật giúp chúng ta tu tập làm cho thanh tịnh sáu thức: Mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý thức, tức là giúp sắc uẩn và hành uẩn của chúng ta thanh tịnh.
Còn ba Thiền kia là: Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền được tu tập, được rèn luyện giúp tưởng uẩn và thọ uẩn của chúng ta thanh tịnh.
Thức uẩn là một uẩn cuối cùng được tu tập. Khi bốn uẩn kia đã thanh tịnh thì chúng ta phải dùng pháp hướng đánh thức thức uẩn để triển khai trí tuệ Tam Minh. Thức uẩn thanh tịnh có nghĩa là mầm mống lậu hoặc đã được quét sạch.
Tóm lại, thân ngũ uẩn phải được tu tập rèn luyện đúng pháp Giới, Định, Tuệ thì mới thanh tịnh, bằng tu hành sai pháp thì chính là nuôi dưỡng thân ngũ uẩn trong các ác pháp thuộc về tà giáo ngoại đạo thì đó là một sự nguy cơ cho loài người trên hành tinh này không ít. 
3. HIỂU RÕ CUỘC ĐỜI LÀ KHỔ VÀ HẾT KHỔ
(Định Vô Lậu câu hữu Tứ Diệu Đế) 
- PHÁP HỌC ĐẦU TIÊN -
Quán Tứ Diệu Đế tức là quán Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Vậy quán khổ, tập, diệt, đạo như thế nào? Đây là bốn chân lý của đạo Phật. Từ khi bắt đầu có đạo Phật cho đến nay chưa có ai dám thay đổi chân lý này, vì nó là chân lý nên nó xác định đời sống của con người rất logic và khoa học nên giáo lý này mới được gọi là chân lý.
Cách đây mấy trăm năm có một số người muốn làm sư Tổ của Phật giáo đã bài bác bốn chân lý này để sản sanh ra một chân lý mới trừu tượng và mơ hồ, đó là chân lý Bát Nhã Ba La Mật của Tổ Long Thọ là “Chân Không,” là “Vô khổ, tập, diệt, đạo” để đả phá chân lý của đạo Phật.
Kế tiếp có Vô Trước, Thế Thân, Mã Minh, v.v… xúm nhau lại để xương minh chân lý này, nhưng nó chỉ là một chân lý ảo tưởng, nó không nói lên được sự thật của cuộc sống loài người thì làm sao là chân lý của thế giới hành tinh này.
Cho nên các nhà tôn giáo và các nhà triết học đã đưa ra nhiều triết thuyết về chân lý, nhưng tất cả đều nằm trong những triết thuyết ảo tưởng của tưởng tri con người, vì thế, những triết thuyết đó chỉ sống trong một thời gian ngắn ngủi rồi chết đi. Chỉ vì nó không thiết thực lợi ích cụ thể đối với đời sống của con người, nó chẳng giống như triết thuyết chân lý của đạo Phật. Vậy chúng ta hãy lắng nghe chân lý của đạo Phật đối với con người trên hành tinh này như thế nào mà nó được gọi là chân lý của loài ngườ

1- Chân lý thứ nhất: Khổ Đế 
Khế kinh có câu: “Nước mắt chúng sanh nhiều hơn nước biển”, lời nói này có quá đáng chăng? Chúng ta chưa vội xác định câu nói này mà hãy dùng Định Vô Lậu quán xét tư duy chân lý thứ nhất rồi mới xác định sau. Người không hiểu biết cho rằng đời là một hạnh phúc, nhưng họ không ngờ những khoái lạc của cuộc đời đều là giả dối, lừa phỉnh, chẳng khác gì như người khát nước mà cứ uống nước mặn, càng uống lại càng khát và càng khổ đau.
Cho nên những sự vui của cuộc đời chỉ là tạm bợ, hào nhoáng như một lớp sơn bên ngoài mà thôi. Bản chất của cuộc đời là khổ đau. Cõi đời này là một biển nước mắt và mồ hôi của loài người, trong ấy mọi người đang bơi lội, hụp lặn, chìm nổi, trôi lăn.
Nếu ai đã từng nếm mùi vị của cuộc đời thì không ai bảo rằng đời là hạnh phúc, là sung sướng, người thấy rõ đời sống là khổ không ai hơn đức Phật nên chân lý của Ngài đưa ra mọi người đều phải công nhận, chỉ có một vài người mang tà kiến mới cho nó là “vô khổ, tập, diệt, đạo” như Long Thọ, còn các Tổ sau này chỉ là những người hùa theo, cho nên thiền sư Thường Chiếu bảo: “Một con chó sủa một bầy chó sủa theo”.
Không ai có thể kể ra hết mọi sự đau khổ trong thế gian, nhưng căn cứ vào lời dạy của đức Phật thì có ba loại khổ: 1. Khổ khổ; 2. Hoại khổ; 3. Hành khổ.
1. Khổ khổ: Cái khổ chồng chất lên cái khổ; bản thân đã là khổ mà hoàn cảnh chung quanh lại đè lên bao cái khổ khác: đó là khổ khổ. Chúng ta quán xét tự thân mình là nạn nhân của bao nhiêu cái khổ, cái xấu xa đê tiện; thân thể là một bao đựng đầy thịt xương dơ bẩn, hôi thúi bất tịnh, nếu một vài ngày không tắm rửa chăm sóc thì thối tha không chịu được.
Vả lại, cái thân của chúng ta rất dòn bở mong manh; khát nước độ ba ngày, ngạt thở độ năm phút, đứt một mạch máu, bị nhiễm vi trùng độc,… thế là mạng vong không còn sống được nữa.
Lại nữa, cái khổ sống chết bất ngờ mà không ai làm chủ, còn biết bao nhiêu cái khổ khác nữa chồng chất lên nhau, không sao tránh khỏi như: bệnh tật, tai họa đói khát, bão lụt, chiến tranh, động đất, hỏa hoạn, chiến tranh áp bức, sưu cao thuế nặng, v.v… đó là khổ khổ.
2. Hoại khổ: Thật vậy, vạn vật trong vũ trụ có hình tướng đều phải bị hoại diệt vì luật vô thường chi phối từng giây từng phút nên không có vật gì được tồn tại mãi, dù cho sắt đá lâu ngày cũng phải mục nát, to lớn như đất trời còn phải tan hoại.
Yếu ớt nhỏ nhoi như thân người thì mạng sống như bong bóng nước, như mây nổi giữa trời, như hoa phù dung sớm nở tối tàn, mỗi phút mỗi giây chúng ta đang sống là mỗi phút mỗi giây đang hủy hoại, dù cho chúng ta có sức khỏe, có quyền thế, có giàu sang tiền của, châu báu ngọc ngà, vàng bạc có chất đầy cả không gian này thì cũng không cản ngăn, chống đỡ không cho thời gian hủy diệt đời sống của chúng ta được. Chúng ta hoàn toàn bất lực trước sự vô thường của thời gian.
“Tấc bóng thời gian một tấc vàng
Tấc vàng tìm được không gì khó
Tấc bóng thời gian khó hỏi han”.
Thật là khổ sở, tủi nhục, đau đớn cho kiếp sanh làm người!
3. Hành khổ: Là chỉ cho mọi hành động của chúng ta: thương ghét, giận hờn, lo lắng, ưa thích, ham muốn, v.v… Vả lại mỗi hành động của chúng ta đều mang theo bản chất thiện và ác; ác thì làm khổ mình khổ người; thiện thì không làm khổ mình khổ người, nhưng phần nhiều hành động thân, miệng, ý của chúng ta thường đem đến sự khổ đau cho nhau hơn là đem đến sự an vui hạnh phúc.
Bởi vậy, đức Phật dạy: “Các hành là vô thường, là khổ”, lúc thì nó hành như thế này, lúc thì nó hành như thế khác, nó không bao giờ đứng yên lặng một chỗ. Nếu chúng ta chịu khó quan sát thì sẽ nhận thấy rõ ràng:
Thân thì chẳng lúc nào chịu im lặng, không đi thì ngồi, không ngồi thì đứng, không đứng thì nằm, không nằm thì làm việc này việc khác, lúc nào thân cũng động đậy trừ ra lúc nằm ngủ.
Miệng lúc nào cũng muốn nói chuyện, không chuyện này thì nói chuyện khác, nếu vắng một lúc không nói là đi tìm người để nói chuyện, con người vốn thích động không thích tịnh, sống độc cư trầm lặng một mình chịu không nổi, cho nên các Tổ quở trách các đệ tử: “Không chịu để miệng đóng mốc meo”.
Ý thì lăng xăng nghĩ chuyện này sang chuyện khác như con ngựa không cương, như con vượn chuyền cây không bao giờ dừng nghỉ. Đó là ba chỗ hành của thân con người, ba nơi đó nếu chúng ta không biết dừng nghỉ những hành động ác thì sẽ mang lại cho mình và mọi người biết bao nhiêu là thứ đau khổ xảy ra, cho nên đức Phật nói: “Hành là khổ” là vậy.
Ba thứ khổ này lại chia ra làm tám thứ khổ:
1, Sanh khổ 
Sanh ở đây có hai nghĩa: đời sống và sự sanh đẻ.
a) Khổ trong lúc sanh ra: Người sanh và đứa bé được sanh đều khổ. Khi người mẹ mới mang thai đã bắt đầu biếng ăn, mất ngủ, nôn oẹ, dã dợt, bần thần, người gầy ốm trong những tháng đầu. Thai nhi mỗi ngày mỗi lớn thì người mẹ mỗi ngày mỗi mệt mỏi, nặng nề, đi đứng khó khăn, làm lụng chậm chạp. Khi gần đến ngày sanh thì sự đau đớn không sao nói hết được.
Đến ngày hoa khai nở nhụy nếu thuận thai thì người mẹ cũng đau đớn thập tử nhất sanh, khi sanh con ra mẹ phải chịu nhơ uế nhiều ngày, yếu đuối nhiều tháng vì máu huyết hao mòn, ngũ tạng suy kém. Còn nghịch thai thì người mẹ phải bị mổ xẻ, 100 phần chết chỉ có một phần sống mà thôi, đôi khi giải phẫu người mẹ phải chịu bệnh tật suốt đời khi sinh con.
Còn đứa bé từ khi chào đời cũng phải chịu nhiều điều khổ sở. Chín tháng mười ngày trong bụng mẹ sống trong cảnh tối tăm chật hẹp. Đến kỳ sanh nở thì thân còn phải chen qua chỗ chật hẹp như bị đá ép bốn bề nên khi vừa thoát ra ngoài vì khổ quá, vả lại còn bị móc miệng đau đớn không cùng nên vội khóc thét lên.
“Thảo nào lúc mới chôn nhau.
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra!”
b) Khổ về đời sống: Khổ về đời sống có hai phương diện vật chất và tinh thần:
Khổ về vật chất: Cuộc sống của con người đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu như: món ăn, thức uống, y phục, nhà ở, thuốc men. Muốn có những nhu cầu ấy, con người phải lao động cần cù quanh năm suốt tháng vất vả khổ sở mới đổi lấy nó được, phải bằng mồ hôi nước mắt và sức lực của mình. Nhiều khi suốt đời làm lụng cơm không đủ ăn, nhà ở không đủ ấm.
Chẳng những đợi đến cảnh đói khát mới là khổ; ăn uống thất thường bữa đói bữa no, thiếu thốn trước sau cũng đã là khổ. Chẳng lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, hay ăn lông ở lỗ mới gọi là khổ; áo quần không đủ ấm, nhà cửa không che được nắng mưa đó cũng là khổ lắm rồi. Người nghèo đã khổ như thế thì người giàu có khổ hay không?
Muốn có tiền bạc của cải tài sản, tất phải thức khuya dậy sớm, buôn tảo bán tần đầu tắt mặt tối trong công việc, mồ hôi nước mắt đổ ra biết bao nhiêu mới có được chứ đâu phải tiền bạc, của cải, tài sản ở trên trời rơi xuống mà phải bằng công sức và đầu óc tính toán nhiều khi phải quên ăn, mất ngủ.
Nhưng khi đã có của cải rồi, đâu phải là sung sướng, phải lo giữ gìn bảo vệ nó, nếu một mai bị trộm cướp, nước trôi, hỏa hoạn hoặc bị vua quan sung vào công quỹ thì khổ sở vô cùng, có người vì của cải tài sản mất mà điên, cũng có người vì của cải mất mà phải buồn khổ đến chết, đó là khổ sở về vật chất.
Khổ về tinh thần: Thì không biết bao nhiêu sự khổ kể ra làm sao cho hết. Chúng tôi nêu lên một vài ví dụ như: thua kém mọi người từ ăn mặc đến nhà ở là chúng ta đã khổ, thua kém từ học thức đến địa vị trong xã hội là chúng ta cũng khổ, khổ từ những lời nói khen chê của kẻ khác, khổ vì bị lừa gạt, bị áp bức, khổ vì những người thù oán, khổ vì bị kẻ khác khinh bỉ, v.v… 
Tóm lại, về vật chất lẫn tinh thần trong cuộc sống của chúng ta có biết bao nhiêu là sự khổ đau mà làm con người phải gánh chịu, cho nên chơn lý thứ nhất của đạo Phật là “Khổ Đế”. Khổ Đế là chỉ cho đời sống của con người khổ thật, khổ thật nhưng không phải biết khổ để mà trốn khổ, để mà tiêu cực yếm thế bỏ đời.
Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy một sự thật hiển nhiên của cuộc sống là khổ như vậy để mà vượt lên trên những nỗi khổ đó, để xây dựng cho mình, cho người có một nền đạo đức nhân bản không làm khổ mình, khổ người, để biến cảnh thế gian thành cảnh giới Cực Lạc Thiên Đàng.
Cho nên kẻ nào thất tình thất vọng vào chùa tu hành để nhờ câu kinh tiếng kệ mà quên đi sự đau khổ của cuộc đời là kẻ hèn nhát không xứng đáng là đệ tử của đức Phật.
Còn kẻ nào mượn Phật giáo kinh doanh làm giàu trên mồ hôi nước mắt của tín đồ, ngồi mát ăn bát vàng là kẻ ăn cướp của đàn na thí chủ, của mọi người. Là kẻ bày ra nhiều trò mê tín lừa đảo những người còn vô minh mang nặng lòng kiến chấp những phong tục tập quán lạc hậu. Đó là những loài ma vương đội lốt tu sĩ và cư sĩ Phật giáo để diệt Phật giáo chứ không phải là chấn hưng Phật giáo.   
2, Lão khổ
Con người đến lúc già thân thể hao mòn, tinh thần suy kém nên thể xác lẫn tinh thần đều khổ. Càng già khí huyết càng hao mòn, ngày ngày càng mỏi mệt, hoạt động một cách yếu ớt, mắt mờ tai điếc, tay chân run rẩy, đi đứng khó khăn, làm việc gì cũng phải nhờ đến kẻ khác, khi trời trở tiết thì toàn thân đau nhức, đó là cơ thể già là khổ như vậy.
Càng già thân thể càng suy yếu, trí tuệ càng lu mờ, do đó sanh ra lẫn lộn quên trước quên sau, hành động giống như kẻ ngây dại, có khi ăn dơ uống bẩn mà không biết, nói năng lặp đi lặp lại như người mất trí; ăn rồi bảo chưa ăn, chưa ăn bảo ăn rồi, có khi nói nhảm nhí một mình thật đúng là già khổ.
3, Bệnh khổ
Bất luận thân của chúng ta đau bệnh gì, từ cái đau lặt vặt như đau răng, nhức đầu, mỏi tay, mỏi chân cho đến những bệnh hiểm nghèo trầm trọng như ung thư, lao phổi, hoặc cùi phong, đái đường, lên máu, sơ gan, cổ trướng, v.v… đều làm cho con người phải đau khổ, nhức nhối rên xiết,… Nhất là những bệnh trầm kha thì lại hành hạ xác thân, đắng cơm, nghẹn nước, cầu sống không được, cầu chết cũng không xong, oan oan ương ương thật là khổ não. Thân bệnh đau mà tiền thì không có, có người sau khi lành bịnh thì tiền bạc không còn, của cải tài sản bán sạch, chỉ còn hai bàn tay trắng, sống một đời sống tràn đầy sự khổ đau bất tận, cuộc sống là một màn đêm đen tối hướng về tương lai.
Đó là về bản thân phải chịu lấy những bệnh khổ, còn về những thân bằng quyến thuộc thì buồn rầu lo sợ cho nên mỗi khi trong nhà có người bị bệnh thì cả gia đình đều rộn ràng bâng khuâng đứng ngồi không yên, quên ăn mất ngủ, bỏ cả công ăn việc làm, thật đúng như lời đức Phật dạy: “Bệnh là khổ”. Khổ về tinh thần và khổ về thân xác vật chất, cho nên ai có thân bệnh đều sợ cả, không ai mà không sợ bệnh khổ.
4, Tử khổ
Trong bốn cái khổ của đời người là sanh, già, bệnh, chết, nhưng chết thì ai nghe nói đến cũng đều kinh hãi, nhất là ai cũng biết rằng con người sớm muộn gì rồi cũng phải chết, nhưng nghe nói chết thì ai cũng sợ, sợ nhưng không ai tránh khỏi.
Chết là khi cơ thể tan rã, nhưng trước khi tan rã hoại diệt nó đau đớn từng đốt xương lóng tay, da thịt như ai dần ai bầm rêm cả thân người, nằm không yên, ngồi không được, người đời thường gọi đó là lúc trăn trở để mà chết, nên trước khi chết mọi người ai cũng phải chịu sự đau khổ tận cùng của thân mạng này rồi mới chết. Cho nên đức Phật dạy: “Chết là khổ chứ không phải chết là hết khổ”.
Người đời thường nghĩ chết là hết khổ, sự thật không phải vậy, chết là một sự nối tiếp sự khổ. Hiện tượng người chết quá ư khổ thì khi họ tái sanh cũng khổ và còn khổ hơn nữa, ngược lại người chết không khổ thì tiếp tục tái sanh không khổ.
Chúng ta cần lưu ý, trong thế gian có bốn hạng người:
Hạng người thứ nhất: Chết khổ là hạng người bị bệnh đau khổ sở vô cùng, ăn, ỉa, đái một chỗ, chịu hôi, chịu thối của xác thân tứ đại cho đến khi chết phải đau nhức trăn trở khổ sở tận cùng rồi mới chịu chết, đó là hạng người chết khổ.
Hạng người thứ hai: Chết ít khổ là những hạng người bị bệnh mà không phát hiện ra, đến khi thình lình đứt mạch máu não hoặc rút tay giựt chân, méo miệng rồi ngã lăn ra chết, những người này thời gian thọ bệnh khổ rất ngắn, đó là hạng người chết ít khổ.
Hạng người thứ ba: Chết không khổ là hạng người không bị bệnh đau gì cả, nằm ngủ rồi ngủ luôn, đó là hạng người chết không khổ.
Hạng người thứ tư: Làm chủ sự sống chết, họ muốn sống là sống và muốn chết là chết, chết lúc nào cũng tự tại dễ dàng, không phải chờ bệnh đau tận cùng rồi mới chết, đó là hạng người làm chủ sự sống chết như đức Phật và các bậc thánh Tăng A-la-hán.
Cho nên trong đời sống loài người có bốn hạng như vậy là do những nguyên nhân khác nhau:
Hạng người thứ nhất chuyên làm ác giết hại chúng sanh như những người làm nghề đồ tể, săn bắn, chài lưới, v.v… và những hạng người chuyên lừa đảo thiên hạ buôn thần bán Thánh, v.v…
Hạng người thứ hai có làm ác có làm thiện, nên chết ít khổ hơn.
Hạng người thứ ba sống chuyên làm thiện không làm khổ mình khổ người.
Hạng người thứ tư là những bậc tu hành toàn thiện, toàn định, toàn tuệ, đầy đủ thần lực làm chủ nhân quả, chấm dứt luân hồi nên luật nhân quả không còn tác động họ được.
5, Ái biệt ly khổ
Con người sanh ra ở đời ai cũng có lòng yêu thương, loài thú vật cũng có lòng thương yêu, chúng cũng biết buồn thương và khóc huống là con người như chúng ta, tình thương giữa vợ chồng, con cái, anh em, chị em, cha mẹ, quyến thuộc, bạn bè, thân hữu, v.v… đang thương yêu mặn nồng thắm thiết mà bị sự bắt buộc chia ly thì thật không có gì đau đớn hơn khi kẻ bắc người nam hoặc kẻ còn người mất. Sự chia ly chia ra làm hai loại:
a) Sanh ly khổ: Một gia đình đang sống trong cảnh xum họp đầm ấm, an vui, bỗng có một hoàn cảnh bắt buộc hay vì một thiên tai, giặc giã, v.v… làm cho mỗi người bơ vơ thất lạc nhau, kẻ đông người tây, kẻ nam người bắc, kẻ góc biển người chân trời, nỗi nhớ mong thương xót không cùng. Sự sống mà chia ly nhau là sự đau khổ không cùng nên người đời khổ quá mới nói ra lời: “Thà lìa tử chứ ai nỡ lìa sanh”.
b) Tử biệt khổ: Người ở đời mỗi lần chết là một lần vĩnh viễn không còn gặp nhau nữa, dù là ly biệt có khổ nhưng còn có ngày hy vọng gặp lại nhau chứ một khi đã chết rồi thì bao thuở được xum vầy nữa. Cho nên trước cảnh chết là một sự ra đi vĩnh viễn, làm người trước cảnh ấy ai mà chẳng nức nở khổ đau.
Vì thế trước cảnh này đã có nhiều người xót thương rầu rĩ không còn thích ăn thích ngủ, có người quá đau đớn tuyệt vọng vì thương nhớ đến nỗi phải toan chết theo người thân thương quá cố của mình, có người ôm quan tài của người quá cố lăn lộn nức nở nghẹn ngào, nước mắt tuôn rơi lả tả dường như ai cắt ruột cắt gan mình.
Đó là cái khổ của tử biệt, mà sanh ra làm người ai ai cũng phải biết và bao lần đứt ruột đứt gan, nước mắt đổ xuống vì những người thân thương ra đi vĩnh viễn. Chính bản thân chúng tôi khi người cha thân yêu của chúng tôi ra đi vĩnh viễn, nước mắt của chúng tôi đã đổ xuống chan hòa, cổ chúng tôi nghẹn ngào, chúng tôi thầm ước nguyện:
“Con nguyện sẽ tìm cha cho bằng được dù bất cứ có gian khổ như thế nào con cũng không chùn bước trước mọi gian nguy thử thách, trừ ra con chết, nếu còn một chút hơi thở dư tàn con cũng quyết tìm cha cho bằng được”.
Lời nguyện ước này cộng thêm sự sách tấn của Hoà Thượng Thanh Từ: “Đạo Phật còn là còn người tu chứng”. Những điều này đã tạo thành một mãnh lực quyết liệt trong đời tu hành của chúng tôi để chiến đấu và chiến thắng từng tâm niệm ham muốn các ác pháp trong nội tâm của mình. Cuối cùng chúng tôi đã chiến thắng và mãn nguyện.
Còn hiện giờ mọi người tu chỉ tu danh, tu lợi, tu mà sợ khổ, sợ cực nhọc, sợ đói, sợ khát, sợ chết, sợ mất sức, sợ bỏ của cải tài sản, sợ bỏ vợ bỏ con tội nghiệp, tu mà còn tham muốn thần thông phép tắc hơn người, chưa tu được gì mà vội muốn làm thầy thiên hạ, vay mượn kinh sách của người xưa, nhai đi nhai lại những thứ bã mía lừa đảo người, cho nên tu hành chẳng ra gì.
Tử biệt sanh ly là nỗi khổ của loài người, thế mà đã đi tu lại không lo giải quyết cho xong, đã bao nhiêu lần nước mắt tuôn rơi vì mất cha, mất mẹ mà còn không biết, không lo. Cha mẹ còn hay mất ở nơi đâu, đi về đâu? Vậy mà dám vỗ ngực xưng tên là con hiếu. Cha mẹ chết mặc cha mẹ, cứ mãi lo tiền bạc, danh vọng, nhà cửa, chẳng còn ai hay biết gì, nhưng tiền bạc danh vọng đó chết rồi cũng không mang theo được, chỉ còn lại nghiệp thiện ác mà thôi, để rồi tiếp tục trên con đường khổ đau như cũ, quanh quẩn trong vòng luân hồi muôn đời muôn kiếp.
6, Cầu bất đắc khổ
Người sanh ra ở đời ai cũng có sự hy vọng, sự hy vọng càng nhiều thì sự thất vọng càng to. Bất luận trong tất cả mọi việc làm, số người làm đạt được như ý muốn thì quá hiếm mà kẻ thất bại thì quá nhiều, cho nên gặp thất bại không có người nào là không khổ; có người thất bại quá nên tự tử; có người thất bại bỏ vào chùa tu.
Còn muốn đạt kết quả tốt đẹp, người ta phải vận dụng không biết bao nhiêu là năng lực, lao tâm tổn trí, quên ăn bỏ ngủ để đạt được kết quả như ý muốn, nhưng đến giờ phút cuối cùng không thành công thì sự đau khổ không biết là dường nào.
Ví dụ: Như người buôn bán lỗ lã, người nông phu làm mùa thất bại, người học trò thi rớt, v.v… thì khổ sở và cay đắng biết là bao nhiêu, nói sao cho cùng.
“Gót danh lợi bùn pha sắc xám
Mặt phong trần nắng nám mùi dâu!”
                                                                     (Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều).
Muốn mau làm giàu, nhiều người tìm mọi cách gian xảo, lừa đảo, lường gạt người, nhưng mưu gian chước lận, ăn lo hối lộ đổ bể, tài sản bị tịch thu, bản thân bị tù tội, gia quyến bị nhục nhã xấu hổ không dám nhìn mọi người, thật đau đớn và khổ sở.
Trong cuộc đời nói về tình ái, biết bao nhiêu người tình duyên trắc trở đưa đến sự quyên sinh vì thất vọng thất tình. Trên đây là những sự cầu mong mà chẳng đạt được thành ra bao nhiêu thứ khổ.
7, Oán tằng hội khổ
“Thấy mặt kẻ thù như kim đâm vào mắt; ở chung với người nghịch như nếm mật nằm gai”. Lời nói này không sai, vì gần những người thù oán thì tâm mình khổ sở vô cùng, cho nên kinh gọi là oán tằng hội khổ rất đúng vậy.
Người trong một gia đình anh em dòng họ quyến thuộc vì tranh chấp một lý do nào đó sanh ra bất hòa với nhau, khi nhìn thấy mặt nhau cũng là rất khó chịu. Hằng ngày phải thấy mặt nhau, vì là tình thân quyến thuộc, ghét không ưa mà cứ gặp nhau là rất khổ tâm.
Muốn tránh mà tránh không được, ở gần có ngày phải đụng chạm to tiếng và có thể xảy ra án mạng, tù tội hoặc đi nằm nhà thương, bởi vì thù oán nhau thì phải có ngày đi đến chỗ khổ đau lớn, đó là “Oán tằng hội khổ”. 
8, Ngũ ấm xí thạnh khổ
Thân ngũ ấm của chúng ta gồm có: sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm, năm ấm ấy luôn luôn sống trong động theo luật chi phối của nhân quả. Vả lại, năm ấm này được sanh ra từ vô minh nên mỗi sự hoạt động của nó thúc giục theo lòng ham muốn nên tạo ra biết bao nhiêu điều ác khiến cho mình khổ và người khác khổ vô lượng vô biên.
Thân ngũ ấm bị luật vô thường chi phối từng giây từng phút khiến cho sự thay đổi liên tục, từ trẻ đến già, từ mạnh đến ốm, từ bệnh đến chết, luôn luôn lúc nào cũng làm cho con người khổ sở buồn phiền, lo lắng, sợ hãi.
Sáu trần lôi cuốn, thất tình lục dục đắm say khiến cho thân tâm khổ lụy vô cùng tận. Vọng tưởng điên đảo, chấp trước dính mắc đủ thứ vật chất thế gian nên chấp có ta, của ta và bản ngã của ta, do đó mới thấy còn, mất, khôn, dại, chấp có, chấp không, vì vậy mà sanh ra rầu lo, đau khổ buồn phiền.
Thân ngũ ấm đi, đứng, ngồi, nằm nhiều quá, chịu cũng không nổi, vì mỏi mệt tê đau nhức cho nên phải có lúc đi, lúc nằm, lúc đứng, lúc ngồi. Thân ngũ ấm bắt buộc phải động đậy liên tục như vậy thì mới thấy dễ chịu, cái dễ chịu của sự động thì làm sao mà được an vui, thanh tịnh chân thật? Nên đó là những sự khổ đau của thân ngũ ấm.
Thân ngũ ấm là một khối năm duyên hợp lại trong môi trường sống, nhưng hành động đều do nghiệp lực nhân quả tạo tác nên mỗi con người sanh ra đều phải chịu theo quy luật nhân quả thiện ác khổ vui mà thọ hưởng hoặc chịu lấy sự khổ vui nhiều ít là tùy theo những hành động thiện ác, chứ không có một kẻ nào ban phước giáng họa cho loài người được.
Chỉ vì sự mê lầm chấp đắm vật chất, cho rằng người nào có nhiều vật chất là hạnh phúc nên mỗi hành động luôn luôn kèm theo sự ích kỷ, nhỏ hẹp cho cá nhân của mình, thường không những làm khổ người mà còn làm khổ mình. Đức Phật dạy:
“Là con người chứ không phải là con thú vật thì phải làm thiện, làm thiện không có nghĩa làm việc từ thiện, mà làm việc thiện ở đây có nghĩa là không làm khổ mình khổ người”.
Như vậy các hành trong thân ngũ ấm mới không còn khổ đau nữa, chứ làm việc từ thiện theo kiểu Đại Thừa, phước đâu không thấy mà bị kẻ khác lợi dụng thì có, cho nên tai họa bệnh tật khổ đau thường viếng thăm những người làm thiện này.
Trong kinh sách Nguyên Thủy, đức Phật dạy: “Các hành là vô thường, là khổ”. Nhưng chúng ta học đạo đức nhân bản – nhân quả không làm khổ mình, khổ người của đạo Phật nên các hành đều thực hiện nhân quả thiện, mà các hành đã làm thiện thì quả là phước, mà quả phước thì thân con người thanh thản, an lạc và vô sự.
Thân tâm thanh thản, an lạc và vô sự, đó là thân tâm thanh tịnh. Thân tâm thanh tịnh tức là thiền định, thiền định thì thân tâm bất động. Thân tâm bất động tức là các hành ngưng hoạt động, các hành ngưng hoạt động tức là chấm dứt sự vô thường và khổ đau. Chấm dứt sự vô thường và khổ đau là phước vô lậu, là cảnh giới Niết Bàn tại thế gian.
Tóm lại, người tu Định Vô Lậu câu hữu với Khổ Đế tức là quán xét ba khổ: khổ khổ, hoại khổ, hành khổ để chúng ta rõ thấu và cố gắng tránh không làm khổ mình khổ người và điều đó khiến cho thân tâm chúng ta vô lậu, mà mục đích của đạo Phật là phải đạt tâm vô lậu.




Kì 3: Học Giới - Định - Tuệ (tiếp theo 3)
Pháp học đầu tiên: TỨ DIỆU ĐẾ
2- Chân lý thứ hai: Tập Đế
[Lưu ý: trước khi độc giả tìm hiểu Chân lý thứ 2: Tập Đế, chúng tôi xin giới thiệu một thời pháp khác của Trưởng lão giảng về TỨ DIỆU ĐẾ để chúng ta cùng suy ngẫm, chớ vội kết luận Trưởng lão dạy không nhất quán, trái lại càng làm cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn về Pháp Chân Thật.
Trong cuốn “Những Lời Gốc Phật Dạy” tập IV (NXB Tôn giáo Hà Nội – 2006 tr.195) Trưởng lão dạy như sau:
1- Khổ đế là chân lý thứ nhất, tức là tâm Tham, Sân, Si. Tâm tham, sân, si là con người ai mà không có. Do tâm tham, sân, si mà con người đau khổ. Người giác ngộ được tâm tham, sân, si là khổ đau, là người giác ngộ được chân lý thứ nhất.
2- Tập đế là chân lý thứ hai tức là nguyên nhân sinh ra tâm tham, sân, si, đó là ÁI DỤC, ái dục tức là lòng ham muốn. Làm con người ai mà không có lòng ham muốn. Do tâm tham muốn mà sinh ra tâm tham, sân, si nên phải chịu nhiều khổ đau. Người giác ngộ được lòng ham muốn là khổ đau là người giác ngộ chân lý thứ hai. …] 
Dưới đây chúng tôi giới thiệu từ ĐVXP tập II (NXB Tôn giáo Hà Nội – 2006 tr.155):
Định Vô Lậu câu hữu với Tập Đế tức là chúng ta quán xét nguyên nhân sanh khởi sự khổ đau của con người để thấu rõ nó, có thấu rõ nó, chúng ta mới cố gắng ngăn chặn diệt trừ và đoạn dứt.
Vậy Tập Đế là gì?
Chữ Tập có nghĩa là nơi tập hợp mọi sự đau khổ, phiền não của con người, Tập còn có nghĩa là nơi chứa nhóm, dồn thêm mỗi ngày một nhiều hơn.
Chữ Đế có nghĩa là sự thật, đúng đắn không sai.
Tập Đế là một nguyên nhân của mọi sự khổ đau đã chứa nhóm và tích trữ lâu đời nhiều kiếp trong mỗi chúng sanh. Nói một cách khác hơn đó là cội gốc sanh tử luân hồi của loài người. Cội nguồn sanh ra mọi sự đau khổ phiền não của con người gồm có 10 phiền não gốc là:
1, Tham:
Có nghĩa là lòng tham lam, như Hoà Thượng Thiện Hoa dạy: 
“Tánh tham có động lực bắt ta phải dòm ngó, theo dõi những cái gì nó ưa thích, như tiền tài, danh vọng, miếng ăn, chỗ ở, v.v… rồi nó xui ta lập mưu nầy, chước nọ để tìm kiếm cho được những thứ ấy. Điều tai hại nhất là lòng tham không đáy, thâu góp bao nhiêu cũng không vừa; được một muốn có mười, được mười muốn có trăm.
Tham cho mình chưa đủ mà còn tham cho bà con quyến thuộc và xứ sở của mình.
Cũng vì tham mà ăn không ngon, ngủ không yên; cũng vì tham mà cha mẹ vợ con xung đột; cũng vì tham mà bè bạn chia lìa; cũng vì tham mà đồng bào trở lại xung đột, xâu xé lẫn nhau; cũng vì tham mà chiến tranh tiếp diễn, giết hại không biết bao sanh linh.
Tóm lại, chỉ vì tham mà nhân loại và chúng sanh chịu không biết bao nhiêu điều thống khổ”.
Lòng tham đã mang đến không riêng cho chúng ta khổ mà còn cả mọi người, không những trong quá khứ, hiện tại mà còn có thể kéo dài trong tương lai nữa.
2, Sân:
Có nghĩa là nóng giận. Hoà Thượng Thiện Hoa dạy:
“Khi gặp những cảnh trái ý nghịch lòng, như lòng tham không được toại nguyện thì sân nổi lên như một ngọn lửa dữ đốt cháy lòng ta. Thế là mặt mày đỏ tía hay tái xanh, bộ dạng thô bỉ, nói năng hung dữ, có khi dùng đến võ lực hay vũ khí để hạ sát kẻ làm trái ý, phật lòng mình.
Vì nóng giận mà cha mẹ, vợ con, anh em xa lìa, bạn bè ly tán; vì nóng giận mà mọi người trở nên thù địch, nhân loại đua nhau ra chiến trường; vì nóng giận mà kẻ bị tàn tật, người vào khám đường, kẻ mất địa vị, người tan sự nghiệp.
Kinh dạy: “Nhất niệm tâm sân khởi, bách vạn chướng môn khai” có nghĩa là một niệm nóng giận nổi lên thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra.
Sách xưa dạy: “Nhất tinh chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn” có nghĩa là một đốm lửa giận, có thể thiêu đốt sạch muôn mẫu rừng công đức.
Thật vậy, lửa sân hận đã bừng cháy lên giữa lòng nhân loại và đã đốt thiêu không biết bao nhiêu công lao, sự nghiệp mà con người đã tốn rất nhiều mồi hôi nước mắt mới tạo ra được”.
Đúng vậy những lời dạy trên đây rất thực tế và cụ thể để răn nhắc cho những ai còn mang đầy ắp tâm sân hận là một nỗi khổ đau tận cùng của kiếp người khi tâm sân khởi ngút ngàn.
3, Si:
Có nghĩa là si mê, mờ ám, biết không rõ, không chính xác, không đúng. Hoà Thượng Thiện Hoa dạy:
“Si như là một tấm màn dày đặc, đen tối trùm lên trí tuệ của ta, làm cho ta không thể nhìn thấy được sự thật, phán đoán được cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu. Do đó ta gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi, làm hại mình hại người mà không hay.
Vì si mà lòng tham trở thành không đáy, bởi vì nếu người sáng suốt thấy cái tai hại của lòng tham thì người ta đã kềm hãm được một phần nào tánh tham.
Vì ngu si mà lửa giận bùng cháy; nếu người sáng suốt biết cái tai hại của lửa sân thì không để cho nó hoành hành như thế.
Người xưa dạy: “Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác tri” có nghĩa là không sợ tâm tham và sân, mà chỉ sợ tâm si mê. Nếu tâm tham sân nổi lên mà có trí tuệ sáng suốt ngăn chặn lại thì lòng tham sân phải bị dập tắt, không còn làm gì được cả.
Cho nên đạo Phật lấy trí tuệ làm đầu, nếu đã có trí tuệ sáng suốt thì lòng tham sân không thể tồn tại được cũng như khi đã có ánh sáng mặt trời lên thì bóng tối tất nhiên phải tan biến. Đức Phật thường gọi tham, sân, si là ba độc, nó thường làm đau khổ chúng sanh và phải chịu nhiều kiếp sanh tử luân hồi, đọa vào ba cõi địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh”.
4, Mạn:
Có nghĩa là ngã mạn, kiêu căng, tự đắc. Hòa Thượng Thiện Hoa dạy: 
“Mạn là nâng cao mình lên và hạ người khác xuống; tự thấy mình là quan trọng mà khinh rẻ mọi người; ỷ mình có tiền của tài trí, có học thức, có cấp bằng Cao học như tiến sĩ hay có quyền thế mà sanh tâm dương dương tự đắc, mục hạ vô nhân, khinh người già cả, hỗn láo với người đức hạnh, chà đạp người dưới, lấn lướt người trên.
Vì lòng ngã mạn tự kiêu tự đại cho mình là hơn hết nên chẳng chịu học hỏi thêm những điều hay lẽ phải. Do đó làm nhiều điều lầm lẫn sai quấy gây ra bao nhiêu tội ác, phước lành tổn giảm, tội lỗi càng tăng, cho nên phải chịu sanh tử luân hồi muôn đời ngàn kiếp”.
Mạn có bảy thứ:
a) Mạn: Nghĩ mình hơn người.
b) Ngã mạn: Ỷ mình hay giỏi mà lấn lướt người.
c) Quá mạn: Mình bằng người mà cho là hơn người, người hơn mình mà cho là bằng.
d) Mạn quá mạn: Người hơn mình nhiều mà cho mình hơn người.
e) Tăng thượng mạn: Chưa chứng Thánh quả mà cho mình đã chứng.
f) Ty liệt mạn: Mình thua người nhiều mà nói mình thua ít.
g) Tà mạn: Người tu về tà mạn được chút ít thần thông, hoặc hiểu biết đôi chút việc quá khứ, vị lai rồi khinh lướt người khác xem trời đất không còn ai.
5, Nghi:
Có nghĩa là lòng nghi ngờ, ngờ vực, không tin. Hoà Thượng Thiện Hoa dạy: 
“Người nghi ngờ không làm được việc gì hết. Đối với người thân trong gia đình, họ không tin cậy giao phó công việc; đối với bạn bè, họ nghi ngờ tất cả mọi thiện chí. Ngay đối với họ, họ cũng không tự tin nữa. Đã không tự tin, họ còn gây hoang mang cho người chung quanh, làm cho người ta ngã lòng thối chí”.
Đối với đạo lý chân chánh như đạo Phật có một nền đạo đức nhân bản giải thoát tuyệt vời mà họ cũng không tin, nhưng họ lại tin theo tà giáo và những pháp môn mê tín, trừu tượng của kinh sách phát triển.
Trong sự nghi ngờ có ba phương diện:
a) Tự nghi: Có nghĩa là nghi mình. Chẳng hạn như đọc kinh sách Đức Phật dạy: “Tu hành sẽ được giải thoát”, nhưng lại tự nghĩ rằng: “Chẳng biết mình tu có được không?” Vì lòng do dự nghi ngờ ấy nên không chịu tu hành.
b) Nghi pháp: Có nghĩa là nghi phương pháp mình đang tu. Chẳng hạn như nghe kinh Tứ Chánh Cần dạy: “Ngăn ác, diệt ác pháp, sanh thiện, tăng trưởng thiện pháp” thì sẽ được giải thoát ngay liền, hay như trong kinh Pháp Cú dạy: “Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư Phật Giáo”. Do sự nghi ngờ lời dạy này không biết kết quả có đúng hay không? Nên không tu tập.
c) Nghi nhân: Có nghĩa là nghi người dạy mình, không tin ông thầy dạy mình, nghi pháp mình đang tu không đúng là Chánh pháp của Phật. Khi chính pháp của Phật dạy mà mình nghi là không phải pháp của Phật thì đó là mình đã đánh mất pháp chân chánh. Còn thầy dạy mình tu học mà mình nghi thầy mình là mình đã bị đứt đầu, không còn cách nào cứu chữa được.
Ở tại tu viện Chơn Như chúng tôi có một số đệ tử ham mê thần thông, nhưng chúng tôi không thể hiện thần thông nên họ mất niềm tin và không theo tu tập với chúng tôi nữa.
Mục đích tu viện của chúng tôi hướng dẫn tu tập xả tâm ly tham đoạn diệt các ác pháp để đạt được tâm giải thoát không còn phiền não, khổ đau, không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa, giúp cho con người có một đời sống đạo đức không làm khổ mình khổ người. Đấy là hạnh phúc giải thoát chứ không phải ngồi thiền nhập định năm bảy ngày hoặc kiến tánh thành Phật, hoặc tụng kinh niệm chú cho có thần thông phép lạ hoặc niệm Phật cầu vãng sanh Cực lạc Tây phương, v.v…
Ở đây chúng tôi dạy đúng theo đường lối tu tập của đạo Phật là hằng ngày không có tụng niệm, lần chuỗi, ngồi thiền ức chế tâm mà chỉ có sống đúng giới luật và theo như những lời dạy trong kinh Tăng Chi tập 3 trang 30:
“Ở đây này các Hiền giả, tỳ-kheo ưa công việc, thích thú công việc; ưa nói chuyện, thích thú nói chuyện; ưa ngủ nghỉ, thích thú ngủ nghỉ, chuyên tâm ưa thích ngủ nghỉ; ưa hội chúng, thích thú hội chúng, chuyên tâm ưa thích hội chúng, ưa liên lạc giao thiệp, thích thú liên lạc giao thiệp, chuyên tâm ưa thích liên lạc giao thiệp; ưa hý luận, thích thú hý luận, chuyên tâm thích hý luận.
Như vậy, này các Hiền giả, tỳ-kheo sống nếp sống như vậy, khi lâm chung không được hiền thiện, khi mệnh chung không được hiền thiện.
Này các Hiền giả, đây gọi là tỳ-kheo ái lạc có thân, không từ bỏ có thân để chân chánh chấm dứt khổ đau”.
Đây là lời dạy chân chánh của đức Phật, muốn tu theo đạo Phật thì phải tu đúng pháp, sống đúng pháp như lời dạy thì mới có sự giải thoát. Còn tổ chức gia đình phật tử này, đạo tràng nọ thì chỉ là một hình thức Phật giáo Đại Thừa chứ tu tập chẳng có kết quả gì, chỉ là một trò giải trí lành mạnh như bao nhiêu trò giải trí lành mạnh khác của xã hội.
Đó là những người đi tìm ái lạc của thân, vì họ là những người dư thừa thời gian không biết làm gì cho hết tuổi đời. Nếu không từ bỏ những trò giải trí này thì không bao giờ chân chánh chấm dứt sự khổ đau.
Nếu quý vị không tin lời chúng tôi nói thì nên đọc lại đoạn kinh trên rồi suy ngẫm và xét lại từ xưa đến nay biết bao nhiêu đạo tràng và gia đình phật tử họ đã được giải thoát những gì với con đường giải thoát này. Đối với đạo Phật, thời gian sinh hoạt của quý vị rất là uổng phí khi: “Được thân người là khó” nên đức Phật đã nhắc nhở:
“Tấc bóng thời gian một tấc vàng
 Tấc vàng tìm được không gì khó,
 Tấc bóng thời gian khó hỏi han.”
Thế mà quý vị sinh hoạt như vậy gọi là tu, tu như vậy có giải thoát được không? Quý vị cứ nhìn lại bản thân của quý vị thì quý vị sẽ thấy, nếu chúng tôi nói thẳng thừng thì quý vị không ưa chúng tôi, nhiều khi chúng tôi thấy quý vị như một con cờ dùng để cho người khác sử dụng nước cờ tôn giáo chứ quý vị tu như vậy dù tu một triệu năm nữa cũng chưa thấy và hiểu biết sự giải thoát như thế nào?
Chúng tôi dạy đúng như lời Phật dạy, cấm không cho tu sĩ và cư sĩ tập họp nói chuyện thì họ không thích, họ muốn tu tập theo kiểu Đại Thừa, sinh hoạt như các đạo tràng và các gia đình phật tử, họ khoái hội họp, thích vui chơi, thích nói chuyện, thích ca hát, ngâm thơ, thích tụng kinh niệm Phật.
Chỗ tu hành của chúng tôi là chỗ tu tìm sự giải thoát, làm chủ bốn sự đau khổ của kiếp người sanh, già, bệnh, chết và chủ động đi vào con đường hoá sanh, chứ không chấp nhận chịu bó tay sanh nơi dâm dục bất tịnh, ô trược, bẩn thỉu, hôi thúi và khổ đau.
Vì thế ai muốn tu được thì hãy sống đúng như lời đức Phật đã dạy, như chúng tôi đã dạy, nếu không sống được thì đừng nên theo đạo Phật tu hành, chẳng có ích lợi gì mà còn làm cho kẻ khác phỉ báng Phật giáo.
Đạo Phật không cầu mong có nhiều người tu mà phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới, vô đạo đức làm người, làm Thánh. Thà chỉ cần ít người hay một người tu đúng pháp có giới đức hẳn hoi, có một đời sống phạm hạnh của bậc Thánh Tăng thì Phật giáo mới còn rực rỡ trên thế gian này, dù chỉ có một người còn hơn đi đâu cũng gặp tu sĩ và cư sĩ mà đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, họ sống với những nghề nghiệp lừa đảo thiên hạ, thật là đau lòng cho Phật giáo ngày nay. Giữa ban ngày thắp đuốc lên đi tìm một bậc giới đức khắp trên thế gian này không bao giờ có, toàn là những tu sĩ và cư sĩ phá giới, phạm giới, bẻ vụn giới, v.v…
Nếu quý vị thấy sống không kham nổi trong giới luật của Phật thì quý vị đi tu làm gì, để phạm giới, phá giới như vậy có ích lợi gì cho quý vị và cho người khác. Nếu quý vị sống không kham nổi thì quý vị ra đời mà sống, sống trong chùa mà bày ra những trò mê tín dị đoan, cúng bái, tế lễ, xin xăm bói quẻ, v.v… đó là đi ngược lại Phật giáo. Cũng như quý vị thuyết giảng hý luận trừu tượng mơ hồ bằng lối chơi chữ để lừa đảo những người nhẹ dạ dễ tin để cầu được sự cúng dường.
Tóm lại, quý vị muốn tu theo đạo Phật thì quý vị phải nghiên cứu Phật giáo cho kỹ, nếu thấy chúng tôi dạy đúng thì xin vào tu, còn nếu thấy chúng tôi dạy không đúng thì quý vị đừng xin vào tu thử, vì sự tu thử sẽ làm quý vị phí thì giờ vô ích mà còn sanh tâm nghi ngờ chánh pháp của Phật, tạo thêm tội lỗi như quý thầy: thầy Chơn Đức, thầy Từ Minh, thầy Minh Tông, thầy Thiện Thiền, v.v… họ đã trở thành những người đệ tử bất nghĩa muôn đời, ngàn đời để lại tiếng đời không tốt cho mai sau.
Tánh nghi ngờ làm cản trở sự tiến triển tu hành cũng như những sự việc khác làm ngăn ngại mọi công tác hữu ích cho mình, cho xã hội và cũng vì tâm nghi ngờ khiến cho cuộc đời không vượt khỏi cảnh tối tăm khổ sở.
6, Thân kiến
Có nghĩa là vì không rõ nên lầm chấp thân ngũ uẩn tứ đại giả hợp này cho là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Hòa Thượng Thiện Hoa dạy về thân kiến:
“Vì cái chấp sai lầm ấy nên thấy có một cái ta riêng biệt, chắc thật không biến đổi, thấy cái ta ấy là riêng của ta không dính dấp đến người khác, và xem nó là một thứ rất quý báu.
Vì tưởng lầm như vậ, nên kiếm món ngon vật lạ cho ta ăn, may sắm quần áo tốt đẹp cho ta mặc, lo xây dựng nhà cao cửa rộng, chùa to Phật lớn, v.v… cho ta ở, thâu góp thật nhiều của cải, đất ruộng để dành cho ta dùng, kiếm công danh chức tước, địa vị cho ta hãnh diện với mọi người.
Do sự quý chuộng cung phụng cho cái ta ấy, biến Phật giáo thành tà giáo mê tín; gây mê muội và lạc hậu.
Do sự quý chuộng cung phụng cho cái ta ấy mà tạo ra lắm điều tội lỗi, chà đạp lên bao nhiêu cái ta khác làm cho họ đau khổ vì ta. Và thế giới trở thành một bãi chiến trường cũng vì cái ta”. 
Chúng ta hằng ngày chịu nhiều đau khổ cũng chính vì Thân kiến tức là cái kiến chấp về thân. Nó là một trong bảy kiết sử trói buộc và sai sử chúng ta như một tên nô lệ rất khó mà bứt bỏ. Nếu không có pháp Như lý Tác ý của Đức Phật dạy thì khó có pháp nào diệt thân kiết sử này được.
Nếu hằng ngày chúng ta không siêng tu pháp Như lý Tác ý thì chẳng bao giờ chúng ta bứt được sợi dây thân kiết sử này, cho nên đức Phật thường nhắc đi nhắc lại câu pháp hướng này: “Thân này không phải là ta, không phải của ta, không phải bản ngã của ta.”
Câu này quý vị nên nhớ mà hướng tâm hằng ngày đừng nên biếng trễ và xem thường, đó là lời tâm huyết mà đức Phật đã dạy cho chúng ta vì thương tưởng chúng ta vô minh mà lầm chấp thân kiến chịu khổ muôn đời.
7, Biên kiến
Có nghĩa là chấp một bên, nghiêng về một phía, đó là những thành kiến rất cực đoan. Biên kiến có nhiều lối chấp, sai lầm lớn nhất là:
a) Thường kiến: Có nghĩa là một loại luận thuyết mơ hồ trừu tượng cho rằng người chết còn linh hồn, cho rằng có thế giới siêu hình, có bản thể vũ trụ, có tiểu ngã, đại ngã, có thần thức, có Phật tánh, có Thiên Đàng, có Địa Ngục, có Ngọc Hoàng Thượng Đế, có Chúa Trời, có Thần, quỷ, ma, v.v…
Những người chấp thường kiến là những con người thường sống trong mê tín lạc hậu, sống trong mộng tưởng, xây dựng cảnh giới siêu hình, thường cầu cúng lễ bái và ước vọng làm những điều thiện để khi chết được sanh lên Cực Lạc, Thiên Đàng của cõi Trời, cõi Niết Bàn hay cảnh giới chư Phật. Thiền Tông, Mật Tông, Tịnh Độ Tông đều thuộc về thường kiến
b) Đoạn kiến: Đoạn kiến là một loại luận thuyết chết cứng, khô cằn, chết là hết không còn gì cả, loại luận thuyết này khiến cho con người mất hết niềm hy vọng về tương lai.
Cho nên người ta đặt ra câu hỏi: “Tương lai không có thì hiện giờ làm để làm gì?”. Ngày mai chết là hết, vì vậy con người chấp đoạn kiến thì làm bao nhiêu ăn bấy nhiêu, chẳng còn biết nghĩ đến ai cả, sống chỉ quay cuồng trong dục lạc, ăn uống vui chơi trụy lạc, xì ke, ma túy, rượu chè bê bết, sống theo kiểu hiện sinh không có ngày mai. Hòa Thượng Thiện Hoa dạy:
“Đối với hạng người chấp đoạn kiến thì hễ tắt thở là không còn gì tồn tại nữa; tội cũng không mà phước cũng chẳng có. Họ không tin nhân quả luân hồi nên mặc tình làm các điều tội lỗi.
Họ tự bảo: “Tu nhân tích đức già đời cũng chết; hung hăng bạo ngược tắt thở cũng không còn”.
Vì chấp đoạn kiến, có người đứng trước cảnh thất tình, thất vọng, hoặc gặp cảnh buồn lòng nghịch ý, tưởng rằng chết là hết đau khổ, là giải thoát tất cả khổ nên họ không ngần ngại mượn chén thuốc độc hay dòng sông sâu hoặc sợi dây oan trái để kết liễu đời mình.
Họ đâu có ngờ rằng chết rồi vẫn chưa hết! Họ đâu biết rằng luật nhân quả nghiệp báo là một luật thường hằng bất biến của môi trường sống, ngoài những hành động ác thiện của loài động vật ra, khi chết không có gì còn lại cả.
Chính vì những hành động của loài động vật là một tác nhân tạo ra nghiệp, cho nên đức Phật dạy: “Nghiệp là cha đẻ ra con người, con người là thừa tự nghiệp”. Như thế làm sao gọi là đoạn kiến. Khi chết trong ác nghiệp khổ đau thì nghiệp khổ đau ấy vẫn phải tiếp tục tái sanh trong nghiệp nhân quả đau khổ kế tiếp.
Người chấp đoạn kiến là những người không thông suốt môi trường sống hợp duyên của các pháp. Trong môi trường sống này không có một vật gì sanh ra mà đơn điệu, toàn là các pháp hợp lại tạo thành.
Ví dụ 1: Không thể có một người đàn ông cũng như một người đàn bà đơn điệu tự một mình sanh ra con được, mà phải có hai người nam nữ lấy nhau tạo duyên ngũ uẩn hòa hợp mới thành ra con người.
Ví dụ 2: Không thể lấy một cây cột, lấy một tấm tôn, một miếng vách mà bảo rằng vật đó là cái nhà được, một cái nhà phải có các vật hợp lại như: cột, kèo, vách, tôn, cửa lớn, cửa nhỏ rồi tạo dựng ra cái nhà.
Đó là các pháp trong môi trường sống này đều do duyên hợp mà thành, nhưng bảo rằng khi hoại diệt thì không còn gì hết là sai (đoạn kiến) mà bảo rằng còn thì cũng sai (thường kiến), đó là hai cái sai của những lý luận này.
c) Vừa thường vừa đoạn kiến: Có một luận thuyết cho rằng các pháp trong thế gian này vừa có vừa không như ngài Long Thọ: “Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Đó là lối lý luận trườn uốn như con lươn để rồi ngài đẻ ra trí tuệ Bát Nhã Chơn Không thành ra thường kiến.
Cuối cùng ngài cũng như các nhà thường kiến khác, nhưng giỏi khéo lý luận để che mắt thiên hạ, chứ kỳ thực Chơn Không của ngài đâu có khác gì thần thức, linh hồn, đại ngã, Phật tánh, bản thể vạn hữu, chỉ có khác là danh từ mà thôi.
Do những lý luận này đã biến những tu sĩ Phật giáo thành những nạn nhân, bỏ biết bao nhiêu công lao sức lực tu hành, cuối cùng chẳng ra gì, khổ đau cũng hoàn khổ đau, chẳng có ai làm chủ sanh, già, bệnh, chết cả.
8, Kiến thủ
Có nghĩa là chấp chặt sự hiểu biết sai lầm của mình, có ba trường hợp:
a) Kiến thủ vì ảnh hưởng tư tưởng của người khác. Khi học hiểu một điều gì do lý luận của các nhà tư tưởng như tưởng Chơn Không, Phật Tánh v.v… Cũng như thấy những hiện tượng nhập đồng, nhập cốt do cô cậu hoặc linh hồn người chết oan nhập vào nói đâu trúng đó, rồi cho đó có linh hồn người chết, có thế giới siêu hình rồi chấp chặt ai nói gì cũng không tin.
Không ngờ thế giới siêu hình là do tưởng uẩn tạo thành chứ không có thế giới siêu hình thật sự. Do sự chấp chặt này họ phải chịu thiệt thòi nhiều mặt về sự tu hành cũng như về đời sống.
b) Kiến thủ vì không ý thức được sự sai lầm của mình. Hòa Thượng Thiện Hoa dạy:
“Hành vi của mình sai quấy, ý kiến của mình sai lầm, nhưng vì không đủ trí sáng suốt để nhận thấy nên cứ bảo thủ hành vi, ý kiến của mình, tự cho mình là hay, là giỏi, ai nói gì cũng chẳng nghe”.
c) Kiến thủ vì tự ái hay vì ngoan cố cứng đầu. Biết mình làm như thế là sai, nói như vậy là không đúng, lỡ lời, nhưng vì tự ái cứ bảo thủ cái sai, cái không đúng của mình, không chịu thay đổi, không chịu sám hối, xin lỗi, không chịu từ bỏ, xa lìa.
Ví dụ: Như trước kia ông bà đã lỡ theo tà giáo ngoại đạo, nay con cháu vẫn biết đó là tà giáo nhưng cứ theo mãi không dám bỏ, cho đó là tôn giáo truyền thống của tổ tiên ông bà để lại nên không được bỏ, mặc tôn giáo đó dạy những điều phi đạo đức, phi nhân quả, thường dạy những điều cầu cúng, mê tín, lạc hậu, v.v… Có người còn nói một cách liều lĩnh, ngu si: “Xưa sao nay vậy” hay “Xưa bày nay làm”.
Cũng như cha mẹ trước làm nghề nghiệp ác: chài lưới, săn bắn hoặc làm nghề đồ tể, bán thịt sống, thịt chết, mãi dâm, bán rượu, thuốc phiện, xì ke ma túy v.v… đó là những nghề ác độc tội lỗi, đến đời con cháu vẫn cứ bảo thủ nghề ấy không chịu thay đổi nghề khác.
Nhìn rộng ra xã hội bên ngoài, có một số đông người, mặc dù thời đại của chúng ta hiện giờ con người đã có nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật hiện đại hóa đời sống, thế mà người ta cứ vẫn giữ lại những lề lối cổ tục hủ bại. Hễ trong nhà có người chết là giết heo bò để cúng kiếng, rước thầy chùa tụng kinh để cầu siêu linh hồn.
Trong khi ông thầy tụng chưa độ được ông siêu mà ông đi cầu siêu cho kẻ khác thì việc làm đó là một điều ngu si. Khi đưa đám tang thì rải giấy tiền vàng mã; mỗi khi tuần tự hay giỗ kỵ thì lại đốt giấy tiền vàng mã và quần áo kho đụn phướn xá.
Hằng năm cứ vào ngày rằm tháng ba âm lịch thì Ban Tế Tự tập họp dân chúng làm lễ kỳ an cúng tế tà Thần, ác quỷ, v.v… Làng xã chấp chặt những hủ tục mê tín lạc hậu như thế mà còn cho đó là “Văn hóa truyền thống của dân tộc” không được bỏ. Những việc làm đó đều thuộc về kiến thủ.
9, Giới cấm thủ
Có nghĩa là làm theo, sống theo giới cấm của ngoại đạo tà giáo, những giới cấm của tà giáo ngoại đạo này phần nhiều vô lý phi đạo đức, mê muội, dã man, v.v… Những giới cấm này khiến cho con người bất hiếu và tự làm khổ mình. Hòa Thượng Thiện Hoa dạy:
“Các giáo phái ngoại đạo ở Ấn Độ lấy đá dằn bụng, đứng một chân giữa trời nắng, nằm trên chỗ bẩn thỉu, leo lên cao nhảy xuống, gieo mình vào lửa, nhảy xuống sông trầm mình chịu lạnh lẽo để được phước, chặt hoặc đốt một lóng tay, có người chặt nguyên một cánh tay để cầu pháp. Những thứ cuồng tín như thế không làm cho cuộc đời sáng sủa mà còn làm cho đen tối và khổ đau thêm”.
Giới cấm thủ này chúng ta thấy trong kinh Pháp Hoa Phẩm Tựa dạy cúng dường thân mạng hoặc một phần thân mạng để cầu pháp giải thoát, khiến cho những người cuồng tín chặt hoặc đốt ngón tay, hủy hoại cơ thể của mình không tật nguyền mà thành tật nguyền, không khổ mà làm thêm khổ, đó là giới cấm thủ hay còn gọi là những giáo điều của ngoại đạo.
10, Tà kiến
Có nghĩa là chấp chặt theo lối không chân chánh, trái với sự thật, trái với luật nhân quả, phi đạo đức như trong kinh Pháp Hoa Phẩm Phổ Môn, Bồ Tát Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn chúng sanh, đó là tà kiến phi đạo đức, phi nhân quả, mê tín.
Hòa Thượng Thiện Hoa dạy:
“Nói một cách khác, tà kiến nghĩa là mê tín dị đoan, như thờ đầu trâu, đầu cọp, bình vôi, ông táo, xin xăm, bói quẻ, buộc tôm, đeo niệt, coi sao, cúng hạn, v.v…”
Nói rộng ra bốn món chấp trên đều thuộc về tà kiến cả. Nghĩa là trên đời này cái gì ý thức không hiểu được mà dùng tưởng thức để hiểu, hiểu như vậy là hiểu một cách mơ hồ, trừu tượng, không rõ ràng, không thực tế, không cụ thể đều được gọi là tà kiến.
Khi tu Định Vô Lậu câu hữu với Tập Đế thì chúng ta sống trong thực tế, cái gì ý thức hiểu biết cụ thể thực tế thì theo, còn hoàn toàn ngoài ra không tin một cái gì cả. Phần nhiều người ta thường hay sống trong tưởng thức nên người ta phải chịu khổ.
Ví dụ: Người ta chửi mình đồ chó, trâu mình tưởng ra mình là chó trâu nên mình sanh tức giận chửi mắng lại họ, cũng như người ta chửi mình: “Tao đào mồ mả cha mày lên”, mình tưởng rằng họ đào mồ mả cha mình chứ sự thật họ đâu có đào, thế mà mình sống trong tưởng rồi sanh ra tức giận chửi mắng đánh với nhau, khiến làm khổ cho nhau, thật là tà kiến điên đảo và sống không thực tế, tạo cảnh mình khổ, người khác khổ chẳng có ích lợi gì cả.
Ví dụ: Người ta chửi mình là đồ ăn cắp, ăn trộm, mình tự ái sợ người khác không hiểu mình, sanh ra nghi ngờ mình ăn cắp, ăn trộm thì xấu hổ, cái tự ái sợ hãi người ta nghi ngờ mình nên mình tức giận và buồn khổ trong lòng mãi mãi, đó là mình sống trong tưởng, chứ sự thật mình có ăn trộm ăn cắp đâu mà sợ.
Con người ở đời thường sống trong tưởng, tức là sống trong tà kiến nên luôn luôn chịu khổ đau tức giận sanh ra thù hận không nguôi, tạo ra nhiều điều ác đức tội lỗi, rồi lại còn tiếp tục bằng cách trả thù, trả oán cho đã cơn giận.
            Cho nên khi chúng ta biết áp dụng Định Vô Lậu kết hợp với Tập Đế thì chúng ta không còn sống trong tưởng, nói cách khác là chúng ta không còn sống trong tà kiến.





Kì 4: Học Giới - Định - Tuệ (Tiếp theo 3)
Pháp học đầu tiên: TỨ DIỆU ĐẾ
3- Chân lý thứ ba: Diệt Đế
Trước khi muốn quán xét Diệt Đế để thực hiện Định Vô Lậu thì chúng ta phải hiểu Diệt Đế là gì?
Diệt tức là tiêu diệt, trừ diệt, diệt ở đây tức là diệt lòng tham muốn của mình và diệt các ác pháp.
Đế có nghĩa là lý lẽ chắc thật, đúng đắn do trí tuệ sáng suốt soi thấu một cách rõ ràng không có mờ mịt, trừu tượng, ảo tưởng bằng tưởng tri.
Diệt Đế là một trạng thái tâm đã đoạn diệt lòng ham muốn và các ác pháp, người sống trong trạng thái này được xem là đã giải thoát hoàn toàn, tức là người đã làm chủ sự sống chết của mình, người làm chủ sự sống chết của mình là người hạnh phúc nhất trên thế gian này. Đó là người hết khổ.
Người ta thường bảo Diệt Đế là Niết Bàn như thế này, như thế nọ, đó là tưởng tri của các nhà học giả, nhất là các nhà học giả Đại Thừa thì lại bịa ra đủ loại Niết Bàn. Diệt Đế không phải là một cảnh giới siêu hình như các nhà Đại Thừa thường tưởng tượng và cho đó là nơi chư Phật thường trú. Nếu một người đoạn diệt lòng tham muốn và các ác pháp thì cuộc sống của họ là Niết Bàn chứ không phải ở nơi đâu cả.
Đức Phật gọi Diệt Đế là một chơn lý thật sự, một trạng thái tâm lý thật sự không còn khổ đau của kiếp người. Chứ không giống như các nhà Đại Thừa và Thiền Đông Độ xây dựng những cảnh giới Niết Bàn mơ hồ, trừu tượng, ảo tưởng, những loại Niết Bàn này không được gọi là chân lý vì nó là những cảnh giới tượng tưởng của con người, cho nên nó không thật có, chỉ duy nhất có Diệt Đế của đạo Phật mới được gọi là chơn lý của loài người mà thôi vì nó có thật.
Khi chúng ta quán xét Diệt Đế rõ thấu trạng thái thật sự giải thoát của đạo Phật là chỗ đoạn diệt lòng ham muốn và các ác pháp. Rõ thấu được như vậy chúng ta mới có phương hướng nhắm vào từng giây, từng phút đẩy lui toàn bộ lòng tham muốn và các ác pháp trong ta.
Khi đẩy lui lòng tham muốn và các ác pháp trong ta thì đó là Diệt Đế; thì đó là chúng ta đã đạt được chơn lý của kiếp sống làm người. Chơn lý của kiếp sống con người không phải là thần thông phép thuật, thế mà người đời nói đến tu hành là nói đến thần thông pháp thuật, thần thông pháp thuật chỉ là một điều huyễn hóa lừa đảo thiên hạ bằng cách làm trò ảo thuật, hoặc nói láo truyền miệng mà ngài Thường Chiếu nói: “Một con chó sủa, một bầy chó sủa theo”.
Dù nếu có thần thông thật sự đi nữa thì đó cũng chỉ là một trò ảo thuật giải trí cho những người thừa thì giờ nhàn rỗi chứ chẳng ích lợi gì cho loài người trên hành tinh này.
Từ xưa đến nay chúng ta đã từng nghe tin tức qua báo chí hoặc phim ảnh có nhiều đạo sĩ tu tập rất vất vả, nhưng lại thị hiện làm trò ảo thuật cho mọi người xem chơi, tạo danh cho cá nhân của mình, lợi dụng lòng ham mê thần thông của con người nên mở ra rất nhiều thiền đường, giảng đường để lừa đảo thiên hạ, làm hao tốn biết bao nhiêu tiền của và công sức của mọi người nhưng nhìn lại có ích lợi gì cho ai đâu.
Niết Bàn của Phật giáo chân thật như vậy, với trí hữu hạn của chúng ta đều nhận biết rõ ràng thực tế và cụ thể, không có một sự tưởng tượng nào trong trạng thái này. Vì Chân lý của đạo Phật rất thực tế trong đời sống của chúng tôi, nên chúng tôi chọn đạo Phật, lấy đạo Phật làm những bài học để xây dựng cho mình trở thành những con người có một đạo đức không làm khổ mình khổ người, và như vậy có lợi ích cho mình cho người, đó là nguyện vọng của chúng tôi khi đến với đạo Phật và tu tập Định Vô Lậu câu hữu Diệt Đế.
Diệt Đế là một chân lý thật sự có mà con người thực hiện được, làm được, sống được chứ không phải là một lý luận suông như những lý luận của các tôn giáo và các tông phái khác.
4- Chân lý thứ tư: Đạo Đế
Tu tập quán xét Định Vô Lậu câu hữu với Đạo Đế tức là chúng ta tư duy quán xét về Đạo Đế. Đạo Đế là một chơn lý thứ tư của đạo Phật. Vậy Đạo Đế là gì ?
Đạo có nghĩa là con đường đi, đạo có nghĩa là phương pháp cách thức tu tập rèn luyện trau dồi để tu sửa lại thân tâm con người, vì thân tâm con người thường hành động theo lòng ham muốn tạo ra biết bao nhiêu là sự lầm lạc, sai quấy khiến cho mình khổ, người khác khổ và tất cả chúng sinh đều đau khổ.
Đế có nghĩa là sự thật, chơn thật, không sai, đúng như thật, không dối gạt, không lừa đảo.
Đạo Đế là phương pháp dạy người tu hành có kết quả giải thoát thật sự. Đạo Đế là phương pháp tu sửa, rèn luyện thân tâm con người có đạo đức nhân bản không làm khổ mình khồ người chân thật. Biến cảnh sống thế gian thành cảnh giới Thiên đàng Cực lạc. Đạo Đế còn là phương pháp tu tập có đủ tâm lực tỉnh thức làm chủ sanh, già, bịnh, chết thật sự.
Đạo Đế là một chân lý thật sự đúng đắn không dối gạt, không lừa đảo người, mọi người nếu ai có nhiệt tâm muốn thoát ra cảnh khổ của thế gian với đầy đủ nhiệt tâm nhiệt huyết xả bỏ những ác pháp và xa lìa lòng ham muốn của mình thường đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm, cố gắng áp dụng và thực hành như vậy thì đều có kết quả giải thoát như nhau.
Đạo Đế là một chương trình giáo dục đào tạo rèn luyện con người để chứng quả vô lậu A-la-hán. Một quả vị giải thoát cao nhất trong đạo Phật (Làm chủ sanh, già, bệnh, chết). Cho nên Đạo Đế được chia ra làm tám lớp học (phương thức chân chánh) để trau dồi thân tâm từ lớp thấp đến lớp cao, gọi là Bát Chánh Đạo.
Bát Chánh Đạo gồm có:
1-   Chánh Kiến.               
2- Chánh Tư Duy.
3-   Chánh Ngữ.     
4- Chánh Nghiệp
5-   Chánh Mạng.             
6-   Chánh Tinh Tấn.
7-   Chánh Niệm.              
8- Chánh Định.
Tám lớp (phương thức) này gọi là tám nẻo, tám nẻo này để cho người mới bắt đầu tu tập cho đến khi thành tựu viên mãn đạo giải thoát. Người mới bắt đầu học tu phải vào lớp Chánh Kiến rồi lần lượt theo các lớp mà tiến lên học tất cả những lớp cao hơn.
Đức Phật đã dạy rất đầy đủ những giáo trình tu học trong các bộ kinh Nguyên Thủy về mỗi lớp Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Những bài vở nào ở lớp nào rất rõ ràng và cụ thể, nhưng các Tổ kết tập kinh sách làm lộn xộn nên hiện giờ khó có người hiểu đúng chương trình giáo dục đào tạo A-la-hán của đức Phật.
1, Lớp thứ nhất: Chánh Kiến
Học về lớp Chánh Kiến. Vậy lớp học Chánh Kiến như thế nào? Trước khi muốn học lớp Chánh Kiến thì chúng ta phải hiểu nghĩa chữ Chánh Kiến.
Chánh Kiến có nghĩa là thấy nghe, hiểu biết một cách ngay thẳng, công minh, chánh trực, rõ ràng, cụ thể, không chủ quan. Sự vật như thế nào thì thấy nghe hiểu biết như thế nấy, không sống trong tưởng tri trừu tượng mê tín, không dựa bên này, không dựa bên kia, không lấy trắng làm đen, không lấy đen làm trắng, không lấy xấu làm tốt, không lấy tốt làm xấu, không lấy dở làm hay, không lấy hay làm dở, không lấy trái làm phải, không lấy phải làm trái.
Sự nhận xét thấy biết không bị ảnh hưởng bởi tập quán, thành kiến, dục vọng. Người có Chánh Kiến luôn luôn biết phân biệt cái nào giả, cái nào thật.
Ví dụ như các nhà học giả họ không phân biệt pháp nào của Phật, pháp nào của Bà La Môn. Vì thế họ đã bị kinh sách phát triển lừa đảo, tưởng đó là giáo pháp của đức Phật. Chính chỗ này xác định các nhà học giả và các bậc thầy Tổ của chúng ta không có Chánh Kiến. Vì không có Chánh Kiến nên con người dễ bị các học thuyết và các tôn giáo khác lừa đảo, để rồi suốt một đời chạy theo ảo ảnh mà chẳng có được những gì.
Đức Phật hiểu rất rõ điều này sau khi Ngài chứng đạo, trước kia Ngài chưa có Chánh Kiến nên đã bị các tôn giáo lừa đảo Ngài tu hành gần như muốn chết. Cuối cùng Ngài tư duy tất cả giáo pháp của ngoại đạo không đưa con người đến chỗ giải thoát hoàn toàn mà đưa con người đi vào chỗ chết, chỗ thân không khổ đau mà làm cho khổ đau.
Ví dụ như quý vị ngồi tréo chân kiết già để tu tập thiền tưởng, hai chân đau gần chết mà cố gắng chịu đau, mồ hôi mẹ mồ hôi con đổ ra ướt đầm đìa cả áo, đó là thiếu Chánh Kiến, cho nên đức Phật dạy chúng ta học về Chánh Kiến đầu tiên. Vì Chánh Kiến nên Ngài dạy chúng ta cũng không nên tin ở Ngài mà hãy tin những pháp môn nào người trí khen ngợi và thực hiện áp dụng vào đời sống có kết quả an vui thật sự ngay liền cho mình cho người thì hãy tin. Đức Phật dạy:  
Này Kàlàmà! Chớ có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có tin vì theo truyền thống, chớ có tin vì nghe người ta nói (đồn), chớ có tin vì được kinh tạng tuyền tụng, chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình, chớ có tin vì đúng theo một lập trường, chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dự kiện, chớ có tin vì phù hợp với định kiến của mình, chớ có tin vì xuất phát nơi có uy quyền, chớ có tin vì bậc Sa Môn là Đạo Sư của mình, v.v…
Nhưng này các Kàlàmà! Khi nào tự mình biết rõ như sau: “Các pháp này bất thiện, các pháp này có tội lỗi, các pháp này bị người có trí hiểu biết chỉ trích, các pháp này nếu thực hiện và chấp nhận sẽ đưa đến bất hạnh khổ đau.” Thời này Kàlàmà! Hãy từ bỏ chúng không nên theo”.
Như vậy đức Phật đã dạy chúng ta về Chánh Kiến có nghĩa là làm lợi ích thật sự cho mình cho người. Tóm lại, Chánh Kiến tức là thấy nghe hiểu biết mọi sự, mọi việc và mọi vật bằng pháp thiện, nếu có ác pháp xen vào thì không còn là Chánh Kiến nữa.
Cho nên Chánh Kiến toàn là thiện pháp, người có Chánh Kiến không làm khổ mình khổ người. Thấy, nghe, hiểu biết mà không làm khổ mình khổ người, đó là cái thấy nghe của Chánh Kiến, của Thánh Nhân, chứ không phải của kẻ phàm phu mà thấy nghe hiểu biết như vậy được.
Chúng ta đã hiểu nghĩa Chánh Kiến rồi, vậy bây giờ chúng ta học Chánh Kiến như trong kinh đức Phật đã dạy:
Này chư Hiền! Khi Thánh đệ tử tuệ tri được bất thiện và tuệ tri được căn bản bất thiện. Này chư Hiền! Khi Thánh đệ tử có Chánh Tri Kiến, có Tri Kiến Chánh Trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này”. (Tuệ tri có nghĩa là hiểu biết. Bất thiện có nghĩa là ác pháp. Căn bản có nghĩa là nguồn gốc).
Nếu một người hiểu rõ lời dạy này thì tâm bất động trước các pháp, chứ đâu cần phải tu tập gì nhiều. Người ta nói Chánh Tri Kiến thì rất nhiều mà người hiểu và sống trong Chánh Tri Kiến thì chẳng có mấy ai.
Tại sao vậy? Tại vì mọi người đã không hiểu Chánh Tri Kiến bằng thức tri mà lại hiểu Chánh Tri Kiến bằng tưởng tri, cho nên người nào cũng hiểu mà hiểu bằng chữ nghĩa suông để nói vọng ngữ lừa đảo kẻ khác, vì thế không ích lợi gì cho mình cho người.
Câu kinh trên đây dạy có nghĩa là khi Thánh đệ tử nghe, thấy, hiểu biết rõ các pháp ác và nguồn gốc của các pháp ác thì đó chính là có tri kiến chân chánh, có tri kiến chánh trực. Nếu người có Chánh Tri Kiến, có tri kiến chánh trực và đã có lòng tin “Bát Chánh Đạo” tuyệt đối thì người này sẽ ly dục ly ác pháp. Ly dục ly ác pháp thì sẽ có tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự, lúc nào cũng có tâm hồn an lạc thảnh thơi và vô sự, người được như vậy là người giải thoát hoàn toàn.
Ở trên đây chúng ta mới bước chân vào lớp thứ nhất mà đã thấy được sự giải thoát thiết thực cụ thể như vậy, nếu chúng ta học hiểu và áp dụng vào đời sống luôn cả tám lớp thì thế gian này là Niết Bàn, Cực Lạc. Như trên đã nói về Chánh Kiến để chúng ta hiểu tổng thể của lớp học này, đó là lý thuyết khái lược của giáo trình tu học.
Bắt đầu tu học phải theo giáo trình tu học từ thấp đến cao của lớp này chứ không thể nói suông như trên được mà phải bắt đầu thực hành, pháp nào học hiểu phải cần học hiểu; pháp nào tu tập phải cần tu tập, chứ không được nói chung chung như kiểu kinh sách Đại Thừa.
Này chư Hiền! Thế nào là bất thiện, thế nào là căn bản bất thiện, thế nào là thiện, thế nào là căn bản thiện?”
Đức Phật nêu ra những câu hỏi để rồi giải thích cho chúng ta hiểu thế nào là thiện và bất thiện, thế nào là nguồn gốc thiện và nguồn gốc bất thiện. Nếu quý vị không học thì làm sao quý vị biết được, mà đã không biết được thì cái sai vẫn cho là cái đúng, cũng như cái đúng vẫn thấy nó là sai, và như thế thì làm sao được gọi là Chánh Kiến?
Cầu siêu, cầu an, cúng vong tiễn linh, cúng sao giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu, quý vị đều cho là đúng, nếu không đúng sao quý vị lại vào chùa làm những điều mê tín này? Nếu những việc làm này là đúng thì nó là Chánh Kiến sao? Chánh Kiến gì mà việc làm không rõ, mơ hồ, trừu tượng không cụ thể, không thiết thực.
Cũng như người ta gọi Phật Tánh là lấy cái ý thức chẳng niệm thiện niệm ác để rồi tưởng tượng ra xây dựng thành bản thể Chân Không, nhưng lại sợ đồng với cái không nên mới thêm vào cái diệu hữu để người ta đừng hiểu nó là không ngơ “Sắc tức thị không, không tức thị sắc.” Nhưng dù luận như thế nào nó cũng chỉ là tưởng tri hý luận chứ không có thật.
Sự thực một người chết ý thức cũng tiêu ma ra cát bụi, bởi vì ngoài thân ngũ uẩn ra, không có cái thức nào khác cả, cho nên thân ngũ uẩn hoại diệt thì thức nào cũng không còn.
Rõ ràng cái thấy biết (Chân Không Diệu Hữu) như vậy không thể nào gọi là Chánh Kiến, đó là Tà Kiến mà ngoại đạo hay lấy bản thể vạn hữu mà luận thuyết như thế này hoặc như thế khác để xây dựng một thế giới thường hằng bất biến. Chánh Kiến như vậy không có ích lợi thiết thực, chỉ là một hý luận suông.
Chúng ta từ môi trường sống sanh ra, mà môi trường sống là vật chất phải có trước như: không khí, thời tiết, mưa gió, đất, đá, gò, nổng, núi, sông, rồi rong rêu cỏ cây thảo mộc, kế đó vạn vật mới xuất hiện, như vậy mới gọi là môi trường sống. Khi có môi trường sống thì chỗ đó có cái biết sống, rồi biết đau đớn khổ sở, rồi biết thiện, biết ác, như vậy cái biết có sau vật chất.
Ví dụ: Vật chất gồm các tế bào kết hợp cấu tạo thành một môi trường sống, ở đó chúng chuyên làm một phận sự như môi trường tế bào sống ở tai thì chúng có nhiệm vụ để nghe, ở mắt để thấy, ở miệng để ăn và nhận biết mùi vị, ở mũi để thở và biết mùi thơm thúi, ở thân thì cảm xúc nóng lạnh, ở ý thì chỉ có biết, cho nên khi môi trường của ý (ý căn) hoại diệt thì cái biết của ý đâu còn, môi trường sống không có thì cái biết cũng không có.
Kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ là loại kinh sách tưởng tri xây dựng trên tưởng thức để lừa đảo thiên hạ chứ tu hành có đi đến đâu, chỉ là một trò ảo ảnh huyễn hóa, cái thấy biết đó không thể gọi là Chánh Kiến được, mà đó là Tà Kiến, từ xưa đến nay các tôn giáo đều sống trong Tà Kiến này.
Trong kinh Nguyên Thủy, đức Phật dạy: “Nếu còn một chút xíu Thức như đất trong móng tay Ta thì đạo Ta không ra đời vì loài người không giải thoát khổ được.” Như vậy cái thấy biết có một bản thể thường hằng bất biến là cái thấy biết của Tà Kiến, cái thấy biết không đúng sự thật, cái thấy biết không có thật chỉ là một ảo tưởng của các nhà giàu tưởng tượng, sống trong tưởng.
Đây, chúng ta hãy nghe đức Phật dạy về Chánh Kiến: “Này chư Hiền! Sát sanh là bất thiện, lấy của không cho là bất thiện, tà hạnh trong dục là bất thiện, nói láo là bất thiện, nói lưỡi hai chiều là bất thiện, nói lời phù phiếm là bất thiện, nói lời hung ác là bất thiện, tham dục là bất thiện, sân là bất thiện, tà kiến là bất thiện. Này chư Hiền, như vậy gọi là bất thiện. Và này chư Hiền! Thế nào là căn bản bất thiện? Tham là căn bản bất thiện, sân là căn bản bất thiện, si là căn bản bất thiện.
Trên đây đức Phật đã chỉ cho chúng ta thấy, có mười pháp ác và ba cội nguồn gốc ác. Hằng ngày mọi sự việc xảy ra chúng ta đều quan sát nơi thân, thọ, tâm và các pháp, nếu có mười pháp ác xảy ra trên thân, thọ, tâm và các pháp thì chúng ta biết được không? Nếu không học thì chúng ta không biết, còn đã học thì chúng ta đều biết, mà biết như vậy có phải là Chánh Kiến không? Đức Phật đã dạy, thấy biết như vậy là Chánh Kiến rõ ràng.
Thưa quý vị! Chánh Kiến có khó biết không? Chắc là không, phải không quý vị? Nhưng quý vị nên lưu ý gốc ác pháp đó là tâm tham, sân, si; tâm tham, sân, si có một nghiệp lực rất mạnh, cho nên dù quý vị đã có Chánh Kiến nhưng quý vị không dừng lại được gốc tham, sân, si thì cái thấy Chánh Kiến của quý vị sẽ thành Tà Kiến.
Ví dụ: Như quý vị biết nói láo là Tà Kiến nhưng vì lực tham thúc đẩy, quý vị sẽ phải nói láo, mà không còn cách nào kềm giữ lại được thành ra phải nói láo, nhưng khi nói ra rồi rất là hối hận, mặc dù nói láo đó không hại ai cả.
Muốn thấy Chánh Kiến và hành đúng Chánh Kiến thì quý vị phải hằng ngày trau dồi pháp hướng tâm để tận trừ nguồn gốc của các ác pháp: “Tâm như cục đất phải lìa tham, sân, si cho thật sạch.
Khi tu tập pháp hướng tâm có hiệu quả thì lúc bây giờ Chánh Kiến ở đâu thì tâm ly dục ly ác pháp ở đó và ở đó có giải thoát liền, nếu pháp hướng tâm chưa có hiệu quả thì dù có Chánh Kiến biết đúng, nhưng tâm không ly dục ly ác pháp thì vẫn là Tà Kiến.
Cho nên ai cũng học Chánh Kiến, biết rất rõ mười ác và mười thiện nhưng mấy ai sống đúng mười thiện và loại trừ mười ác, ai nói Chánh Kiến cũng được, nhưng sống đúng Chánh Kiến thì không ai làm được. Đây là những người đã có Chánh Kiến mà còn sống chưa được, huống là những người còn đang sống trong Tà Kiến như: Mật Tông, Thiền Tông và Tịnh Độ Tông v.v…
Chánh Kiến có hai giai đoạn thực hiện:
1- Giai đoạn học tập Chánh Kiến để loại trừ Tà Kiến.
2- Giai đoạn tu tập Chánh Kiến là giai đoạn áp dụng Chánh Kiến vào đời sống hằng ngày bằng Định Vô Lậu và pháp hướng tâm.
Lớp Chánh Kiến học thì thấy dễ nhưng tu tập phải đúng pháp, đúng bài bản giáo trình thì mới có hiệu quả, cho nên chúng tôi nói: “Chỉ khi nào tâm ly dục ly ác pháp thì mới có Chánh Kiến.
Như trên chúng tôi đã nói, nếu ai biết tu tập pháp hướng tâm để quét sạch nguồn gốc ác pháp tham, sân, si đang ngủ ngầm trong chúng ta thì phải cố gắng hằng ngày đừng quên nhắc tâm lìa tham, sân, si hoặc tâm như đất, nhờ vậy mới đủ sức lực đoạn trừ tận gốc tham, sân, si.
Vậy chúng ta hằng ngày phải thường tỉnh thức quan sát thân, thọ, tâm và pháp để đẩy lui các ác pháp không cho chúng xâm chiếm bốn chỗ này. Nên đức Phật dạy:
Này chư Hiền! Khi nào Thánh đệ tử tuệ tri bất thiện như vậy, tuệ tri căn bản bất thiện như vậy, tuệ tri thiện như vậy, tuệ tri căn bản thiện như vậy, vị ấy đoạn trừ tất cả tham tùy miên, tẩy sạch sân tùy miên, nhổ tận gốc kiến mạn tùy miên tôi là, đoạn trừ vô minh, khiến minh khởi lên, diệt tận khổ đau ngay trong hiện tại.” (Trung Bộ Kinh tập 1 trang 113).
Ở đây quý vị có nghe lời đức Phật dạy không? Quý vị chỉ cần tu tập có Chánh Tri Kiến là đã diệt tận khổ đau trong hiện tại. Nếu quý vị chỉ cần có Chánh Tri Kiến thì ngay đó quý vị đã đoạn trừ vô minh, khiến minh sanh khởi, đây là mục đích của đạo Phật.
Trong lớp Chánh Tri Kiến này, nếu quý vị tin sâu lời dạy của đức Phật, hằng ngày chỉ cần thấy pháp thiện biết ngay liền pháp thiện, thấy pháp ác biết ngay liền pháp ác, đó là Chánh Kiến, và khi gặp pháp ác thì cố gắng đẩy lui khỏi tâm tư của mình để cho tâm hồn lúc nào cũng thanh thản, an vui, và vô sự.
Tóm lại, trong đời sống hằng ngày của chúng ta, nếu biết áp dụng Chánh Tri Kiến như trên đã dạy thì chắc chắn chúng ta sẽ có một đời sống an vui, hạnh phúc biết bao, không những cho mình mà cho cả những người thân thương của mình và xã hội quanh ta.
Nhưng các bạn nên nhớ: đó là lớp học cơ bản đầu tiên của Phật giáo, nó không phải khó và không phải dễ, nếu giới luật không giữ gìn nghiêm túc thì sự tu học của lớp này các bạn sẽ không thành công.



Hiểu Biết Thêm Chung. Kì 5 (15-20)
15. VÌ VÔ MINH TA SỐNG VIỄN LY
HỏiKính bạch Thầy, “Vì vô minh ta sống viễn ly.” Theo ý hiểu cạn cợt của con. Con suy xét trên bình diện sự và lý.
Về sự: Ta vẫn sống hội nhập cùng mọi người, ăn ở sinh hoạt trong đời thường.
Về lý: Ta dũng cảm bỏ đi tất cả (ly dục ly ác pháp), phải có tâm kiên cố và dứt khoát để chiến thắng nó.
Sen nở trong bùn mà không có mùi bùn. Có chúng sanh mới có Phật và ngược lại. Trong Tập Đế HT dạy: “chúng sanh vì si mê nên khổ vì tưởng. Tưởng là không có thật nên không chấp. Ví dụ như bị mất trộm, bị đánh, bị chửi rủa là đồ trâu chó v.v... Phải đối cảnh với thực tế này. Lập tức con nghĩ ngay đến nhân quả. Chẳng phải kiếp này mà còn từ kiếp trước ta đã tạo nên những nghiệp này, thì bây giờ có dịp phải trả vay là đúng “hoạn nạn là giải thoát.” Họ chửi ta là đồ trâu chó … là họ nhắc lại cho ta kiếp trước ta là những con vật ấy rồi. Hiểu như vậy tức là ta “chánh niệm tỉnh giác?”
Đáp: Đúng vậy, đời sống con người khổ vì lòng ham muốn và các ác pháp, nhưng lại khổ vì tưởng, lầm cho những cái không có cho là có thật, nên khổ cũng không phải ít. Ví dụ: Thế giới siêu hình không có, người ta tưởng cho nó có, vì thế người ta phải khổ với nó rất nhiều.
Quán xét về nhân quả, đây là một góc độ tu tập của Định Vô lậu. Định Vô Lậu là trí tuệ tri kiến giải thoát, người thường hay quán xét thì trí tuệ tri kiến giải thoát phát triển khiến cho ba lậu hoặc không tác động vào tâm được. Định Vô Lậu là một loại định triển khai trí tuệ tri kiến giải thoát vô lậu như chúng tôi đã nói ở trên, nó có nhiều góc độ để quán xét như:
1- Quán xét về nhân quả như cư sĩ đã quán xét ở trên.
2- Quán xét về lý duyên khởi.
3- Quán xét về Tứ Niệm Xứ.
4- Quán xét về Tứ Vô Lượng Tâm
5- Quán xét Tứ Bất Hoại Tịnh.
6- Quán xét Tứ Chánh Cần.
7- Quán xét Thất Giác Chi.
8- Quán xét Tứ Thánh Định.
9- Quán xét Tứ Như Ý Túc.
10- Quán xét Tam Minh.
Nhờ tư duy quán xét nhân quả chúng ta mới thấu rõ nhân quả thảo mộc; mới thấu rõ đường đi nhân quả của con người; mới thấu rõ thân vô thường, khổ, không, vô ngã; mới thấu rõ thân ngũ uẩn; mới thấu rõ ngũ triền cái; mới thấu rõ thất kiết sử; mới thấu rõ Tứ Vô Lượng Tâm v.v…
Nhờ có thấu rõ nên không có ác pháp nào tác động vào thân tâm chúng ta được, vì thế mà lậu hoặc không còn, tâm hồn lúc nào cũng thanh thản an lạc và vô sự. Một sự giải thoát ngay liền.

16. SÁT SANH MÀ KHÔNG TỘI
HỏiKính bạch Thầy, giết những con vật phá hại, hoặc kẻ ác, (chuột bọ sâu kiến…) HT dạy là không tội? Con đặt nghi vấn:
1, Nếu nặng, do lợi ích cho riêng mình (lòng ích kỷ, đố kỵ).
2, Nếu nhẹ, bản thân mình làm nhưng mang lại lợi ích cho nhiều người. Thêm vào đó mình chưa ly dục ly ác pháp. Một nhân quả rất công lý và công bằng thì tránh sao khỏi không bị chi phối? Khởi niệm giết là chịu nhân một hành động rồi. Nhân quả vậy mà.
Đáp: Trong Giới luật của Phật có hai nghĩa: 1- Là đức hạnh; 2- Là pháp luật nghiêm cấm.
Căn cứ theo giới luật của Phật mà nói thì giới luật là pháp luật nhân quả. Pháp luật nhân quả luôn luôn áp dụng cho muôn loài vạn vật trên hành tinh này rất bình đẳng, không có một pháp luật nào bình đẳng hơn được.  
Khi nói đến nhân quả là phải nói đến môi trường sống, hễ nói môi trường sống thì phải nói đến một đạo luật công bằng và công lý. Chuột, bọ, sâu, rầy, kiến … là một loài động vật như bao nhiêu loài động vật khác, trong đó có con người, chúng cũng có một sự sống như bao nhiêu sự sống khác, chúng cũng biết đau khổ, biết sợ chết … Vì thế vô cớ mà chúng ta xâm phạm đến đời sống của chúng và còn tìm chúng để giết hại thì dù là một con kiến, con trùng, con dế v.v… vẫn bị kết tội nặng cũng như giết một mạng người. Đó là pháp luật nhân quả định tội, có định tội như vậy mới là một đạo luật công bằng.
Ngược lại, chúng xâm chiếm vào đời sống của chúng ta, phá hại mùa màng do công lao của chúng ta làm ra bằng mồ hôi nước mắt, vì thế chúng ta có quyền bảo vệ sự sống của chúng ta. Bằng cách phải diệt trừ kẻ ác để tự vệ, không những riêng cho chúng ta mà còn bao nhiêu loài vật khác nữa. Luật nhân quả phải công bằng trên vấn đề này. Vì loài sâu bọ chuột đang phá hoại mùa màng và đang giết người và giết các loài vật khác, chúng ta và các loài vật khác sẽ bị chết đói.
Theo công lý, những loài sâu bọ côn trùng chuột v.v… có tội trộm cướp và cố sát loài người và các loài vật khác, tội ấy là tội tử hình, như vậy chúng ta giết các loài sâu bọ, chuột để tự vệ bảo toàn sự sống của mình và các loài vật khác thì bất cứ một pháp luật nào chúng ta cũng đều là người vô tội.
Ví dụ: Một nước đang bị ngoại xâm, toàn dân nước ấy đứng lên chống ngoại xâm giết giặc tức là giết người mà không có tội, còn kẻ cướp nước kia mới là kẻ có tội.
Tại sao vậy? Vì môi trường sống chung thì phải được bảo vệ để cho mọi loài động vật trên hành tinh này được sống bình đẳng và an ổn. Vì thế phải diệt trừ những loài vật phá hoại môi trường sống. Luật nhân quả sẽ công bằng trị tội nếu ai phá hoại môi trường sống sẽ tự chuốc hậu quả. Loài côn trùng, sâu, bọ, chuột v.v... cũng vậy. Do chúng tạo nhân chẳng lành thì chúng phải trả quả là chúng ta diệt chúng. Đó là luật nhân quả rất công minh. Đối với kẻ có tội trộm cướp giết hại sự sống của loài người thì pháp luật thế gian cũng đều kết án tử hình huống là luật nhân quả, do đó ta giết hại côn trùng phá hại mùa màng của ta là không có tội.

17. NGÃ VÀ VÔ NGÃ
Hỏi: Kính bạch Thầy, câu tác ý: Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành. Con hỏi: Đã phá bản ngã thì làm gì có tôi và của tôi. Vậy thay bằng chữ thân đi kinh hành có khác nhau không?
Đáp: Dù có thay danh từ nào thì nghĩa của nó cũng chỉ là “tôi.” Người ta đã chịu ảnh hưởng của Thiền Tông và kinh sách phát triển quá sâu, cho là con người tu theo đạo Phật thì phải không có ngã, không có cái ta, không có cái của ta thì người ấy mới giải thoát, cho nên thường tránh những danh từ xưng hô cái tôi, cái ta mà xưng hô là trò, là con v.v... là có ý dẹp ngã, đó là một việc làm sai. Theo đạo Phật sự cung kính trước mặt cũng như sau lưng đều cung kính thì đó là đạo đức chân thật lợi ích cho mình cho người, còn trước mặt xưng hô là trò, là con mà sau lưng thì khác thì cái đó là giả dối chứ không phải diệt ngã xả tâm.
Theo chỗ chúng tôi hiểu Đức Phật dạy: “Vô thường, khổ, vô ngã,” đây là tam pháp ấn để xác định một sự thật về thế giới hiện tượng này, do chúng ta không hiểu ý này nên lo đập phá cái ngã của mình. Bởi vì người ta thường lầm chấp cho thế giới này là thường hằng, không khổ, là hạnh phúc. Vì sự lầm chấp dính mắc này nên Đức Phật dạy cho chúng ta hiểu để không dính mắc, chứ Đức Phật không bảo chúng ta tu hành để trở thành cây đá (vô ngã, không ta, không cái của ta).
Đức Phật dạy: “diệt ngã” là xả lòng ham muốn của mình, chứ không phải diệt cái ngã, xả lòng ham muốn của mình là Diệt đế. Diệt đế là một chân lý trong bốn chân lý của đạo Phật chứ không phải diệt ngã như người ta hiểu. Vô thường, khổ thì ai cũng rõ, nhưng vô ngã thì người hiểu như thế này, kẻ hiểu như thế kia. Có người lại hiểu rằng: Vô ngã là Niết bàn, hiểu như vậy có nghĩa là trong Niết Bàn không có ngã. Vậy không có ngã thì ai là người biết Niết Bàn? Không người biết Niết Bàn sao Đức Phật lại biết mà dạy cho chúng ta Diệt đế.
Trong Diệt đế theo chúng tôi hiểu thì phải có ngã, vì Diệt đế là mục đích giải thoát của con người cho nên nó là một chân lý của loài người không ai chối cãi được. Một sự giải thoát chân thật không ai phủ nhận được vì nó có người biết Niết Bàn, có người biết tự Niết Bàn trong tâm của mình thì không thể nào là vô ngã được.
Đức Phật dạy: “Pháp không có thời gian đến để mà thấy.” Khi tu theo đạo Phật chúng ta thấy sự giải thoát rõ ràng, vậy không thể nào vô ngã được. “Ngăn ác diệt ác, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp,” vậy cái gì ngăn và diệt ác pháp, cái gì sanh thiện tăng trưởng thiện?
Thưa quý vị! Cái gì không giải thoát, cái gì giải thoát? Ác pháp là không giải thoát, thiện pháp là giải thoát. Như vậy người tu có cần gì diệt ngã, cái ngã chỉ cần biết sống trong thiện pháp là Niết Bàn rồi.
Đạo Phật ra đời vốn vì con người khổ chứ không phải vì cái ngã của con người. Đạo Phật biết lấy cái ngã ác của con người tu sửa trở lại để trở thành cái ngã thiện, nhờ thế con người sống toàn thiện, đó là Niết Bàn, chứ không phải vô ngã là Niết Bàn như kinh sách phát triển dạy.
Đại Thừa và Thiền Đông Độ đã lầm nên đã ca ngợi những người vô niệm, vô trụ, vô chứng là tối thượng, vô niệm, vô trụ, vô chứng là vô ngã mà vô ngã là gốc cây cục đá rồi. Nếu còn có cái biết thì không thể nào gọi là vô ngã được.
Con người tu để vô ngã thì không bao giờ tu vô ngã được, cũng như con người bảo rằng không tài sản thì không thể nào có người không tài sản được. Vì thế, hữu ngã thiện pháp mới thật sự là vô ngã.
Có của cải tài sản mà không dính mắc của cải tài sản mới thật sự là không tài sản, nhờ đó mà tâm được an vui, hạnh phúc. Cho nên hữu ngã thiện mới không làm khổ mình, khổ người, gọi là giải thoát.
Đạo Phật tu hành chỉ hiểu biết rõ thiện và ác, lúc nào cũng ngăn và diệt ác pháp thì mục đích của Phật giáo nơi đó là đã chứng đạo.

18. LỤC ĐỘ BA-LA-MẬT
HỏiKính bạch Thầy, trong pháp hành: Nếu ngồi kiết già thẳng lưng thời gian 30 phút, có thực hiện được sáu Ba La Mật không? Nếu đi kinh hành nhiều, vô tình dày đạp lên những con vật nhỏ xíu có phạm vào giới sát không?
Đáp: Ngồi kiết già lưng thẳng giữ tâm không niệm thiện niệm ác thì đó là tu sáu Ba La Mật rồi. Bởi vì sáu Ba La Mật kể ra cho nhiều, nghe cho vui chứ chính bản chất của nó là không (người cho mà không biết mình cho và người nhận không biết mình nhận thì đó mới là bố thí Ba La Mật). Những điều này là những điều hý luận, toàn là thứ bánh vẽ. Cho nên từ xưa đến giờ không có ai tu sáu độ Ba La Mật được cả, chỉ lừa đảo người mà thôi.
Đi kinh hành sợ dẫm đạp lên chúng sanh, chính sự sợ dẫm đạp lên chúng sanh mới là đi kinh hành, còn không sợ dẫm đạp lên chúng sanh mà đi kinh hành thì không có nghĩa là đi kinh hành nữa.
Vô tình sát hại chúng sanh vẫn có tội, do có tội nên đi kinh hành rất cẩn thận, như vậy mới thật sự kinh hành tỉnh thức, mới có nghĩa là tu tập kinh hành. Nhờ sợ dẫm đạp lên chúng sanh mà đi kinh hành đúng đắn, đi kinh hành đúng đắn là tỉnh thức.

19. TỨ THIỀN CÓ GIỐNG VÔ TÂM KHÔNG?
HỏiKính bạch Thầy, tu đến Tứ Thiền: xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh có giống Vô tâm không?
Đáp: Không! Trong trạng thái Tứ Thiền chúng ta có một tâm lực siêu việt dùng để thực hiện Tứ Như Ý Túc và Tam Minh, không phải vô tâm như Thiền Đông Độ. Tứ Thiền là một loại định của thân, vì thế khi nhập Tứ Thiền thì thân bất động, hơi thở tịnh chỉ, hơi thở tịnh chỉ thì các hành trong thân đều ngưng nghỉ.
Vô tâm là một loại thiền định của Đại Thừa và Thiền Đông Độ, vì thế thân nó không định tức là thân còn hoạt động (còn thở ra, vô). Thân không định thì không thể nào thực hiện Tứ Như Ý Túc và Tam Minh được. Nếu không thực hiện được Tứ Như Ý Túc và Tam Minh thì không bao giờ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.

20. PHÁP THÂN
HỏiKính bạch Thầy, trong sách Cẩm Nang Tu Phật, Thầy giảng về hành Mười Thiện: 1, Thân hữu sắc (thân do duyên hợp giả có). 2, Tâm là vô sắc (không có hình), vậy gọi là pháp thân có được không?
Có giống như trong nước biển có muối, không một mà cũng chẳng phải hai, hay trong nước có bọt nước. Vậy câu: “Sắc tức là không, không tức là sắc” có hợp lý không?
Đáp: Không! Pháp thân là một trạng thái vô dục của tâm chứ không phải tâm, vì tâm là một uẩn trong ngũ uẩn. Khi sắc uẩn hoại diệt thì toàn cả ngũ uẩn đều hoại diệt, ngũ uẩn hoại diệt thì tâm đâu còn. Trong năm uẩn chỉ có sắc uẩn là hữu sắc còn bốn uẩn kia là vô sắc, cho nên không thể lấy một uẩn vô sắc mà gọi là pháp thân được. Vì lấy tâm uẩn cho là pháp thân thì thọ uẩn, hành uẩn và tưởng uẩn cũng cho là pháp thân được sao?
Trong thân nhân quả (thân ngũ uẩn) của chúng ta chỉ thuần có một vị khổ, không có vị giải thoát, nếu chúng ta không tu tập đúng chánh pháp thì không bao giờ có vị giải thoát. Trong luật nhân quả có vị giải thoát và không giải thoát, thiện và ác, thiện là giải thoát, ác là khổ đau. Cho nên đem thân ngũ uẩn ví như nước biển, cũng như nước và bọt nước thì e rằng không đúng vì thân ngũ uẩn là một hợp chất của các duyên chứ không thật có thì làm sao như nước và bọt nước được. Vì thế câu kinh: “sắc tức là không, không tức là sắc” thì không đúng ý nghĩa của Phật giáo. Cho nên Đức Phật dạy: “Nếu còn có một chút xíu gì trong thân ngũ uẩn này thường hằng thì Đạo Phật không ra đời.”Tại sao vậy? Tại vì không giải thoát khổ cho loài người.
Vài lời thăm và chúc con thân tâm an lạc, kiên cố tu hành đến ngày viên mãn.
                                       Kính thư! Sa Môn Thích Thông Lạc
                                                 Chơn Như ngày 20 tháng 01 năm 2001. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét