3/3/15

DỰNG LẠI PHÁP NHƯ LAI Phần II NẺO VỀ ĐẠO ĐỨC - KỲ 3/3

10. DỨT BỎ DANH LỢI TRONG ĐẠO
          Khi đã khoác chiếc áo tỳ-kheo, chúng ta đã nhận được đời sống xuất gia, không thể như đời sống tại gia được, hoàn toàn phải đoạn trừ tâm luyến ái, viễn ly, xa lìa, từ khước tâm danh, tâm lợi của đời sống thế gian. Không những chỉ đoạn trừ tâm danh lợi ở thế gian mà còn phải đoạn trừ tâm danh lợi trong Đạo. Danh lợi mang hình thức là Đạo nhưng thật sự nó là tâm danh lợi của con người.
          Quý thầy hãy đề phòng cảnh giác, đừng quên rằng cái tâm gian xảo của quý thầy sẽ lường gạt chính quý thầy, khiến cho quý thầy tưởng mình không danh lợi, tưởng mình tu chân chánh. Quý thầy đã lầm, nó sai khiến quý thầy như một tên nô lệ làm tất cả mọi cái gì nó muốn, chỉ cần nó che đậy mắt quý thầy bằng những danh từ cao thượng, “độ chúng sanh, làm lợi ích Phật pháp”. Thế là quý thầy đã an tâm, “vì Phật pháp, vì chúng sanh.
          Quý thầy nên nhớ kỹ, từ khi mới vào chùa xuất gia tu hành quý thầy chỉ là một chú “Điệu” chẳng có danh có lợi gì cả. Ăn rồi học giáo lý, hàng ngày cúng bái tụng niệm. Sau thời gian năm năm, mười năm đi làm giảng sư, làm trụ trì chùa này hoặc chùa kia. Bây giờ danh và lợi làm mờ mắt quý vị. Quý vị suốt ngày hết làm phật sự này đến làm phật sự khác. Nói danh từ phật sự nghe cho thanh cao chứ thật sự quý thầy đang hành một cái nghề làm “tôn giáo” để cầu danh, mưu lợi cho bản thân quý thầy. Quý thầy quên rồi, quý thầy là những người từ bỏ danh lợi, bỏ tất cả tình thương của thế tục để tu hành tìm đường giải thoát. Thế mà bây giờ quý thầy lại chạy theo danh lợi bằng những danh từ khác, danh từ cao thượng “Phật sự, Như Lai sứ giả, tu Bồ Tát hạnh, hành Bồ Tát đạo.” Ai nghe đến những danh từ này cũng phải kính nể, quỳ lạy sát đất.
          Quý thầy có tự xét lại mình không? Có buồn cười cho chính bản thân mình không? Hàng ngày quý thầy đi thuyết giảng dạy người tu cái này, cái kia mà quý thầy lại tu không được những điều quý thầy đã giảng dạy, quý thầy nói láo đó, quý thầy có biết không?
          Lời giảng dạy của quý thầy rất tuyệt vời, ý nghĩa thâm sâu tưởng chừng quý thầy là vị Phật sống. Nhưng xét kỹ cách thức sống của quý thầy, người ta không khỏi ngạc nhiên, quý thầy dạy một điều mà cuộc sống của quý thầy lại sống một ngả.
          Hồi mới vào tu thì nghèo xơ nghèo xác, đến chừng làm trụ trì, giảng sư, thiền sư thì quý thầy bắt đầu giàu có, chùa dần dần xây dựng vĩ đại, đồ sộ, vật dụng thế gian không có một vật gì thiếu cả. Mới vào tu quý thầy cưỡi chiếc xe đạp cũ mèm, sau thời gian thì có xe Honda rồi xe Dream, càng tu quý thầy lại càng giàu ra nhiều, có cả ô tô thứ thượng hạng, ngoài đời người ta có cái gì thì quý thầy có cái nấy. Ở đời người ta tìm danh, tìm lợi rất khó, quý thầy ở trong Đạo tìm danh tìm lợi rất dễ dàng. Ngoài đời, người ta làm lụng tìm ra miếng cơm manh áo rất là vất vả, khổ nhọc. Trong Đạo, quý thầy ăn không ngồi rồi, học tập chơi đùa chẳng làm động móng tay, quần áo sang đẹp, bánh trái đồ ăn thực phẩm ăn không hết. Vì thế, người đi tu theo đạo Phật hiện giờ không tìm sự giải thoát mà chỉ nhắm vào danh và lợi.
          Pháp môn của Phật giáo Phát triển hiện giờ quý thầy đang tu là pháp môn dạy tu danh lợi. Tại sao chúng ta biết như vậy? Thấy cách thức sống của quý thầy là thấu rõ, còn những pháp môn dạy tu giải thoát thì quý thầy đã ném qua một bên không còn lưu ý đến nó nữa. Không phải quý thầy không biết, nhưng vì pháp môn đó sống không dục lạc. Những pháp môn này dạy xả ly, bỏ danh, bỏ lợi, đời sống tu sĩ chẳng có gì, thiểu dục tri túc, khắc kỷ với mình, sống ba y một bát. Đời sống giải thoát là như vậy mới chính là người tu sĩ của đạo Phật. Muốn giải thoát theo nghĩa của đạo Phật mà không chịu vứt bỏ đời sống thế gian thì đâu còn nghĩa lý gì giải thoát của đạo Phật nữa.
          Người tu sĩ đạo Phật muốn thể hiện độ người tu giải thoát thì phải thể hiện sự sống giải thoát, tức là ly dục ly ác pháp, ly vật chất của cải tài sản tiền bạc châu báu thế gian, lìa chùa to tháp lớn, lìa danh lìa lợi, lìa nữ sắc, lìa ăn ngon, mặc đẹp v.v... Nếu sự sống mà ly được như vậy thì đó là gương hạnh độ người tu tập. Lời nói thuyết giảng giáo lý kinh điển của đạo Phật đều phải phù hợp với cách sống của mình không sai một mảy. Nếu sống ngược lại thì lời nói thuyết giảng kinh sách không đi đôi với cuộc sống của mình, như vậy là lừa bịp, lường gạt người khác, sống trong mát ăn bát vàng, sống bằng mồ hôi nước mắt của người khác thật đáng phỉ nhổ và khinh bỉ. Đã không độ được người giải thoát mà còn làm hoen ố đạo Phật, khiến cho Phật pháp suy đồi, chánh pháp chìm mất. Người trí hiểu biết nhìn vào đạo Phật khinh dể và nghi ngờ.
          Này quý thầy! Bổn phận và trọng trách đối với đạo Phật quý thầy không thể làm ngơ, làm điếc, làm đui được. Quý thầy đã từng học và đã nghiên cứu kinh sách của đạo Phật. Đã thông suốt lý của Đạo, đời sống của Đạo. Cớ sao quý thầy lại sống, lại tu tập không đúng lời dạy của Đức Phật. Đó là một lỗi lầm rất lớn mà quý thầy phải chịu trách nhiệm đối với đạo Phật và tín đồ.
          Nếu không có Tạng Kinh A Hàm và Tạng Kinh Nikaya thì làm sao còn biết đâu là đạo Phật nữa; còn biết đâu là đường lối tu hành chân chánh của đạo Phật.
          Muốn làm sáng tỏ đạo Phật; muốn cứu mình ra khỏi cuộc đời trầm luân đau khổ và sanh tử luân hồi, không gì hơn là quý thầy phải quay về đường tu tập chân chánh của đạo Phật mà hai Tạng Kinh này đã dạy rất rõ. Quý thầy phải bỏ danh lợi trong Đạo mà Đức Phật đã dạy: “Có danh có lợi thì nên ẩn bóng”, vượt ra khỏi những dây xích sắt danh và lợi của tôn giáo, chọn đời sống Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo chân chánh thì đạo Phật chẳng làm gì nó sẽ sáng chói và huy hoàng. Gương hạnh sống đó, ly dục ly ác pháp giúp cho quý thầy nhập được các định làm chủ được sự sống chết, chấm dứt được sự tái sanh luân hồi và còn giúp mọi người biết buông xả, dứt các điều ác, tăng trưởng các điều lành mang lại hạnh phúc, an vui cho mình, cho người và xã hội.

11. SỐNG TRẦM LẶNG
          Đời sống của người tu sĩ đạo Phật phải trầm lặng, cô đơn độc cư và ít nói chuyện v.v... Nhất là phải giữ gìn tâm mình trong trạng thái yên lặng, bất động, không được nhôn nhao, lăng xăng nghĩ ngợi, lo lắng, suy tư và sợ hãi, giận hờn, buồn rầu, lo nghĩ v.v...
Bài kệ nhất dạ hiền Đức Phật đã dạy chúng ta tu tập như thế nào để sống một cuộc đời tu sĩ trầm lặng?
Ông A Nan nhớ lại lời huấn thị bài kệ “Nhất Dạ Hiền”, ông đã thực hiện trong một đêm không ngủ, sáng hôm sau ông dùng thần thông đi xuyên qua cửa đá vào hang Thất Liệp để kết tập kinh điển cùng với năm trăm vị A-la-hán khác. Đây bài kệ:
                    Nhất Dạ Hiền
          “Quá khứ không truy tìm.
          Tương lai không ước vọng.
          Quá khứ đã qua rồi (đoạn tận).
          Tương lai lại chưa đến.
          Chỉ có pháp hiện tại.
          Chánh niệm tỉnh giác đây.
          Tuệ tri quán vô lậu.
          Không động không rung chuyển.
                   Biết vậy nên tu tập.
                   Hôm nay nhiệt tâm làm.
                   Ai biết ngày mai chết.
                   Không ai điều đình được.
                   Với bọn tử thần kia.
                   Nhiệt tâm quyết tu tập.
                   Đêm ngày không mỏi mệt.
                   Xứng gọi Nhất Dạ Hiền.
                   Luôn luôn sống trầm lặng.”
          Là một tu sĩ Phật giáo luôn luôn phải giữ tâm mình không cho suy nghĩ những chuyện vu vơ, không cho lo lắng hối tiếc buồn phiền những chuyện đã qua, không cho giận hờn, căm thù, bất toại nguyện những chuyện hiện tại. Vì có suy tư những chuyện đã qua cũng chẳng ích lợi gì mà ngược lại còn làm buồn phiền đau khổ. Do chỗ buồn phiền đau khổ tâm ta không được thanh thản, an vui nên Đức Phật mới dạy: muốn giải thoát tâm hồn được thanh thản, an lạc thì đừng nhớ, lo, nghĩ về những chuyện đã xảy rồi; nhớ, lo, nghĩ những chuyện đã qua rồi khiến tâm bất an, chẳng có ích lợi gì.
          Giữ tâm mình không cho suy nghĩ những chuyện vu vơ, không cho lo lắng hối tiếc, buồn phiền những chuyện đã qua, không cho giận, hờn, căm thù, bất toại nguyện những chuyện hiện tại. Vì có suy tư những chuyện đã qua cũng chẳng ích lợi gì mà ngược lại còn làm buồn phiền đau khổ. Do chỗ buồn phiền đau khổ, tâm ta không được thanh thản, an vui nên Đức Phật mới dạy chúng ta muốn giải thoát tâm hồn được thanh thản, an lạc thì đừng nhớ lo nghĩ về những chuyện đã xảy ra rồi, nhớ lo nghĩ những chuyện qua rồi chỉ khiến tâm bất an, chẳng có ích lợi gì.
          Đạo Phật dạy phải đoạn dứt những sự suy tư về chuyện quá khứ, vì chuyện quá khứ đã qua rồi, có lo nghĩ, có buồn phiền thì cũng chẳng giải quyết gì được mà còn làm tâm ta đau khổ, u tối thêm, không còn sáng suốt đối với chuyện hiện tại. Vậy chúng ta nên lấy hai câu kệ này làm pháp hướng nhắc tâm mình để xa lìa quá khứ.
          Quá khứ không truy tìm. Quá khứ đã qua rồi.
          Còn tìm kiếm có ích lợi gì cho ta nữa, ta hãy xả đi, buông đi. Quá khứ đã không tìm trở lại thì vị lai đừng nuôi hy vọng ước mơ. Vì tương lai đến, đến không bao giờ đúng với sự mơ ước, thế là thất vọng, thất vọng là khổ đau. Bởi vì luật nhân quả đang chi phối từng phút, từng giây trong thời gian và không gian của sự vật nên sự mơ ước của con người còn tùy thuộc ở nhân quả của người đó, nên sự ước mơ không bao giờ đúng và đạt được. Người thấu rõ luật nhân quả chẳng bao giờ mơ ước một điều gì về tương lai, chỉ lo giải quyết mọi việc đang xảy ra trong hiện tại, không làm khổ mình khổ người và khổ chúng sanh thì vị lai không ước mơ nhưng vẫn thành sự tốt đẹp đến với mình.
          Đạo Phật lấy mốc thời gian hiện tại để tu tập, để không nhớ nghĩ về quá khứ và cũng không lo lắng về tương lai. Vậy thời gian hiện tại ta tu tập cái gì? Như trong bài kệ đã dạy:
          Chánh Niệm Tỉnh Giác đây. Tuệ tri quán Vô Lậu.
          Đây là hai loại thiền định mà Đức Phật đã dạy người mới tu cần phải siêng năng tu tập để tâm không nhớ nghĩ về quá khứ và cũng không mơ ước về tương lai.
          Chánh Niệm Tỉnh Giác đây tức là chánh Niệm Tỉnh Giác Định. Cách tu tập định này, trên thân quán thân tu về hành tướng ngoại (Tứ Niệm Xứ) nghĩa là thân đi biết thân đi, thân đứng biết thân đứng, thân ngồi biết thân ngồi, thân mặc y mang bát biết thân mặc y mang bát, thân làm việc gì đều biết thân làm việc nấy. Tâm luôn chú ý theo dõi hành động của thân đang hoạt động, không để thất niệm đang làm, mất niệm đang làm là thất niệm, thất niệm là mất tỉnh giác, mất tỉnh giác tức là mê, mê còn gọi là quên. Cho nên tu tập mà để thất niệm là tu sai, tu như vậy không có kết quả, tu suốt đời cũng chẳng có ích lợi gì.
          Thất niệm có hai trạng thái khác xen vào:
          1- Quên mất niệm hành động của thân, xen vào những vọng tưởng, nghĩ ngợi chuyện thế gian (bị vọng niệm).
          2- Quên mất niệm hành động của thân (vô ký) hành động theo thói quen, không nhớ, hay quên.
          3-Quên mất niệm là quên pháp như lý tác ý, quên pháp như lý tác ý là ý thức chìm thì tưởng thức hoạt động, tưởng thức họat động thì sẽ rơi vào thiền tưởng.
          Định Chánh Niệm Tỉnh Giác, người mới tu phải dùng pháp hướng dẫn tâm tỉnh thức, nếu không dùng pháp hướng thì tâm dễ bị vọng tưởng và vô ký. Cái khó là ở chỗ tu tập nếu không có người có kinh nghiệm hướng dẫn thì khó mà tu tập tỉnh thức an trú thời gian dài được.
          Tuệ tri quán vô lậu tức là Định Vô Lậu. Định Vô Lậu này được thực hiện trên thân quán thân tu về nhân tướng (Tứ Niệm Xứ) để khắc phục tham ưu tức là ly dục ly ác pháp. Cách thức tu tập định này có ba cách:
          1- Ngồi kiết già thẳng lưng đặt niệm thân trước mặt, quán xét tư duy, thấu suốt lý duyên khởi, lý duyên sanh, lý vô thường, khổ, không và vô ngã, lý bất tịnh, xấu xí, bẩn thỉu, hôi thúi, uế trược v.v… Khi quán xét thân xong, ngồi đặt niệm thọ, tâm và các pháp trước mặt cũng quán xét như vậy.
          2- Ngồi kiết già lưng thẳng đặt niệm thân trước mặt, quán xét tư duy về Nhân Quả, về Bốn Đại duyên hợp và Thập Nhị Nhân Duyên. Khi quán xét tư duy thân xong rồi đặt niệm thọ, tâm và các pháp cũng quán xét như vậy.
          3- Khi đang tu Định Chánh Niệm Tỉnh Giác bỗng có một niệm khác xen vào ta nên lấy niệm đó đặt trước mặt quán xét tư duy, tu Định Vô Lậu liền để xả bỏ niệm ấy cho rốt ráo, không còn tới lui, chớ không được buông ngang vì buông ngang niệm ấy sẽ sanh trở lại khiến cho tâm thất niệm.
          Hai loại định: Chánh Niệm Tỉnh Giác và Định Vô Lậu sẽ hỗ trợ cho nhau khi chúng ta biết câu hữu, chúng sẽ giúp chúng ta diệt ngã xả tâm ly dục ly ác pháp, nhờ thế tâm bất động trước các đối tượng, do vậy trong bài kệ có câu:
          Không động không rung chuyển.
          Nếu người siêng năng tu tập như vậy tâm được thanh tịnh hoàn toàn, giống như cục đất không còn phiền não, khổ đau, giận hờn, thương ghét nữa. Hiểu được và biết rõ sự lợi ích của hai loại định này chúng ta cần phải siêng năng tu tập nhiều hơn, không bỏ phí thì giờ. Kết quả mang đến tâm chúng ta được giải thoát, cuộc sống được an vui, thanh thản và vô sự, không có một vật gì, hoàn cảnh nào làm động tâm được thì trên đời này còn có gì hạnh phúc và sung sướng cho bằng.
          Này quý thầy và các phật tử, khi đã nhận được hai pháp thiền định quý báu vô giá này thì trên đời không còn có vật gì quý báu hơn và sánh bằng được. Biết nó quý báu vô giá như vậy nên Đức Phật khuyên chúng ta:
          “Biết vậy nên tu tập.
          Hôm nay nhiệt tâm làm.
          Đêm ngày không mỏi mệt.”
          Đó là một lời khuyên chơn thật của Đức Phật, biết hai loại định này sẽ giải thoát tâm con người ra khỏi sông mê biển khổ. Vì thế, người tu sĩ phải thấy giá trị của nó to lớn và lợi ích biết dường bao. Khi thấu suốt giá trị của hai pháp môn thiền định này thì đừng để mất thời giờ vàng ngọc của mình trôi qua quá uổng, dù là một phút cũng không tìm lại được. Phải nỗ lực siêng năng tu tập với một tâm thành nhiệt huyết, ngày đêm tinh tấn không biết mỏi mệt là gì. Sự nhiệt tâm, tinh cần, tinh tấn, không biếng trễ, không bỏ qua một giây phút nào thì kết quả sẽ nhanh chóng, giải thoát chỉ một đêm tu tập sẽ trở thành bậc Thánh Hiền. “Xứng gọi nhất dạ hiền.”
          Chỉ có một đêm tu tập không thất niệm, tâm hồn chúng ta sẽ trở thành trầm lặng, sống ít nói, tâm hồn không lăng xăng, không nhộn nhịp, sống độc cư an vui một mình.
          Qua bài kệ này quý thầy và các phật tử đã nhận ra được những kinh nghiệm trong hai pháp môn thiền định quí giá để thực hành cụ thể và kết quả sẽ mãn nguyện. Người cư sĩ tại gia cũng như người tu sĩ xuất gia đều dễ dàng tu tập hai pháp môn thiền định này mà không sợ lạc thiền, tẩu hỏa nhập ma hoặc rối loạn thần kinh, hoặc ông lên bà xuống như nhập đồng, nhập xác.
          Kết quả của hai pháp môn thiền định này nhanh chóng, ngay liền tức khắc, không phải chờ đợi. Nếu ai tha thiết con đường tu tập của đạo Phật mà được hướng dẫn tu tập hai pháp môn này, như người đang chết đuối mà vớ được phao, như người bệnh sắp chết mà vớ được thần dược.
          Người có duyên gieo trồng chánh pháp của đạo Phật mới gặp được hai Thánh pháp này.
          Do thế phải nỗ lực siêng năng tu hành ngày đêm không biết mỏi mệt để cứu mình ra khỏi biển khổ, để đền đáp ơn Phật, ơn sanh thành dưỡng dục của mẹ cha và ơn đàn na thí chủ, có như vậy mới xứng danh là người đệ tử của Đức Phật, là những bậc Thánh Tăng, là những bậc Thánh cư sĩ, là những bậc chân tu sống trầm lặng tuyệt vời.


12. SANH ĐÃ TẬN PHẠM HẠNH MỚI XONG
          Trong kinh Thập Nhị Nhân Duyên, Đức Phật đã dạy: Người mới vào tu, phải tu tập đoạn dứt duyên “sanh.”
          Kinh Thập Nhị Nhân Duyên có mười hai duyên như mắt xích sắt, duyên này có thì duyên kia có, duyên này diệt thì duyên kia diệt. Kinh này bắt đầu từ duyên “vô minh” như sau:
          1- Vì Vô Minh không thấu rõ các pháp thế gian, lầm chấp chúng là thật có nên hành động chạy theo tâm ham muốn sanh ra các ác pháp, tạo biết bao nhiêu nghiệp khổ đau, do thế kinh dạy: “Vô Minh sinh Hành.
          2- Hành động theo lòng ham muốn dục lạc chạy theo ái dục sanh ra nghiệp, nên kinh dạy: “Hành sinh Nghiệp.
          3- Nghiệp kết hợp noãn châu và tinh trùng sanh ra danh sắc nên kinh gọi: “Nghiệp sinh Danh Sắc.
          4- Danh sắc là thân và tưởng của con người, lần lần phát triển đầy đủ: mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý. Mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý tiếp xúc với sáu trần bên ngoài nên kinh dạy: “Danh Sắc sinh Lục Nhập.”
          5- Lục nhập có nghĩa là sáu căn và sáu trần. Sáu căn gồm có: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Sáu trần gồm có: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu căn tiếp xúc sáu trần nên kinh dạy: “Lục Nhập sinh ra Xúc.
          6- Xúc tạo ra sự va chạm êm ấm, ngọt bùi, khả hỷ, khả lạc nên kinh dạy: “Xúc sinh ra Thọ.
          7- Thọ sanh ra cảm giác thích thú, cảm mến, giận hờn, thương ghét nên kinh dạy “Thọ sanh ra Ái.
          8- Ái là yêu mến, thương mến, ưa thích nên cố tìm mọi cách để có được cái mình yêu mến, ưa thich đó nên kinh dạy: “Ái sinh ra Hữu.
          9- Hữu là có, có vật này, vật kia, như: thân tứ đại, thân ngũ uẩn, nhà cửa, của cải tài sản, tiền bạc, cha mẹ, anh em, chị em, bà con quyến thuộc, thân bằng v.v… tất cả đều quý báu, yêu mến nên cố gắng giữ gìn, bảo thủ không để mất nên kinh dạy: “Hữu sinh ra Thủ.
          10- Thủ là giữ lại, không để cho mất mát, để được đầy đủ nhằm phục vụ cho sự thỏa mãn của đời sống nên kinh dạy: “Thủ sinh ra Sanh.
          11- Sanh, nói đủ là sanh y, sanh là của cải, tài sản, vật chất, sự nghiệp, cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, thân bằng quyến thuộc, bạn bè v.v… như trên đã nói. Do thế, khi tài sản của cải bị mất thì sanh ra buồn rầu bịnh khổ và chết, cha mẹ vợ con chết cũng sanh ra buồn rầu, đau khổ phiền lòng nên kinh dạy: “Sanh sinh ra Ưu bi sầu khổ, Bệnh, Chết.”
          12- Ưu bi sầu khổ, Bệnh, Chết là duyên cuối cùng của mười hai Duyên này hợp lại thành thế giới khổ đau của kiếp người.
          Sau khi quán xét Mười Hai Nhân Duyên, cái này có thì cái kia có, cái này diệt thì cái kia diệt.
          Như đã nói ở trên, Mười Hai Nhân Duyên nầy hợp lại là thế giới đau khổ của con người thành hình, Mười Hai Nhân Duyên này rã tan là thế giới hết khổ đau, hoại diệt. Muốn thoát khổ thì Mười Hai Nhân Duyên này phải rã tan.
          Vậy, rã tan như thế nào và duyên nào rã trước?
          Kinh điển phát triển Đại Thừa và Thiền Đông Độ nhắm vào duyên Vô minh phải phá trước bằng “Minh, minh tức là trí tuệ. Muốn triển khai “Minh” trí tuệ, các nhà Đại Thừa và Thiền Đông Độ dùng pháp hành ức chế niệm thiện niệm ác cho tâm không niệm thiện niệm ác là định và do tâm định thì phát tuệ (chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền), bản lai diện mục hiện tiền là Phật tánh, mà Phật tánh là Tánh giác, Tánh giác tức là trí tuệ.
Do những pháp hành tu tập để triển khai trí tuệ như vậy, họ đã lầm, không ngờ đường tu tập ấy lại khai mởtưởng tuệ. Khi tưởng tuệ được khai mở thì lý luận của các nhà Đại Thừa siêu việt “tưởng” nên không tôn giáo nào tranh luận hơn được, nhất là lý Bát Nhã của Đại Thừa.
          Do lý luận siêu việt “tưởng” Bát Nhã nên nó đã phá luôn Phật giáo chính gốc (vô khổ, tập, diệt, đạo). Vì Phật giáo Nguyên Thủy chính gốc không có lý luận tranh hơn thua, không có lý luận siêu việt tưởng như vậy, chỉ dạy thẳng đời người là khổ, nguyên nhân sinh ra đau khổ, trạng thái tâm hết khổ đau và tám cách thức tu tập để diệt nguyên nhân sinh khổ. Những pháp hành này cụ thể để mọi người ai cũng tu được, cũng thực hiện được sự giải thoát hết khổ như nhau.
          Vì thế kinh điển Nguyên Thủy nhắm vào duyên “sanh” để đoạn dứt nó, đoạn dứt nó thì ưu bi, sầu khổ, bịnh chết cũng đoạn dứt, nên kinh thường nhắc đi nhắc lại: Sanh đã tận Phạm hạnh mới xong. Nếu một người tu tập quyết tìm đường giải thoát ra khỏi cuộc sống trần lao này thì phải buông xả như Đức Phật và các bậc Thánh Tăng: Không trang điểm làm đẹp, của cải tài sản bỏ sạch, cha mẹ, anh  em, chị em, vợ con đều bỏ xuống hết như trong bài “Vượt thoát” đã dạy.
          Đó là bứt tất cả những sợi dây xiềng xích đang trói rất chặt mọi người. Chỉ có những bậc chân tu thấy được nhân quả nên họ đã mạnh dạn dứt bỏ sạch để vượt thoát cảnh đời thế tục. Sự dứt bỏ vượt thoát này không phải ai cũng làm được, tuy nói rất dễ nhưng làm rất khó. Người tầm thường không thể làm được, trong kinh dạy rất đơn giản: “Sanh đã tận Phạm hạnh mới xong” hoặc “duyên Sanh dứt thì Bịnh, Tử, Sầu khổ ưu bi dứt.
Những danh từ nghe thì dễ dàng nhưng đương đầu trước của cải, tài sản châu báu, ngọc ngà cùng cha mẹ, anh em, chị em, vợ con, xả bỏ hay đoạn tận là một việc không phải dễ làm.
          Nếu không đoạn tận thì không thể thực hiện được con đường giải thoát của đạo Phật.
          Tại sao vậy? Tại vì, đạo Phật gọi là đạo giải thoát mà không bứt được những sợi dây xiềng xích vô hình đó đang trói buộc thì làm sao gọi là giải thoát được?
          Hiện giờ những người đang tu theo đạo Phật, đời chẳng muốn bỏ mà đạo lại muốn thêm, hai tay đều nắm hết. Do thế cuộc sống tu hành Đời chẳng ra Đời, Đạo chẳng ra Đạo.
          Hiện giờ quý thầy và các cư sĩ tu hành chẳng đến đâu, chỉ vì tu theo kiểu đời chẳng ra đời, đạo chẳng ra đạo, rất uổng công cho một đời tu hành. Tu mãi chỉ còn lấy Phật giáo làm danh làm lợi cho cuộc sống thế tục.
          Tu theo Phật giáo, người tu hành phải đoạn dứt sanh y, có đoạn sanh y thì tâm mới được giải thoát đau khổ. Tâm có được giải thoát đau khổ thì tâm mới có thanh tịnh; tâm có thanh tịnh thì tâm mới nhập thiền định; Tâm nhập được thiền định thì tâm mới làm chủ được sự sống chết.
Người không đoạn dứt sanh y thì không thể nào ly dục ly ác pháp và nhập Tứ Thánh Định được, do không ly dục ly ác pháp và nhập Tứ Thánh Định được thì không còn pháp nào tu tập làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi.
          Đường về xứ Phật không khó, nhưng khó cho những ai không muốn dứt bỏ đời sống dục lạc và tình cảm thương mến ở thế gian.
Pháp môn tu hành của đạo Phật không có gì huyền bí và vĩ đại, chỉ cần hiểu rõ đời sống thế gian là khổ vô vàn và khổ muôn kiếp. Đời sống xuất thế gian là dứt khổ, hết khổ, chỉ còn một đời sống này nữa mà thôi, một đời sống tu theo đạo Phật hoàn toàn sẽ chấm dứt khổ.

13. BỐN THÁNH ĐỊNH
          Quý vị muốn tu tập Thiền định của đạo Phật thì nên theo bản tóm lược này mà tu tập từng giai đoạn một để có kết quả như ý mình (Tứ Thánh Định).
                   I- Sơ Thiền
          1- Tịnh chỉ ngôn ngữ.
          2- Sống đúng giới hạnh.
          3- Lấy giới bổn Pratimoksha phòng hộ sáu căn.
          4- Tu tập Chánh Niệm Tĩnh Giác Định.
          5- Tu tập Định Vô Lậu, diệt ngã xả tâm, quét sạch ngũ triền cái, đoạn dứt thất kiết sử tức là ly dục ly ác pháp.
          6- Thiểu dục tri túc.
                   II- Nhị Thiền
          1- Tu tập Định Niệm Hơi Thở.
          2- Định Diệt Tầm Giữ Tứ.
          3- Định Diệt Tầm Diệt Tứ.
          4- Hướng tâm tịnh chỉ tầm tứ.
          5- Tịnh chỉ tầm tứ.
                   III- Tam Thiền
          1- Tu tập Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý.
          2- Nương hơi thở hướng tâm, xả ly sáu loại hy tưởng đầu tiên: sắc, thinh, hương, vị xúc, pháp tưởng (ly hỷ trú xả).
          3- Tỉnh thức trong giấc ngủ xả mộng tưởng.
          4- Dùng pháp hướng xả ly 18 loại hỷ tưởng.
                   IV- Tứ Thiền
          1- Nương Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý.
          2- Hướng tâm tịnh chỉ âm thanh.
          3- Hướng tâm tịnh chỉ các thọ.
          4- Hướng tâm tịnh chỉ hơi thở.
          5- Hướng tâm tịnh chỉ các hành và hơi thở.
          6- Tịnh chỉ các hành và hơi thở.
          7- Nương Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý.
          Trên đây là phần lý thuyết của bốn Thiền, còn phần thực hành để nhập Tứ Thiền Thánh Định thì phải tu học có căn bản, từ thấp đến cao. Đạo Phật là đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người, nó là chân lý của con người, vì thế con người không có hai ba chân lý mà duy nhất chỉ có một mà thôi. Do nó là chân lý nên nó phải có chương trình tu học như chương trình giáo dục kiến thức ngoài đời.
          Chúng ta ai cũng biết chương trình tu học của đạo Phật chia làm tám lớp tu học gọi là Bát Chánh Đạo. Bát Chánh Đạo gồm có như sau:
1- Lớp Chánh kiến.
2- Lớp Chánh tư duy.
3- Lớp Chánh ngữ.
4- Lớp Chánh nghiệp.
5- Lớp Chánh mạng.
6- Lớp Chánh tinh tấn.
7- Lớp Chánh niệm.
8- Lớp Chánh định.
Trong tám lớp tu học (Bát Chánh Đạo) có ba cấp (Giới, Định, Tuệ). Cho nên muốn nhập được Bốn Thánh Định thì phải học từ lớp một đến lớp tám. Còn muốn ngay từ Bốn Thánh Định mà tu tập như lý thuyết trên đây thì phải có người tu xong hướng dẫn mới nhập được, nếu không có người hướng dẫn thì chỉ tu chơi chứ không bao giờ nhập được.
          Thưa các bạn! Không phải Tứ Thánh Định là một thứ thiền định tu hành khó khăn như các bạn tưởng. Đức Phật đã từng dạy: Với tâm định tỉnh nhu nhuyến dễ sử dụng nhập bốn Thiền không có khó khăn, không có mệt nhọc”.
          Theo kinh nghiệm bản thân của chúng tôi thì giới luật phải nghiêm chỉnh, muốn cho giới luật được nghiêm chỉnh thì phải tu tập Tứ Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ. Trong Tứ Chánh Cần có các pháp cần tu tập, đó là: Định Niệm Hơi Thở, Định Vô Lậu, Định Sáng Suốt và Định Chánh Niệm Tĩnh Giác. Trong Tứ Niệm Xứ có các pháp cần tu tập, đó là: Tứ Niệm Xứ tu tập trên Tứ Niệm Xứ, pháp Thân Hành Niệm. Pháp môn Thân Hành Niệm là pháp môn cuối cùng của lớp học Chánh Niệm. Kết quả của pháp môn này là lần lượt bảy năng lực Giác Chi xuất hiện, khi giác chi cuối cùng xuất hiện thì chúng ta đã hoàn thành Tứ Như Ý Túc. Khi Tứ Như Ý Túc đã có thì Tứ Thánh Định nhập vào không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức.
          Nếu chúng ta tu tập như vậy thì chắc chắn sẽ làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi một cách không có khó khăn, không có mệt nhọc. Nhưng dù sao các bạn cũng nên nhớ lời Phật dạy trong kinh Ước Nguyện:
Muốn nhập bốn Thánh Định và thực hiện Tam Minh thì giới luật phải sống nghiêm chỉnh, không hề vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào thì Bốn Thánh Định và Tam Minh sẽ thực hiện không có khó khăn, không có mệt nhọc.
          Theo lời Phật dạy trên đây, các bạn đừng lo không nhập được bốn Thánh Định và Tam Minh, chỉ ngại các bạn không sống đúng giới luật, chứ sống đúng giới luật thì không có khó khăn đâu các bạn ạ! Hãy bền chí tiến lên các bạn ạ! Con đường giải thoát đang chờ bạn ở phía trước. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét