BĂNG SỐ 24
(BBT:CĐ,24A,B00:00:10)(BBT:BN,22,B00:37:28)
Còn
tu chứng hay không dường như các vị giảng kinh, thuyết thiền gần như không có
trách nhiệm với các đệ tử của mình, chỉ đổ thừa căn cơ thấp kém nên tu lâu, và
người đệ tử có chợt ngộ một trạng thái nào do cái tưởng dục lưu xuất thì vội
vàng ấn chứng cho người đó là ngộ Phật tánh, nếu vị đó còn tham sân si thì bảo
là còn tạp khí. Nghĩa là: Tôi ngộ Phật tánh sao giờ tôi còn giận quá vậy? Thì
ông thiền sư biết sao vậy ổng trả lời, tại còn tạp khí, Bồ tát còn tạp khí mà,
mình mới chúng sanh mà, cho nên giờ còn giận hờn là còn tạp khí chớ sao. Đó là
cái đổ thừa để tránh né qua cái chỗ mình ấn chứng, nó hổng đúng, chứ hổng phải
là gì hết. Chứ còn một người tu rồi thì người ta đâu còn tham sân si nữa, bởi vì
ly dục ly bất thiện pháp mà, mà có Sơ thiền của người ta thôi thì đây mới có
cái giới đức của người ta mà người ta đã được ở chỗ đó rồi. Còn mình đi tới quá
xa rồi, ngồi quá nhiều rồi mà thế mà vẫn còn tham sân si mà thấy được Phật tánh.
Phật
tánh, nếu vị đó còn tham sân si thì bảo là còn tạp khí, hầu hết các vị tu theo
kinh giáo và thiền thời nay không có kinh nghiệm của bậc chơn tu nên hỏi ra vị
nào cũng còn tham sân si như thế tục, tuy cường độ có giảm nhẹ hơn một chút,
thậm chí như các bậc thầy, giảng sư, thiền sư vẫn còn tạp khí nên che đậy bằng
lối Bồ tát còn tạp khí. Đúng ra là họ tu chưa đúng pháp môn của Phật, chỉ tưởng
tượng theo chữ nghĩa, theo các tổ đi trước, người trước sai, người sau kế tục
cũng thành sai, và tiếp tục sai mãi, từ đó Phật giáo có người tu mà mất gốc,
không còn ai tu chứng nữa.
Phải
biết thời này dạy giới bổn Patimokkha không thích hợp với trào lưu hiện tại, vì
thế giới sử kiến văn chứ thời nay dạy giới bổn Patimokkha không thích hợp với
trào lưu hiện tại. Vì cái giai đoạn của Phật giáo hiện giờ nó không có hợp, vì
mọi người, người ta đua theo cái đà mà dục vọng đó, thì mình dạy giới luật
không có phù hợp đâu. Cho nên ở đây đem giới luật ra mà dạy thì nó không thích
hợp ở trong cái thời đại của chúng ta. Thiền sư và kinh sư dễ kinh doanh làm ăn
hơn, giới sư khó kinh doanh nên các vị đều lặn mất chỉ dạy lấy có mà thôi. Kinh
sách thuộc về giới cũng ít người thèm đọc nên bán ế ẩm, còn kinh sách thiền và
kinh thì bán chạy như tôm tươi. Hễ tưởng giải ra một loại thiền nào hợp lý một
chút là dễ bán, cho nên có những thiền sư lại giả dựa vào khoa học khuyếch đại
thiền tông để gạt người kinh doanh lợi dưỡng cho mình. Nghĩa là người ta lấy
cái sách thiền đó, người ta thấy bây giờ trong Phật giáo dạy thiền như vậy, bắt
đầu họ nghiên cứu qua cái sách khoa học đi, rồi họ dựa vào đó cái họ dạy thiền
như là khoa học vậy đó để cho người ta thấy nó có gì mới mẻ hơn chút cho nên họ
tu với nhau, họ mua sách thiền của ông này dữ tợn, từ đó cái danh ông cũng có,
rồi cái lợi thì ông này cũng thu cũng nhiều. Đó là cái sự kinh doanh của các vị
thiền sư mà chưa có tu chứng, đó là những việc làm của họ là cái việc làm như
vậy đó. Nhưng mà chính bản thân của họ họ cũng chưa biết cái điều đó nữa, họ
chỉ nghĩ rằng mình nghĩ vậy là đúng, để đem ra, để phổ biến cho người ta tu. Mà
chính bản thân họ thì chưa có giải thoát được cái đó, nhưng mà họ nghĩ rằng có
thể giải thoát được, mình tu mình dẫn người khác tu theo cũng được, cũng tốt,
thế nào rồi thầy trò cũng giải thoát nhau hết. Nhưng mà cuối cùng thì đi xuống hố
thẳm hết cả đám.
Tuy
giai đoạn Phật giáo hiện tại kinh sư và thiền sư là những tay lấy Phật pháp
kinh doanh làm ăn lớn nhất, đáng thương cho những người Phật tử u mê, nghe sao
làm vậy chẳng có trí phán đoán đúng sai phải trái của đạo nên bị lừa bịp rất là
đáng thương. Thầy nói thì các thầy cứ suy ngẫm coi, từ hai ba chục năm, bốn năm
chục năm nay người ta tu đến đâu, có đúng bị lừa bịp hông? Bỏ nhà bỏ cửa, bỏ vợ
bỏ con, bỏ cả tài sản đi vô chùa tu đến bây giờ hai bàn tay trắng, nhìn lại
cũng hai bàn tay trắng có làm chủ được sống chết chưa, có giải thoát hết được
tham sân si chưa? Đạo Phật thì không dối người, mà người bây giờ dạy đạo thì
dối người. Thì đó là những cái nguyên nhân mà hôm nay Thầy nói để cho thấy rằng
giới luật của Phật là một cái điều phải nói rằng giúp cho chúng ta vượt thoát
ra những cái điều mà mê muội theo cái lời nói của người khác. Bởi vì mình thấy
cái vị thầy đó phá giới là tức là tà sư rồi chứ không phải là cái thứ thiền sư
chính cống đâu. Một ông thầy mà giữ gìn đúng giới hạnh thì tức là dễ thấy nhất
chứ còn cái gì, mà giới hạnh không đúng thì tức là ông thầy đó là cái loại gì?
Có phải là tà sư không? dẫn mình đi đến đâu? dẫn mình đi vào tà pháp, rơi vào
hố thẳm chứ làm gì.
Cho
nên muốn chọn một bậc thầy không phải đụng cái ông thầy nào cũng chọn đâu, mà
phải chọn những bậc giới hạnh hẳn hòi, đàng hoàng thì đó là thầy của mình. Mà
giới hạnh không hẳn hoi thì thôi thôi từ giã đi, mấy ông này là tà sư ngoại đạo
mượn cái điều gì đó, để rồi lý luận nghe cho thông đó, rồi làm cho mình khoái
cái lỗ tai, mê theo mà đâm đầu chạy thì suốt cuộc đời của mình thì chẳng qua là
đi xuống địa ngục chứ không có đi lên thiên đường được đâu.
Đây quý thầy nghe giới sư Thánh Nghiêm nói : “Người học giới, trì giới tuyệt đối chẳng dám lạm thu đồ chúng,
bằng không tức là phạm giới".Nghĩa là thu đồ chúng, người mà
giới sư đó, mà ông Thánh Nghiêm là ông thuộc về loại giới sư đó, ông xác định
như thế này, người mà học giới đó, trì giới mà tuyệt đối đó, thì chẳng dám lạm
thu đệ tử, mà hễ thu đệ tử thì phạm giới, tại sao vậy? Ông thì ông cố gắng giữ
gìn giới hạnh ông nghiêm túc mà đệ tử của ông lén ăn hai ba bữa, ăn trái cây
hoặc ăn đường thì thử hỏi có phạm không? Ông dạy đệ tử của ông phạm giới là ông
cũng phạm chứ gì, cho nên ông đâu có dám thu đệ tử, thu đệ tử đông nó phạm tùm
lum hết. Bảo nó đừng nói chuyện nó nói chuyện thì ông thầy cũng bị tội chứ đâu
phải không. Đó các thầy nghĩ, bây giờ Thầy tu ở đây là mười mấy vị này mà bảo
đừng nói chuyện độc cư, mà mấy ông cứ nói chuyện độc cư, nói chuyện thế tục,
nói chuyện nhà chuyện cửa không thì Thầy cũng phạm tội trong đó chứ. Bởi vì
giới tràng ở đây nó phải thanh tịnh, nó nghiêm tịnh ở trong thầm lặng chứ sao
lại có chuyện động vậy, người này đi qua thất người kia, người kia đi qua thất
người nọ thì nó làm động vậy, là Thầy đã phạm giới rồi. Phật đã dạy giới kinh,
giới bổn mà, phải thầm lặng, phải sống cô đơn đó là những cái giới của người ta
rõ ràng chứ đâu phải cái chuyện mà nói thế này thế khác. Thì quý thầy thấy một
cái người mà làm giới sư, mà nhận đệ tử mà đệ tử làm sai là ông thầy đó phải có
lỗi rồi, mà có lỗi thì phải đọa địa ngục thôi chứ làm sao không? Cho nên Thầy
còn dám nhận không, ẩn bóng hông, phải hông? Đã thấy nhận mà mình cứ phạm lỗi
hoài, dạy đệ tử không nghe thì tức là mình chịu cái lỗi đó chứ ai chịu, cho nên
do đó thì Thầy ẩn bóng là phải chứ. Nếu mà không ẩn bóng mà ngồi đây thì sau
khi cái giáo án này ra thì ai nghe cũng hay hết. Trời ơi, giới luật tuyệt vời!
Tu có thần thông như vậy, tu cái gì cũng hay hết, do đó tập trung về đây mà tu,
thì cả trăm, hai ba trăm người thì thử hỏi, cả trăm, hai ba trăm người phạm
giới. Hồi đó bây giờ Thầy có mười mấy người phạm giới thôi nó còn nhẹ, mà giờ
cả trăm, hai ba trăm người thì Thầy xuống địa ngục sớm chứ gì? Phải hông? Các
thầy thấy cái điều đó, cho nên Thầy đâu dám, người mà biết giữ giới rồi rất là
sợ.
Đó
thì Thánh Nghiêm đã nói như vậy. Do đó nếu muốn lập chí hoằng giới trước tiên
cần phải chuẩn bị chịu kham khổ, bản thân là một người hoằng giới, sinh hoạt
của người ấy chắc chắn phải là một vị tỳ kheo khắc khổ. Vật dụng nuôi thân
chẳng dám quá tốt, bằng không sẽ thành phạm giới. Nuôi thân cũng chẳng phải dám
ăn cái gì ngon ngọt hết. Cho nên nó đâu có dám tầm bậy tầm bạ được, nên nó quá
khắc khổ rồi. Bằng không thì sẽ phạm giới. Còn mấy ông thiền sư, kinh sư, các
thầy thấy nghĩ sao? Ăn uống lúc nào cũng được, bánh trái lia lịa, cho nên ông
nào ông nấy mập phì ra hết, có ông nào ốm đâu, phải hông? Còn mấy ông mà giới
sư á, trời đất ơi! Cái mình còn có bằng cái xương, cũng như con khỉ. Cái đít
ông ngồi lật lên nó chai hai cục. Bởi vì có thịt ở đâu mà không chai.
Phật
giáo hiện giờ ở Việt Nam
vốn đã đánh mất một cái tập quán quý chuộng giới luật. Nghĩa là bây giờ nói
chung là Phật giáo Việt Nam
của mình là không có quý chuộng giới luật đâu. Cho nên hầu hết là quý thầy cũng
như cư sĩ cũng đều là không có quý chuộng cái giới luật nào hết. Cho nên Thầy
nói đây là một cái sự thật, Phật giáo hiện giờ ở Việt Nam vốn đã đánh
mất cái tập quán quý chuộng giới luật. Họ bây giờ quý chuộng thiền à, quý
chuộng học cho đỗ bằng cử nhân, Phật học, tiến sĩ Phật học đó là cái quý chuộng
của họ đó, chứ còn cái mà quý chuộng về giới luật thì chẳng có ông thầy nào mà
muốn học giới luật hết. Vì thế chúng ta đề xướng hoằng dương giới luật đâu phải
gặp những hoàn cảnh chẳng quý chuộng giới luật của giáo hội cũng như của tu sĩ
trong toàn nước. Nghĩa là khi mà chúng ta hoằng dương giới luật thì điều mà
chúng ta gặp khó khăn nhất trong mọi hoàn cảnh chống đối của quý vị, mà ngay
của giáo hội nữa, chứ chưa nói gì khác nữa. Mặc dù là họ không nói được nhưng
mà họ cũng tìm cách ngầm để mà phá cái người mà hoằng dương cái giới luật đó
đi. Để sao, để cho họ nó được tự tại một chút, nó không có sợ hãi, chứ còn nếu
mà cái giới luật mà nó hoằng dương được hưng thịnh thì mấy ông đó phải đi vào
trong cái khuôn khổ hết, mặc dù đó là những ông giáo hội, chớ không phải là
ngoài ra nữa. Bởi vì giáo hội cũng đều là những tu sĩ của Phật giáo cho nên
phải thực hiện từ ông lớn đến ông nhỏ, từ hòa thượng mà mấy ông già bây giờ ổng
ăn ba bữa ông quen rồi mà bắt đầu bây giờ bắt mấy ông ăn một bữa mà ông già
kiểu đó chắc là ông chết luôn chứ đâu có sống nổi. Cho nên làm sao mà ông không
tìm cách ông phá đi, đó thì quý thầy thấy cái chỗ, do cái chỗ đó mà cái người
hoằng dương cái giới luật rất là khó.
Nhưng
mà Thầy nghĩ rằng, đối với Thầy, Thầy hoằng dương là không khó, tại vì Thầy có
cái giới hành của nó theo, cho nên một cái giới mà Thầy dạy cho cái người nào
đó thì cái người đó phải áp dụng cái giới hành theo, cho nên khi cái giới của
họ bắt đầu vào thì họ sẽ có một sự mát lạnh ở trong cái sự an ổn tinh thần của
họ. Cho nên họ thấy mỗi cái giới là mỗi cái sung sướng của họ chứ không phải là
mỗi cái giới là trói buộc họ làm cho họ khô cằn, khô cỗi trong cái cuộc sống
chết chóc, trong cái cuộc sống họ bất hạnh phúc đó đâu.Cho nên Thầy không ngán
chỗ đó đâu, vì vậy mà Thầy luôn luôn ca tụng Giới Luật, ca tụng cái đức giới
của Phật.
Đó
là một sự trở ngại lớn nhất cho sự hoằng dương giới luật, vì mọi tu sĩ đang sợ
người đem lý do của giới luật ra để câu thúc hoặc phê bình, đả kích họ cho nên
nghe giới luật là họ đã không an tâm. Đại sư Hoằng Nhất dạy, dạy luật Ngài nói
rất nhiều nơi chẳng hoan nghênh ngài, thậm chí thấy ngài ăn mặc là một giới sư
thiểu dục tri túc thì người ta coi ngài như là một quái vật. Đó, bây giờ mấy
ông kinh sư, mấy ông thiền sư thì mặc đồ lòe loẹt, vải đồ thì tốt đẹp còn cái
ông giới sư thì mặc đồ vá, rách rưới lang thang. Trời họ thấy cái ông giới sư
thì họ coi như là con quái vật giữa các ông đó rồi, cái kia người ta bệ vệ như
một ông quan còn cái này đi lộm cộm như con khỉ, như vậy là con quái vật chứ
gì? Các thầy thấy chưa, đó, cho nên ông Hoằng Nhất ổng là cái người mà hoằng
dương cái giới luật đó, mà ổng đi ra ngoài người ta xem ổng là con quái vật.
Đúng không? Bởi vì giới sư thì phải thiểu dục tri túc rồi, thế mà thiểu dục tri
túc có bình bát với ba y rồi mà đi lỡ đường rồi mà không giặt được, trời ơi đi
đến ông giới sư này sao mà hôi rình. Còn đến cái ông thiền sư với cái ông kinh
sư trời ơi nó thơm tho mà có dầu thơm nữa chứ, giặt quần áo bằng xà bông thơm,
phải hông? Còn cái ông giới sư này ông đâu dám làm điều đó. Cho nên đi mà một
ngày đi như vậy đâu có nghỉ, mà có bộ đồ làm sao thay. Đi thì phải y trung y hạ
trong phải mặc đầy đủ, y ngoài thì y lớn y thượng thì phải choàng đặng oai nghi
tế hạnh của mình, thế rồi đi tới chiều tối chưa có nước nôi, chỗ nào đó mà lại
gần nhà ai thử coi, cái mình ổng nó hôi cũng như là cái đống rác chứ còn cái gì
nữa. Cho nên tới đâu ai cũng bịt mũi hết, trời con quái vật đó đến nhà tôi, chứ
đâu phải?
Cho
nên giới sư quá khổ, vì thế mà giữ gìn giới hạnh của Phật không phải đơn giản.
Cho nên chính cái kinh nghiệm của Hoàng Nhất người mà dạy giới luật này, ông
hoằng dương giới luật ông nói đến đâu thì người ta hông có hoan nghênh mình
chút nào hết, nói sao khô khan quá không ai nghe, không hay ho gì hết, còn mấy
ông kinh sư với thiền sư nói người ta hoan nghênh, người ta tập trung người ta
nghe. Cho nên ông nói có một cái ở trong kinh giới thuật lại, ông đi hoằng
dương cái giới luật có nhiều chỗ người ta đến có hai ba người à, thậm chí như
người ta nghe nói giới luật người ta chưa có biết, nghe ổng đến giảng thì bắt
đầu người ta tập trung được hai ba chục người, nghe một hơi dòm lại (nhìn lại)
còn có một ông ngồi đó, mà ngủ ngục chứ không phải thức được đâu, ngồi mà ngủ
còn mấy ông kia đi hết rồi. Thầy nghe Thầy nói thiệt nó chán thiệt, trời! Cứ
đem ba cái kinh bổn mà dạy người ta. Rồi mình giữ cái hạnh thì đi ra ngoài họ
coi mình như con quái vật, bởi vì hạnh của giới luật của giới sư tri túc thiểu
dục thì giống như con quái vật chứ không còn gì nữa khác.
Thật
sự mình suy ngẫm lại đúng, ông Hoằng Nhất ông nói rất đúng. Chúng ta phải thấy
cái điều đó là cái điều thực của ông, ông nhắc lại qua cái kinh nghiệm mà đi
hoằng giới đó.
Ngược
lại cho thầy Tỳ Kheo sinh hoạt đúng hạnh, Tỳ Kheo là quái vật nghĩa là mình
sinh hoạt đúng cái hạnh giới luật thì đó là quái vật, chẳng phải là kỳ quái
sao. Nghĩa là nhìn thấy nó rất là kỳ quái, đúng là kỳ quái, người ta ai cũng là
mặc đồ bệ vệ coi nó sang cả, Phật tử thì rầm rộ hầu hạ, còn đằng này đi lổm tổm
lổm tổm không ai hầu hạ hết, mà leo teo ốm nhom ốm nhách như con khỉ, ăn uống
như vậy làm sao mập được như người ta, ngày một bữa mà ăn không dám ăn ngon, ăn
không dám ăn ngon, ai cho sữa cho bơ không dám uống. Uống nó không có đúng cái
hạnh, cho nên đâu có dám lợi dưỡng, vì vậy mà ốm nhom ốm nhách, còn mấy ông
thiền sư, kinh sư uống đã thì thôi, uống không hết thôi, nhiều khi có đổ nữa.
Thì đó là những cái mà chúng ta thấy giữa hai cái này ai chọn cái nào? Đời phải
chọn cái sướng hơn chứ ai chọn cái khổ, mà chọn cái khổ mà theo kiểu mà ông
Hoàng Nhất này thì chắc chắn là ai dám chọn?
Nhưng
dù nói thế nào trong hoàn cảnh Phật giáo hiện giờ của đất nước thì giới luật là
một chướng ngại cho cuộc sống sinh hoạt trong các chùa bây giờ. Bây giờ các
thầy nghĩ coi có phải không, giới luật là một sự chướng ngại rất lớn cho sinh
hoạt trong các chùa, họ làm những cái chuyện không có đúng cách hết rồi làm sao
mà giới luật đưa ra một cái là kể như chùa họ phải dẹp rồi. Từ cái chùa to họ
thành ra cái chỗ mà cột, cho người ta đến không có được, bởi vì ông thầy mà
giới luật thì không có ở chỗ nào sang cả, ở chòi tranh vách lá nó mới đúng cái
hạnh của người tu giới luật chứ. Còn ông thầy gì mà ở cái phòng sao mà tường
cao cửa rộng, cửa kiếng đầy đủ, rồi máy điều hòa không khí còn đầy trong đó thì
tức là còn cái gì nữa mà giới luật.
Đó
thì quý thầy thấy cái vấn đề đó là cái vấn đề mà bây giờ nó là cái chướng ngại
cho cái sự sinh hoạt mà chúng ta đem giới luật ra dạy trong các chùa bây giờ.
Khó lắm chứ không phải, chùa nào bây giờ cũng vậy hết, không có thấy chùa nào
mà có giới luật, thì giờ đem ra dạy ai chấp nhận, mà người ta tập thể đông,
người ta đập dẹp mình xuống liền ngay ngay tức khắc, đi đường không biết chừng
cho xe hơi đụng mình nữa. Cái ông mà dạy giới luật đi bộ chứ đâu dám đi xe, cho
nên xe nó ở sau nó chỉ cái xe Honda nó ủi cái là ông thầy cũng tiêu mạng rồi để
nó nói láp dáp thì mình ở trong chùa không có yên. Đó thì các thầy thấy, vấn đề
đó là tai nạn lưu thông chứ có ông thầy nào mà chịu tội, thằng mà nó lái xe nó
lỡ đụng đó thì nó ở tù ba bốn tháng thì thôi chớ, tôi đâu phải tôi quyết tôi
giết ổng đâu, đó các con thấy cái chuyện đó đi làm giới sư có sướng không? Khổ
sở mà lại sống cái hạnh thiểu dục tri túc nữa, trời ơi! Phật đâu hổng thấy mà
thấy toàn là thứ khổ không, như vậy là có ham không? Đâu có ham.
Giới
kinh và giới bổn là những bản kinh được in ấn hẳn hoi thì sự hoằng dương giới
luật mọi người không thể phản đối được, nghĩa là giới kinh và giới bổn bây giờ
nó có hẳn hoi rồi đó, thì mình đem ra giảng thì không có ai phản đối được hết,
nhưng mà họ lén họ ủi mình sau đó, chứ đâu phải mà chuyện thường được. Cho nên
đem giới ra nói là ông thầy nào cũng câm miệng hết à, ngồi đó mà ngậm miệng chứ
còn hổng có dám nói gì hết, nhưng mà ở sau lưng nó lén đâm à chứ không phải là
chuyện đùa được.
Chẳng
lấy lý do chỗ nào phỉ báng công khai được, nghĩa là đem giới luật ra thì họ
không có vạch cái chỗ nào mà họ công khai phỉ báng mình được hết. Mà cũng không
thể nào thủ tiêu được giới luật đó, bây giờ nó nhan nhản, nó có kinh sách hẳn
hoi rồi đâu có thủ tiêu được. Hồi đó thì cái bộ luật mà đầu tiên ra thì nó chia
ra làm 20 bộ phái, thì người ta đồng ý với nhau, bởi vì nó chia ra rồi, thì mỗi
người có một bộ luật riêng rồi thì bắt đầu mình thủ tiêu cái bộ chính này đi để
cho cái bộ của mình nó chơn chánh hơn chứ còn để ở đây rồi nó làm cái gốc thì
cái bộ luật của mình nó đâu có được. Cho nên mấy ông đồng ý với nhau, bởi vì
chia làm 25 bộ phái, Thượng Tọa Bộ rồi Đại Chúng Bộ, nó chia ra làm 25 bộ phái
rồi bắt đầu mấy cái ông thầy lớn đồng ý đốt sạch cái bộ của ông Ca Diếp đi cho
rồi, để cái thứ này nó mất công mình sau này mình có lý luận mình nói tại hồi
đó mấy ông không viết chữ. Đó, có vậy thôi đó là quá rõ ràng rồi, cho nên nó
rất dễ dàng vì vậy mấy ổng thủ tiêu đi, mới đặt ra 20 bộ luật của mấy ổng, sau
này thì người ta kết tập lại còn 6 bộ. Người ta coi những cái điểm vị đồng và
những cái điểm nó khác biệt người ta kết tập lại cho nên nó còn 6 bộ mà thôi.
Do đó bây giờ chúng ta cũng thấy khổ sở trong 6 bộ luật nãy dữ lắm chứ không
phải dễ.
Họ
cũng không thủ tiêu được giới luật của chúng ta được, nghĩa là giới luật bây
giờ nó thành văn, kinh bây giờ nó cũng có kinh giới nữa thành ra văn bản rồi,
họ không thủ tiêu được những cái bản kinh, bản giới này được nữa mà chỉ còn có
cách là ngăn chặn không cho người khác tự do hợp tác. Nghĩa là bây ông dạy giới
luật phải không, thì không cho học trò mình học theo ông đó đâu, mày vô học tao
từ mày á, phải hông? Không cho học trò theo. Cho nên không có cho người hợp
tác, mà cũng không có cho giúp đỡ nữa, đừng có cho Phật tử cúng dường ổng, riết
ông tiêu luôn thì làm sao hoằng giới được. Đó là những cách ngăn chặn mà ngăn
chặn bằng cách đó, chớ không phải là đem giới luật mà chỉ trích nói à ông nói
giới luật vậy là sai này kia, không không dám nói đâu. Vì giới luật mà đâu có
gì sai được, cho nên không có nói điều đó được, không có phê phán, không chỉ
trích được. Cũng như Thiền tông thì người ta lấy thiền này thiền kia người so
sánh rồi người ta chỉ trích, còn giới luật thì không có lấy chỗ nào mà chỉ
trích được hết cho nên không có chỉ trích rằng ông đó dạy sai, dạy đúng được mà
chỉ còn cái cách là mình không có cho người hợp tác với ông ta để ông phát
triển không được. Cái thứ hai là mình bưng bít đi, mọi cái sách của ông ta ra,
phổ biến ra thì mình bưng bít đi, mình đừng có cho nó phổ biến rộng, thì tức là
nó không có rộng rãi ra thì người ta cũng không hiểu giới luật. Cho nên cái
khéo léo là nói cư sĩ không được đọc giới luật, đọc giới luật là đọa địa ngục,
cho nên giới cư sĩ mà vô hàng sách, đọc thấy quyển giới luật không dám mua,
phải không? Các thầy thấy rõ mà, bởi vì vô chùa mấy ông thầy đó dạy rồi. Mấy
ông cư sĩ không có được đọc giới luật nghe, đọc giới luật thì mất gốc hổng có
tu hành được đâu, Cho nên mấy ông đó sợ, thấy giới luật thì hông dám mua chớ
mấy ổng cũng muốn đọc lắm, nhưng mà không dám mua, mua sợ mình đọc bậy đi. Cho
nên có người nói với thầy con đọc cuốn Kinh Thủ Lăng Nghiêm con mới thọ sa di
à, mà con đọc Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói thọ sa di thì chưa có thọ giới cụ túc
thì không có được đọc giới luật của tỳ kheo. Cho nên con được bộ giới luật của
một người bạn con tặng mà con không dám đọc ở trong đó sao hết, sợ nó mất cái
căn tu đi.
Đó,
thì đó là những cái mà người ta làm cho nó bị hạn chế đi, nó làm cho không được
phổ biến cái giới luật ra, các con hiểu điều đó. Cho nên cư sĩ mấy con mà còn
mặc chiếc áo cư sĩ đến hàng sách thì cứ lựa sách thiền với kinh mà mua thôi,
còn cái giới luật thôi không dám rớ tới nó, rớ tới nó đọa địa ngục chết. Mình
đọc giới rồi đây, bắt đầu đó, tâm mình giữ không trọn đây coi chừng rớt địa
ngục á. Do cái chỗ đó là cái chỗ mà mánh khóe của các bậc đi trước sợ người ta
biết giới luật để chỉ vạch cái mặt của mình ra, đó cho nên mới có cái lối mà
cấm đoán như vậy. Thì trong cái kinh Bồ tát giới đó, các thầy nào có thọ Bồ tát
giới rồi thì biết, nó cấm giữ lắm chứ đâu phải chuyện thường. Đó là cái giới
của Bồ tát giới mà. Các vị là Bồ tát thì các vị chỉ biết cúng dường bố thí
thôi, chớ mà các vị rớ tới giới luật là các vị bị đọa địa ngục.
Nếu
một người biết giảng về giới luật thì sự linh động của giới luật càng tuyệt
diệu, khiến cho mỗi thời đại và mỗi xã hội đều thích thú, đều thích nghi và
người tu theo giới luật đạt được kết quả sở nguyện thiết thực, hiện tại. Còn
ngược lại đem giới luật, đem giới bổn mà dạy theo kiểu răn điều, giới luật khô
cằn, chết cứng mà áp dụng vào sự diễn biến linh động của mỗi thời đại và mỗi xã
hội sống động đang tiến lên thì không thích nghi. Cho nên giới luật, mà giới
bổn á, phải bị chết non không thể phát triển được. Nghĩa là bây giờ mà đem giới
bổn ra mà dạy cho cái thời đại của chúng ta thì nó không phù hợp đâu, nó không
linh động đâu, nhưng mà đem giới kinh mà dạy thì rất phù hợp, bởi vì giới kinh
nó có giới hành cho nên nó rất phù hợp, người ta thích thú, mỗi một cái giới mà
người ta được học rồi, người ta áp dụng vô người ta thấy giải thoát người ta
khoái vô cùng rồi. Trời ơi! mình ăn ngày một bữa bây giờ mình giải thoát được
hai bữa mình thấy khoái quá, sáng trưa chiều không lo gì nữa hết, mà trong khi
mới học được cái giới ăn một bữa thì người nào cũng khổ sở hết, nhưng mà vì nó
không có pháp hành cho nên do đó cái người đó khổ sở hoài, còn chúng ta ăn bữa
chúng ta có pháp hành, cho nên chúng ta dùng pháp hướng này, dùng pháp tùy này,
dùng cái pháp quán này, từ đó chúng ta mới thấu đạt.
Miếng ăn thì bất tịnh có gì mà ham, bỏ vô cổ nó ngọt cái rồi nó
mất đi, nó đâu có gì, ói ra thì hỗng ai mà thèm hết, mùi hôi chua chát. Rồi một
ngày đêm thì tống nó ra thì nó hôi thối không có chỗ nào mà chê, do đó mình
dùng pháp quán mình đã thấy nó rõ rồi cho nên mình chán nó, phải hông? Vì vậy
mà bây giờ mình dùng pháp hướng mình đoạn dứt nó, cho nên những cái đó mình
nhắc nhở mình dứt đoạn nó đi. Thì mình dứt đoạn nó thì tức là nó không còn thèm
ăn nữa, thì trong vòng một tuần lễ thì mình thấy đồ ăn mình ghê gớm quá
thôi cái gì ăn được nhét cho nó no bụng mình thôi chứ không ham ăn nữa, từ đó
mình ăn một bữa mình thấy khỏe re. Như vậy là rõ ràng cái người dạy giới bổn
thì nó khô cằn cho nên cả tháng trời mà cái người giữ giới ăn ngày một bữa trời
họ còn khổ, còn Thầy dạy có một tuần lễ thì quý thầy thấy an, nhưng mà ngay khi
mà nghe nó quán bất tịnh rồi thì cũng thấy hết ham ăn rồi. Cho nên từ cái chỗ
mà biết giới rồi thì chúng ta thấy ăn ngày một bữa chúng ta thấy khỏe, chiều
tối nó vừa sót ruột cái bắt đầu: đồ ăn dơ ở đó mà ham, ngay đó mình
nhắc nó cái là pháp hướng bị liệt chứ gì. Do đó cái trong bụng nó nghe nó không
sót nữa, phải hông, cho nên mình biết dẹp nó được liền.
Cho
nên có giới hành nó kèm theo cái giới bổn cho nên chúng ta đạt được cái kết quả
giải thoát an vui. Sau đó chúng ta thấy bây giờ: giờ này mà mình hổng ăn cũng
hổng đói, còn mọi lần giờ này mà hổng ăn tới bây giờ các con hiểu ăn ba bữa giờ
này mà không ăn thì các con nghĩ sao không? Trời đất ơi! Ngồi đây mà nó đói lả
người ấy chứ, phải hông? Cho nên bây giờ mình khỏe re trưa mình ăn chiều mình
cũng không có uống bột uống gì hết, sướng gần chết, ngồi chơi thoải mái, tâm
hồn thanh thản không lo đói, lo no, khỏi lo gì hết mà không ăn gì hết, phải
hông? Đó là giải thoát chứ gì, nó rõ ràng mà.
Đó
là những cái giới mà đem đến cho chúng ta những cái pháp mà làm cho chúng ta
giải thoát. Đó Thầy đem cái ví dụ để chúng ta thấy được cái chỗ mà tu giới của
chúng ta là như vậy, vì vậy gọi là giới bổn, mà là thầy của chúng ta. Ông thầy
dạy chúng ta là có giải thoát cho nên chúng ta nói ờ ông thầy này dạy ngon quá,
ông dạy mình ăn một bữa thì bây giờ mình làm được liền cho nên bây giờ giải
thoát được liền, vì vậy hổng tin ông thầy sao còn tin ai nữa, đó ông thầy của
mình là Giới mà. Đó thì quý thầy thấy nó rõ ràng cụ thể, mà Thầy đem cái giới
này mà thầy dạy thì tức là người ta phải thấy có thực tại cái sự giải thoát thì
người ta phải ham thôi. Chứ đâu phải như mấy ông thầy dạy giới bổn đi lộm cộm
như con khỉ mà người ta lại coi như là quái vật. Tức là làm sao mà thực hiện
được cái đạo pháp trở lại trường tồn lại được.
Muốn
đem những văn điều giới luật Patimokkha chết cứng đặt lên đầu của mỗi người đệ
tử, đệ tử Phật, của mỗi thời đại một cách sống động thật là một sự kiện khó
khăn, cũng là một việc làm chẳng hợp lý. Nghĩa là bây giờ mình đem cái giới bổn
Patimokkha này mình đặt trên đầu mọi đệ tử của Phật, mình bảo họ phải chấp
hành, phải làm như vậy cho đúng, phải ăn ngày một bữa, mà mình không có cái
giới hạnh, thì đó là một cái điều rất là khó khăn không phải là dễ, mà cũng
không hợp lý nữa. Giới luật của Phật đâu phải là làm cho người ta khổ, cho nên
Thầy thường nhắc mà, đạo Phật không làm khổ mình và không làm khổ người mà giờ
mình đem pháp môn giới luật ra mình bắt người ta vậy phải làm khổ không? Cho nên
cái ông Hoằng Nhất này, ông là luật sư, ông đi giảng luật ấy, ông thấy chính
bản thân ông thấy ông thiểu dục tri túc, ông thấy ông khổ quá mà, cho nên ai
dám theo ông.
Đó
là những kẻ giảng dạy giới luật, chết cứng ở trong giáo điều giới luật, đó là
những kẻ không hiểu giới luật. Giới luật là một pháp môn hành thiện, giới luật
không phải là pháp luật, giới luật là một pháp cứu cánh giải thoát con người ra
khỏi biển khổ, sông mê cuộc đời. Người dạy giới luật mà không hiểu giới luật,
đã biến pháp môn vi diệu này trở thành những sợi dây lòi tói, trói con người và
làm khổ cho những kẻ tu hành nhiều hơn. Đó thì Thầy nói như vậy thì quý thầy
thấy rằng cái người dạy giới luật mà không hiểu được toàn bộ của cái giới kinh,
mà cứ đứng trong cái giới bổn mà dạy thì biến cho cái người tu hành quá khổ sở,
cho nên người ta làm sao người ta tu tập được.
Hầu hết các giới sư không hiểu lời của Tôn giả đã đề xuất ra
nguyên tắc như thế này, khi mà tôn giả Ca Diếp ổng kết tập kinh giới rồi đó thì
cái câu mà ông đề ra ông nói như thế này này: “Điều Phật đã chế chẳng được phép bỏ, dù là
những cái giới nhỏ, điều Phật chưa chế chẳng được thêm vào”. Đó
là cái ông Ca Diếp ra cái điều lệ khi mà ông kết tập kinh xong rồi. Thì khi mọi
người đều thông qua hết rồi, chấp nhận đó là đúng rồi, thì bắt đầu ông có ý
kiến, tôi có ý kiến những cái điều mà Phật đã chế ra rồi dù nhỏ dù lớn không
được phá bỏ, mà những cái điều mà Phật chưa chế ra thì chắc không có được ai mà
thêm vào, ông xác định như vậy. Bây giờ quý vị có đồng ý không, ờ đồng ý thì như
vậy là sau này không có được ai thêm vào, mà cũng không có ai được bớt ra. Đó
là ông quyết định như vậy, ông Ca Diếp hồi đó ông quyết định như vậy thì tất cả
500 vị Alahan lúc bấy giờ đưa tay lên đồng ý hết, vậy mà sau này phá vỡ dữ tợn
đó. Họ đồng ý ngoài mặt chứ trong bụng... Thì lúc bấy giờ các vị ấy thánh tăng
người ta đồng ý rồi nhưng mà sau này các vị đó chết đi hết rồi, thì cái số đệ
tử sau này tu chưa chứng đó thì mới bắt đầu tuôn nhau mà sửa. Sửa cho đã đi để
mà sống cho nó được hạnh phúc hơn. Lời nói này tôi xem hết các bộ luật do cách
giới sư soạn ra rồi dịch thuật đều đã chẳng hiểu câu nói này.Nghĩa
là Thầy đọc hết các bộ luật Thầy thấy hầu như là câu nói này thì các Giới sư mà
soạn kinh giới ra họ không hiểu cái lời nói của ông Ca Diếp. Chúng ta phải hiểu
lời nói của ông Ca Diếp nếu mà nói ra như vậy thì cái giới luật của Phật là một
cái giới luật khô cằn cỗi, không linh động, không đáp ứng phù hợp cho thời đại
đi lên hoặc về sau. Thì lời nói đó là hầu hết các cái vị Giới sư họ hiểu qua
cái chỗ như là cái kiểu giới bổn đó, cho nên nó khô cằn đó, còn Thầy thì hiểu
cái lời nói của ông Ca Diếp không phải vậy đâu. Nghĩa là ông Ca Diếp xác định
rằng các giới luật của Phật đã đặt ra là làm Thầy cho tất cả các thầy Tỳ Kheo
sau này nó linh động, và nó như là một đức Phật sống tại thế, cho nên không
được thêm mà cũng không được bớt gì hết. Nghĩa là ngay từ giới luật đó chúng ta
có thể linh động được mà không phải thêm giới luật trong đó.
Thầy
ví dụ chẳng hạn bây giờ Phật đâu có cấm uống cà phê, đâu có cấm hút á phiện mà
bây giờ chúng ta linh động là ngay cái giới thứ năm chúng ta biết rượu là
nghiện ngập làm cho mất trí tuệ, cà phê cũng làm nghiện, mà thuốc phiện cũng
làm nghiện con người, thuốc lá cũng làm nghiện con người, thì lấy cái giới thứ
năm đó mà chỉ họ ra đừng có phạm, chứ còn đặt thêm cái giới thứ sáu đâu, phải
hông? Các thầy thấy Thầy có đặt ra cái giới thứ sáu đâu. Chỉ trong cái giới thứ
năm mà Phật đặt ra như vậy nó đủ trọn vẹn ở trong đó rồi. Những cái gì mà làm
cho chúng ta, mà gây cho chúng ta những cái thích thú theo các dục lạc của thế
gian thì dẹp nó qua một bên đi. Đó là cái điều của giới luật của Phật như vậy,
thì nội cái giới thứ năm nó đã đủ cho chúng ta rồi, cấm người ta uống trà này,
cấm người ta uống cà phê này, cấm người ta không có hút á phiện này, không có
hút cần sa này, không có hút thuốc lá này, thì đủ rồi thì nó là giới thứ năm
thôi chứ còn cái gì nữa. Thầy có thêm cái giới nào đâu mà nói là Thầy thêm.
Đó
thì như vậy là chúng ta linh động được trong mọi thời đại, đó chứ còn nếu mà
dạy giới luật mà không linh động vậy thì cứ chế ra, chế ra rồi bớt bớt, chế ra
rồi bớt thế là một hồi 348 giới vậy chế riết ra một trăm giới, chế riết một
ngàn giới nữa, chế riết rồi cái bản.. Bởi vì cái ngày mà hồi mới độc lập đó thì
cái bản hiến chương có bao nhiêu giới thôi, thì giờ tính ra không biết bao
nhiêu giới nữa. Bộ luật bây giờ nó dầy như vầy, trời đất ơi, dân chúng đụng tới
đâu cũng đụng ráo hết, phải hông các con, phải hông? Đó là cứ mỗi ngày Quốc Hội
cứ chế giới chế giới riết ra...trời ơi bộ luật Dân sự với bộ luật Hành sự gì mà
nó quá nhiều, bớt thì hông thấy bớt mà chế ra riết. Đó Thầy nói bởi vì giới
luật của Phật mà nếu mà cứ cho mà chế thêm như ông Ca Diếp, bởi vì ông Ca Diếp
ông nói câu nói này, chặn đứng lại, giới luật của Phật đủ linh động đủ cái sức
mà có thể làm cho người tu sĩ thanh tịnh được trong giới chứ đâu có cần phải
chế thêm, mà bớt ra thì không được, bởi vì bớt ra làm thiếu, thiếu tức là cái
oai nghi tế hạnh nó bị mất đi. Cho nên mình thấy những cái giới nhỏ nhặt chẳng
hạn như Thầy nói giờ đó mình đứng để cho mọi người đều là xá mình rồi từng
người tuần tự bưng cơm từng bát đi, xới bát này nó có cái trật tự oai nghi chứ
gì, mà giờ mình bớt cái giới đó đi, thôi tới bữa cứ ngồi ăn đi, rồi đem cơm ra
thì mọi người xúm nhau người này xúc rồi tới người kia, coi có phải chúng ta
giành giựt nhau không, còn oai nghi tế hạnh chỗ nào không? Tuy nó là cái giới
nhỏ nhưng mà nói lên được ý chí nhẫn lại của chúng ta trong khi chúng ta đứng
chờ. Đó là một cái sự tu tập của chúng ta, đó là cái sự rèn luyện con người của
mình có cái đức tính nhẫn nhục của chứ, còn nếu không có vậy thì chúng ta bộp
chộp lắm, ai lại hổng muốn đi trước, ai cũng muốn ngồi trước cho khỏe. Bởi vì
cái đó là cái dục lạc mà, cho nên giới luật nó làm cho chúng ta hạn chế, tránh
xa những cái thứ dục lạc, ly dục mà, chúng ta hiểu được như vậy chúng ta mới
biết được con đường giải thoát chứ.
Đó
hôm nay Thầy nói hết để quý Thầy thấy rằng khi mà dạy về Giới luật, rồi đây tới
cái giai đoạn mà thứ ba của giáo án mà dạy về cái Giới Hành, tức là 37 phẩm trợ
đạo, Thầy phải dạy hết cho quý thầy thấy trong cái hành như thế nào để đạt được
những cái giới của chúng ta, chứ đâu phải là cái gì khác đâu. Bởi vậy nó mới
toàn diện là thầy của chúng ta, chớ còn ông thầy mà nó thiếu khuyết một chút
thì làm sao ông thầy dạy chúng ta được. Ông thầy mà không có đủ 3 cái oai lực
như vậy thì không thể dạy chúng Tỳ Kheo sau này, không thể dạy cái đời sau này,
mà đủ 3 cái oai lực như vậy tức là cái giới luật mà đức Phật đã di chúc lại làm
thầy chúng ta thì mới có đủ 3 cái oai lực đó. Chỉ có Giới mới đủ thôi, chứ
không có một người tu sĩ nào mà đủ hết, ở đây Thầy nói, thật sự Thầy cũng có
những cái sở trường của thầy chứ làm sao mà Thầy toàn diện được hết cái đó, cho
nên Thầy đâu phải là thầy của quý thầy mà chỉ có giới luật nó mới đủ toàn
diện ba cái oai lực đó. Cho nên Giới Luật là thầy của quý thầy, còn bây giờ
Thầy có thực hiện cái gì đi nữa nó cũng không phải là đệ nhất được.
Đó
ví dụ như bây giờ, bây giờ Thầy giảng cho quý thầy nghe như vậy thì Thầy có cái
sở trường của thầy ở chỗ nào ở trong đó thôi chứ không thể nào Thầy toàn diện
hết được, cho nên Thầy không thể nào làm thầy của quý thầy được. Mặc dù những
cái khác Thầy làm được nhưng mà nó không phải sở trường của thầy, thí dụ như
bây giờ Thầy thí dụ á, thầy dùng cái Tứ như ý túc, Dục như ý túc, một thân Thầy
biến ra một thân được nhưng mà nó không phải là chuyên môn của thầy, Thầy làm
được nhưng mà nó không phải chuyên môn, còn cái sở trường của người ta nó
chuyên môn lắm. Chẳng hạn như bây giờ Thầy phải 2 phút Thầy mới biến ra được
một con người như Thầy ngồi bên, còn cái ông mà chuyên môn nháy mắt cái ngồi ra
cả đống rồi. Nó chuyên môn mà, nó lanh, nó lẹ. Các con hiểu điều đó, cho nên
người ta chuyên môn, người ta đệ nhất người ta phải nhanh. Còn ông Xá Lợi Phất,
khi mà hỏi ông thì ngay đó ông phóng ra ông trả lời liền không cần suy nghĩ,
còn Thầy Thầy đâu đệ nhất trí tuệ được cho nên Thầy phải suy nghĩ rồi Thầy mới
trả lời. Thì Thầy trả lời cũng đúng, nhưng ông Xá Lợi Phất ông ấy phóng ra
liền, còn Thầy phải có thời gian, cũng ít ra một phút Thầy mới trả lời được,
còn ông ta đâu cần, hỏi rồi trả lời liền, thì như vậy là người ta đại trí tuệ,
còn Thầy thứ tiểu trí tuệ mà đem ra mà làm sao làm thầy thiên hạ được, phải
hông? Thầy nói như vậy là quý thầy sẽ biết được ở trong con đường của Phật pháp
là cái người nào làm thầy của mình, còn giới luật của nó đủ hết trong này rồi.
Cho nên hỏi tới đâu là nó phóng ra nó trả lời liền tức khắc chứ nó không có
chậm chạp như chúng ta đâu. Bởi vì nó tròn đầy tất cả, các sở trường nó được
đầy đủ hết như đức Phật ngày xưa. Bởi vì chỉ có Giới Luật mới chính đức Phật
còn tại thế, cho nên ông Phật ông xác định nghĩa là Giới Luật còn là ta còn, mà
Giới Luật mất là ta mất, mà Giới Luật còn thì đạo ta còn, giới luật mất thì đạo
ta mất. Cho nên cái Giới Luật mà hôm nay Thầy giảng cho quý thầy thấy đó, đó là
cái Giới Luật đó, chứ không phải cái giới bổn theo các sư mà dạy về giới luật
kết tập lại đó gọi là giới, giới đó là thầy của quý thầy đâu.
Lời nói này tôi xem hết các bộ luật do các
Giới sư soạn ra và dịch thuật đều chẳng hiểu câu nói này, nghĩa là không hiểu cái lời nói của
ông Ca Diếp. Nếu đọc lại kinh giới cho kỹ từng chỗ của Phật
chế giới ra thì dù bất cứ thời đại nào, xã hội nào tiến đến đâu, lùi đến đâu thì
những chế giới này đều phù hợp cho mọi hoàn cảnh xã hội và sự thay đổi của thời
đại đó. Rất ăn khớp
và rất linh động, không cần luật sư chế giới thêm mà cũng không cần giảm bớt,
bởi vậy đức Phật mới di chúc lại các thầy Tỳ Kheo phải lấy Giới Luật của ta làm
thầy, bởi vì nó đủ như vậy đó, nó đủ cái oai đức nó như vậy mà
nó linh động như vậy. Trường hợp thời đại của chúng ta tiến bộ tới mức độ nào
thì cái Giới Luật của chúng ta cũng tiến tới mức độ đó. Mà thời đại lùi đi đến
mức độ nào đến khi mà lạc hậu đi đó, còn những cái bộ lạc, thì giới luật của
Phật nó cũng lùi lại để đứng cái tầm vóc đó để hướng dẫn người ta tu giải
thoát. Thấy Giới Luật của Phật nó vi diệu vậy, chứ không phải nói thời đại của
chúng ta tiến bộ thì giới luật của Phật đã cách đây 2540 năm nó lỗi thời rồi,
như mấy ông giới kinh đều nói là lỗi thời rồi, nó không hợp.
Đó
là không hiểu Giới Luật của Phật, mà Giới Luật của Phật đã có cái sự định đoạt
trước của đức Phật đã suy nghĩ. Cho nên đọc lại kinh giới chúng ta thấy ông
Phật ông không phải ông chế giới có một lần đâu, ông chế nhiều lần mới chấp
nhận một giới của ông. Các thầy phải hiểu cái sự kỹ lưỡng của đức Phật như vậy,
chứ ông chế ra một lần ông để đó cái rồi bắt mình thì như vậy ông chưa có chính
xác đâu. Cho nên nhiều lần ông chế, có khi một cái giới ông chế 3 lần, 5 lần,
quý thầy học kinh giới quý thầy biết liền à, chứ không có ít.
Tới
đây thầy dạy giới bổn rồi thấy ông Phật ông chế, sửa đi sửa lại nhiều lần để mà
chính xác cho sau này sẽ làm thầy của các vị Tỳ Kheo, ông đã biết trước cái vấn
đề đó, trước khi ông còn 10 năm, 20 năm, ông thị tịch là ông đã biết từ khi mà
ông soạn, ông chế giới ra là ông đã biết được cái người nào là thầy của chúng
Tỳ Kheo sau này. Cho nên ông rất kỹ trên cái vấn đề mà viết ra cái bộ Giới Luật
chứ đâu phải là viết một cách hàm hồ như chúng ta bây giờ, đặt ra cái thanh quy
bữa nay trật bữa mai trật thì sửa lại, không phải đâu, đó là ông thầy của chúng
ta thì đức Phật phải chỉnh đốn cái ông thầy cho những vị Tỳ Kheo sau này, cho
những người đệ tử theo đạo Phật sau này. Cho nên đức Phật phải chỉnh đốn nó rất
kỹ chứ không phải là thường.
Bởi
vì đọc chúng ta mới hiểu được cái chỗ chế giới tại sao chế nhiều lần chứ còn
nếu mà ông Phật coi thường giới thì ông chế một lần thôi, được được thôi chứ
còn chế đi chế lại làm chi cho mất công. Bắt buộc họ cứ khép như vậy thôi còn
phải chế giảm tới giảm lui cho nó phù hợp đó, nó phù hợp bởi vì cái người này
phạm vầy, người kia phạm như vầy mà nó chỉ có một cái giới thôi mà bị phạm vầy,
mà cái người trường hợp này, người trường hợp kia nó phải có sự sai khác cho
nên Phật mới chế ra nhiều lần vậy để cho nó chỉnh đốn lại cái giới đó cho nó
phù hợp.
Nếu Giới Luật chưa được chỉnh đốn thành một
pháp môn bất di bất dịch, còn có sự thay đổi, thay đổi thêm bớt chắc chắc Đức
Phật không di chúc các thầy Tỳ Kheo lấy Giới Luật làm thầy.Nghĩa là nó còn sự thay đổi như cái lời
của ông Anan mà học lại đó, khi đức Phật sắp nhập diệt thì nói có những cái lỗi
nhỏ nhặt, có những cái giới luật nhỏ nhặt thì cần phải bớt đi, thì ông Ca Diếp
mới bắt tội, sao hồi đó ông Phật nói vậy sao không hỏi những cái giới nhỏ nhặt
nào, bớt thì phải hỏi những giới đó là giới nào mới biết mà bớt chứ còn bây giờ
ông nói cái giới nhỏ nhặt tôi biết cái giới nhỏ nhặt nào mà bớt, phải không?
Các thầy hiểu, ông nói chỉ nói bừa thôi chứ đâu nói chuyện đó được, ờ Phật nói
những cái giới nhỏ nhặt cần phải bớt ra, thì ông hỏi thưa đức Phật, bạch đức
Thế Tôn vậy những giới nhỏ nhặt đó là giới nào, giới nào mà đức Phật bảo bớt ra
thì đức Phật chỉ định cho chúng con thì sau này chúng con bớt ra, còn đằng này
tại sao ông không hỏi, bây giờ ông nói những cái giới nhỏ nhặt bớt ra, tôi biết
cái giới nào tôi bớt ra, đọc thì đọc hết cái bộ giới vậy rồi, bây giờ
biết cái giới nào là nhỏ, phải hông? Thì thử hỏi các thầy coi cái ông Anan có
nhiều chuyện không, thành ra Thầy nói đây là những người sau đặt điều chứ không
phải ông Anan nói đâu, ông Anan không có bao giờ nói ra cái điều đó đâu. Đặt
điều ra nhiều cái thứ chuyện để mà phá giới chứ không phải, để thêm bớt ra đó.
Bởi
vì mình xét ra những người mà trong cái thời đức Phật là những bậc người mà
không có bao giờ mà vọng ngữ, phi thời. Không lý cái trí tuệ của ông Anan là
người đa văn như vậy mà khi Phật nói vậy mà ông ấy không hiểu sao mà hỏi. Đâu
có ngu si đến mức độ đó, để tới ông Ca Diếp nhắc vậy mới thấy cái lỗi của mình
thì đâu có cái chuyện đó đâu, một người mà đa văn thông minh nói đâu nghe đó
rồi thì đâu phải là người thường, mình có nghe rồi mình như cái máy này không,
mà mình còn nhớ kia, mình còn biết kia, còn cái máy này mình nói đâu nó thu vô
đó, còn ông Anan như cái máy catset chứ gì, ông Phật nói rồi ông nhớ rồi ông
kết tập kinh điển ông nói vanh vách không có một cách nào mà sai hết, Phật nói
sao ông nói y như vậy.
Đó
thì quý thầy thấy trên cái vấn đề đó phải là một người có trí tuệ thông minh
như ông Anan chứ đâu phải là người tầm thường, thế mà ông Phật nói cái chuyện
như vậy mà ông ấy không hỏi, thì như vậy là ông như thế nào. Họ đánh giá trị
của ông Anan quá thấp kém, làm y như là mình ý, nói ra rồi không nhớ gì hết,
quên hết, đầu óc chắc bộ lo đi chợ, ăn hủ tiếu. Cho nên cái lời nói mà có những
Giới Luật nhỏ nhặt sau này mà cần phải thêm bớt, cần phải bớt đi, tức là người
sau này đặt điều ra chứ còn không phải ông Anan hoặc là một vị Thánh tăng nào
trong cái thời đức Phật mà nói điều đó hết.
Còn
nói Giới Luật không linh động, chết cứng là tại Giới sư chế cứng chứ không phải
Giới Luật của Phật mà chết cứng. Nghĩa là mình chế giới ra mình không có hiểu
giới, mình chế giới ra rồi mình gò bó bắt buộc người ta phải giữ gìn vầy thành
ra cái giới hành nó không có. Do đó đâu có biết, chỉ thấy ba cái như là Tứ diệu
đế này, Tứ như ý túc, rồi thấy như là Thất giác chi nè, rồi thấy Tứ niệm xứ nè,
họ nói đó là pháp tu. Chứ họ đâu có hiểu đó là cái giới hành của người ta, họ
đâu có hiểu cho nên mấy ông Giới sư này ông đâu có hiểu là 37 phẩm trợ đạo là
Giới Hành của Giới Luật của Phật. Ông đâu có hiểu, cho nên ông thấy đó là pháp
môn tu chứ đâu phải là giới, nhưng cái người mà người ta am hiểu giới người ta
biết đó là cái hành động để thực hiện cái giới. Mà cái giới là cứu cánh, cái
giới là thiện pháp nó làm cho chúng ta thoát khỏi sự đau khổ. Cho nên đó người
ta mới biết là giới hành, còn cái người không tu không biết do đó thấy đó là
pháp môn chứ còn 37 phẩm trợ đạo là pháp môn tu chứ đâu phải là Giới Hành. Còn
người tu người ta biết đó là Giới Hành, để áp dụng cho chúng ta đạt được cái
giới cho nên nó làm cho tâm chúng ta mát lạnh.
Đó
thì quý thầy thấy, ở đây Thầy giải thích rất rõ, cái sai cái lệch của cái
người, từ cái người xưa cho đến bây giờ chứ không phải là cái người bây giờ
không đâu. Tại vì họ không có chứng đạt được cái sự tu hành của họ, họ không có
cái đầu óc của một cái người chứng cho nên họ không thông minh được, cho nên họ
không thể thấy được, họ chỉ tưởng giải, kiến giải của họ ra bằng cái cách nghĩ
tưởng của nhà học giả. Họ nói họ lý luận trên mây xanh mà rồi rốt rồi cuộc họ
không hiểu Phật pháp cái gì hết. Giới luật của Phật là ông thầy sống động của
chúng ta, như đức Phật còn tại thế, bởi vì giới luật của Phật phải được như là
ông thầy mà sống động như đức Phật. Ông Phật bây giờ là một cái Giới Luật rất
là sống động cho nên chúng ta hỏi cái gì là ông trả lời liền ngay cái đó, thì
cái ông thầy Giới Luật mà đức Phật đã chỉ định cho chúng ta sau này nó cũng
sống động như vậy chứ sao lại chết khô cằn.
Đó thì quý thầy mới hiểu được cái chỗ mà Thầy giảng cái Giới
Luật hôm nay mới thấy rõ đường đi của đạo Phật là ông thầy của chúng ta đó. Cho
nên Giới Luật là pháp môn rất linh động cho mỗi trường hợp, mỗi hoàn cảnh, mỗi
con người để thực hiện tu tập có kết quả ngay, thiết thực hiện tại mới xứng là
ông thầy của các vị Tỳ Kheo, đâu như Giới Luật mà quý vị Giới sư đang giảng
dạy. Các vị này đang dạy giới đều chết cứng cho quý vị, họ không hiểu gì về
giới luật của đạo Phật, họ không hiểu ngay cả chữ Tam vô lậu học. Họ không hiểu chữ Tam vô lậu học
là cái gì nữa thì làm sao dạy pháp môn của Phật, họ hiểu theo kiểu thế gian
thường tình Giới là giới điều, là pháp luật, là bắt buộc mọi người tuân theo
phải giữ gìn dù có khổ đến đâu cũng phải giữ gìn, đó là cái sai thứ nhất.
Giới Luật của Phật là pháp môn vô lậu, khiến cho người tu được
giải thoát thế mà pháp môn này trở thành kiết sử, triền phược trói chặt người
ta tu hành. Có phải không, các con thấy cái Giới bổn mà đưa ra có phải là kiết
sử không, có phải là sợi dây trói chặt họ không? Cho nên họ khổ quá, trời ơi ăn
ngày ba bữa đỡ, còn bây giờ ăn ngày một bữa như vầy thế này, thế này, thế này
phải khổ không? Có thấy giải thoát gì đâu, ăn một cục đường một chút cũng hỗng
cho, uống ly nước chanh cũng hông được, phải hông các thầy cứ nghĩ cái điều đó,
gì mà quá khổ đâu phải là nuốt cả bụng hoặc là ăn bữa cơm như người ta đâu.
Uống có chút xíu cũng không được, cũng phi thời phi thời. Đó thì như vậy là các
thầy thấy nó khô cằn, nó thành những cái sợ dây kiết sử nó trói buộc cái người
tu của chúng ta (BBT:CĐ,24A,E00:45:01)trở
thành quá khắc khổ vì thế mà họ phải phá giới và thay đổi giới bằng cách bịa
chuyện đức Phật cho bỏ những giới nhỏ nhặt. Nghĩa là họ phải bịa ra bỏ những
cái chuyện mà bỏ những cái giới nhỏ nhặt để cho phù hợp với bộ phái của mình.(BBT:BN,22,E01:24:53)
(BBT:CĐ,24B,B00:00:13)(BBT:BN,22,B01:24:53)
Định
là một pháp môn vô lậu thì Thiền sư lại biến thành pháp môn ức chế tâm, bởi vì
Tam vô lậu là Giới, Định, Tuệ mà, bắt đầu ông Thiền sư thì ông lấy cái định,
ông lấy cái pháp môn định, định vô lậu nó làm cho chúng ta hết lậu hoặc thì ông
lại chế tâm ổng. Ông làm ông nén tâm ông ấy xuống cho giữ tợn đi, nén tâm nên
tham sân si lậu hoặc không hết, bởi vì mình nén tâm làm sao hết, còn người ta
có cái pháp hành người ta nó xả tâm ra, nó ly ra, nó dùng pháp hướng nó quán
triệt, nó làm cho xả ra hết cho nên tham sân si nó không còn, còn cái này ông
nén tâm ức chế cho hết vọng tưởng, rồi ông nén ông tâm xuống, đè xuống cho đừng
tham sân si. Lậu hoặc của ổng đầy rẫy ở trỏng, càng nén nó như cái lò xo à, cho
nên đến cái lúc mà ông làm không được, đè không được nó bật lên thì ông nói là
tạp khí, phải hông?
Đó
là những cái điều mà người ta không có hiểu được cái Định vô lậu mà trong tam
vô lậu học, mà người ta đã biến nó thành các pháp môn thiền định cái kiểu nén
tâm. Thì bây giờ các thầy cứ nghĩ, ngồi đây mà cứ hít thở nén tâm, ức chế vọng
tưởng thì mai mốt nó bị tẩu hỏa nhập ma chứ sao. Làm sao trật được điều đó, còn
ở đây tâm người ta ly dục ly bất thiện pháp sạch hết rồi, đó là giới luật chứ
gì, cho nên bắt đầu người ta điều khiển cho nó ngưng nghỉ, ngưng nghỉ, nó ngưng
hết, thì nó ngưng nó vô định chứ gì thì nó làm chủ được sinh tử. Có cái gì đâu
mà khó, còn mình nén mình có ngưng được hông, nén riết nó bực tức trong người,
nó rối loạn thần kinh, nó điên khùng hết cả đám chứ ở đó, may mà tu ít ít chứ
mà tu nhiều nó mới chết được đó. Người nào mà siêng năng nỗ lực tu thì nó bị
nén nhiều, mà nén nhiều thì nó tức tối nó làm cho cơ thể bị rối loạn cho nên nó
đi tới chỗ này tới chỗ kia nó thành bệnh. Còn cái người tu cầm chừng chơi chơi,
tu không không thấy gì hết, lúc có vọng tưởng lúc hết vọng tưởng cũng tu, nhưng
mà tu không có tích cực tối đa đó thì cái người đó không có bị rối loạn cơ thể
mà nó cũng chẳng tới đâu. Lúc thì ngủ ngục ở trong đó, lúc thì tỉnh bơ không
vọng tưởng, lúc thì an lạc khoái quá, lúc thì thưởng thức cái này, lúc thì
thưởng thức cái kia, ngồi đó mà thưởng thức đủ mùi vị không khoái sao, cho nên
Thiền sư khoái cái đó lắm. Cho nên mới tạo cái định ức chế tâm để mà ngồi
thưởng thức các cái tưởng lạc ở trong đó chứ có cái gì hơn đâu, đến cuối cùng rồi
cũng rủ nhau đi xuống địa ngục cả đám chứ làm sao hơn được, biết đường đâu mà
đi khỏi cái địa ngục đó. Bởi vì đang ở trong cái dục lạc, cái hướng mà chạy
theo cái hưởng lạc đó, ngồi thì nghe nó không vọng tưởng, nghe nó khinh an,
khoái quá, trời ơi, cái này là thiền định rồi nhưng mà không ngờ cái đó là cái
thứ dục lạc, dục lạc của tưởng dục, đó thì còn ham cái đó tức là còn tưởng dục
chứ gì, thì cái đó nó sẽ đưa mình cái hướng đi xuống địa ngục chứ cái gì nữa.
Như vậy thiền định của họ không thiết thực hiện tại, chỉ là một nguồn an ủi
suông cho người tu.
Tuệ
là một pháp môn vô lậu thế mà họ lấy tưởng kiến làm tuệ, đó bây giờ mà nói qua
một ông thầy dạy kinh kiến giải kinh sách bằng cái này cái kia đó, thì đó là họ
lấy cái tuệ vô lậu của Phật mà họ đặt thành cái tưởng kiến của họ làm tuệ, nên
càng tu cái bản ngã càng to. Họ tu riết rồi thấy họ sao mà dữ tợn thấy ớn, đó
là bản ngã họ càng to, mà họ trí tuệ họ nói thôi, kinh sách nào họ cũng thông
suốt hết, bao nhiêu bộ kinh họ viết ra cũng được hết mà đụng tới họ thì mới
thấy cái mặt họ nó rầm rầm ra một đống. Đó, bản ngã càng to, xây dựng đường lối
tu hành bằng tập thể, bè phái do đó mới có sự chống đối lẫn nhau trong đại gia
đình của Phật giáo tan nát. Đó bởi vì cái bản ngã to lớn thì phải xây dựng bè
phái to lớn, bành trướng chỗ này, bành trướng chỗ kia, cái phái của mình mà
phải bành trướng chỗ này chỗ kia để cho nó thành lập cái bè phái của mình, do
đó mới có sự chống lại cái bè phái bên kia, bè phái bên nọ, cho nên chống đối
nhau làm cho cái đại gia đình Phật giáo của mình càng ngày càng tan nát, chứ có
tốt lành gì đâu, quý thầy thấy rất rõ ràng mà. Ông thầy này thì chỉ trích, ông
thầy kia chê, ông thầy kia chỉ trích ông thầy nọ chê, chê nhau chê qua chê lại
cuối cùng thì chẳng ông thầy nào giải thoát. Đó là sự hiểu biết Tam vô lậu học
của thời đại Phật giáo hiện nay, đó họ hiểu qua cái tam vô lậu học là như vậy
đấy. Đã là vô lậu mà họ không thành vô lậu mà còn bè phái ra thêm nữa thì thử
hỏi cái đó không phải là cái bản ngã của họ sao.
Tóm
lại:
-
Luật sư biến giới luật thành giáo điều, pháp luật, bằng chứng là các bộ luật
đang hiện hành trên thế gian này. Đó, bằng chứng là lấy các bộ luật đó chúng ta
thấy rõ ràng là nó biến thành pháp luật chứ không có gì khác hết, thì đó là
thuộc về luật sư đó, họ biến giới luật thành giáo điều, pháp luật bằng chứng
các bộ luật của họ đang hiện hành ở trong các chùa Phật giáo bây giờ đó.
-
Thiền sư thì biến Định vô lậu của đức Phật thành giáo điều gây ức chế tâm, nén
tâm, bằng chứng là những bộ sách thiền đang tung ra thị trường buôn bán khắp
nơi.
-
Kinh sư thì biến Tuệ vô lậu của Phật thành tưởng kiến làm cho tri kiến con
người góp nhặt những hiểu biết đó trở thành kiến chấp. Mà đã có kiến chấp thì
ngã chấp càng to, thay vì trí tuệ vô lậu thì diệt ngã xả tâm để được giải thoát,
càng huân tập tưởng kiến nhiều thì sinh ra tranh luận, hí luận khiến cho người
ta không giải thoát được, bằng chứng kinh sách bán đầy chợ, thậm chí trên vỉa
hè đường phố.
Nghĩa
là bây giờ kinh sách quý thầy có thấy không? Kinh sư viết thôi quá nhiều để làm
gì, để bày bán trên vỉ hè, mà kinh sách của Phật mà bày bán trên vỉ hè có cái
nghĩa lý gì không? Thầy đi qua chùa Xá Lợi Thầy thấy nó để một cái hàng vầy, mà
mấy sạp dài dài ở trên cái lề đường, chỉ có cần cái mà mình đi xe Honda mình
ngồi ở trên yên đó thôi rồi mình kề nhô sát cái lề cái rồi mình lạng lạng
vầy…Trời! Kinh sách mà ngồi trên xe mà thỉnh kinh, trời ơi, ông Tam tạng ông đi
thỉnh kinh mấy thầy biết, trần ai khoai củ mới được cái bộ kinh, mà đến đó còn
phải lo lót cái bình bát bằng vàng mới được xách kinh về, còn bây giờ mình chỉ
rề cái xe lại mình ngồi lật lật cái rồi quăng hai ba đồng rồi lấy quyển kinh đi
về. Kinh sách rẻ quá trời, mà dễ thỉnh, khỏi cần đứng xuống, khỏi cần chắp tay
xá nữa, phải hông? Các con thấy kinh sách đó là cái loại kinh sách của kinh sư
đó, bởi vậy còn cái gì là quý trọng của Pháp bảo nữa đâu.
Bởi
vậy khi mà cái giáo án của Thầy ra các con phải nhớ rằng lưu ý cái vấn đề này,
nó là Phật pháp hoàn toàn là của Phật đó, mà nếu làm cái hành động đó là mấy
con đọa địa ngục đó chứ không phải là chuyện đơn giản đâu. Cái gì mà cần nghe
là nghe, mà cái gì không cần nghe là quý vị không được cho nghe. Tại sao? Tại
vì chúng ta không làm khổ ai, có những lời Thầy giảng là Thầy phải giảng hết ra
để cho quý thầy biết thôi, còn những điều mà chúng ta không được cho người khác
nghe là tại vì người ta, đừng có nên làm động những người mà họ đang phạm giới,
chúng ta phải thương họ chớ, nói ra làm cho động tâm họ thì chúng ta không nên
nói, chúng ta chỉ nghe biết để chúng ta tu tập sửa mình, để thắp sáng lại cái
ngọn đuốc của Phật pháp. Còn bây giờ đem băng thầy ra cho thiên hạ nghe rầm rầm
thì thử hỏi cái thế gian này, cái đạo Phật bây giờ nó đảo lộn xuống cũng như
cái đầu nó trồng chuối ngược xuống dưới hết, nó đưa hai cẳng lên trời nó đi chứ
làm sao mà nó đi được nữa, nó con biết ông thầy nào bây giờ cũng đi ra đường
cũng ụp mặt như vậy chứ làm sao ngó ai, hiểu kinh hiểu thiền hiểu đó thì còn
ngó ai được nữa, thử hỏi mấy ông đã chứng nghiệm được cái chứng của mấy ông
chưa, thành ra mấy ông có làm sao mà lôi cái người nào ra mà thực hiện được cái
này đâu, giới không được này, rồi thiền định cũng chẳng làm xong gì hết. Trí
tuệ siêu việt của họ có làm được cái gì đâu, một thân biến ra nhiều thân được
không, thử mấy ông nói mấy ông ngon đi thì mấy ông làm coi được không, có ông
Thiền sư nào ở trong cái đời nay có làm được không? Thử hỏi họ, thử hỏi như vậy
các thầy nghĩ sao, cho nên ông càm chiếu ngược ông đi thì sao. Còn ra đường
chắc chắn ông phải lấy cái khăn ông che cái mặt ông lại chứ làm sao dám ngó ai.
Cho
nên đừng có đem những cái này ra để cho người khác nghe làm cho người ta khổ,
thì không có được. Để lần lượt đến cái thời điể nào nó tốt, nó phù hợp thì cái
giáo án này ra là một cái cuốn sách, cuốn kinh của Phật nó đầy đủ những cái điều
hành, những pháp hành, những cái lý pháp và cái lý hành nó đầy đủ để giúp cho
những người chân tu, những người trùng tuyên lại Phật pháp, trùng tu lại Phật
pháp thì những người đó họ mới đủ duyên mà nghe cái pháp bảo này.
Kể
như quý thầy hôm nay mà được về đây nghe thầy giảng cái lời nói cuối cùng là
quý thầy có duyên nhất, chứ nếu là không bao giờ có thể được nghe, và nghe rồi
thì không phải là những cái lời Thầy giảng đây mà tung ra thị trường hoặc là
tung ra cho mọi người nghe thì cái đó là cái sai của quý thầy. Thầy không muốn
làm động một người nào ở trong cái thế gian này, Thầy không muốn làm động một
cái giáo hội nào hết, họ làm sao thì mặc họ, nhưng mà cái lời nói cuối cùng của
Thầy là cái lời nói để trùng tuyên lại Phật giáo, để làm sáng tỏ lại Phật giáo
mà những gì người ta đã lầm lạc, người ta đã ném xuống. Đây là lầm lạc chứ
không phải họ cố ý đâu, bởi vì từ người xưa cho đến giờ chứ không phải tự họ
bây giờ, còn bây giờ Thầy đã thấy, đã biết qua cái sự tu hành của thầy, Thầy
chứng nghiệm được cái sự hiểu biết của Thầy, Thầy nói rõ ra hết để rồi sau này
có những người nhờ đó mà người ta thấy được cái đường lối của đạo Phật.
Đó
là lỗi các vị tu hành không đến nơi đến chốn mà muốn làm Bồ tát độ chúng sanh,
thì cái ông Bồ tát đui mù này sẽ dẫn một đám đui mù đi xuống địa ngục cả đám.
Trên thế gian này, sự lường gạt và lừa bịp con người không có chỗ nào hơn và
khéo léo hơn là ở trong các tôn giáo. Sự lường gạt tinh vi và vi tế cho thấy
người cầm đầu lừa gạt mà họ vẫn tự còn không biết mình lừa gạt mà cứ ngỡ mình
là Phật, là Bồ tát độ chúng sanh.
Đó
Thầy nói chính cái người mà đang làm cái phận sự lừa gạt thiên hạ, họ cũng
chẳng biết nữa, họ nghĩ mình là Bồ tát làm Phật sự để lợi ích cho chúng
sanh thôi chứ họ chưa có nghĩ đó là cái sự lừa gạt. Bởi vì mình dẫn dắt người
ta mà mình chưa biết cái mục đích người ta đi tới đâu để giải thoát, rồi mình
cứ dẫn dắt, nhắm mắt mà dẫn dắt cứ nghĩ rằng ở đó như vậy là giải thoát nhưng
mà mình chưa có tới đó, mà mình chưa tới đó làm sao mà mình biết đường. Vì vậy
mình cứ nghĩ tưởng đây là làm những chuyện lợi ích cho người ta chứ không phải
là cái chuyện xấu, cho nên cứ dẫn đi, dẫn đi mà còn bỏ biết bao nhiêu phế, biết
bao nhiêu con người mà theo tôi mà cái đời họ không ra đời mà đạo không ra đạo.
Thay vì họ ở ngoài đời họ làm lợi ích cho bản thân họ và còn giúp cho bao nhiêu
người bất hạnh trong xã hội. Còn bây giờ họ vô tu đó, bao nhiêu của hồ hôi nước
mắt họ nuốt mà họ có làm gì lợi cho ai không? Đâu có lợi cho ai, họ chỉ xây
dựng những cái nơi để du lịch chơi thôi.
Nếu
muốn thoát ra cảnh lường gạt, bịp bợm này thì người tu sĩ phải tu cho đến nơi,
đến chốn nghĩa là phải chứng được đạo thì mới chứng, mới không còn lường gạt,
nghĩa là mình chứng được mình đến cái mục đích giải thoát, mình làm chủ được
sanh tử, mình chấp dứt được luân hồi thì lúc bấy giờ mình ra dạy đạo thì mình
không lường gạt ai hết, còn nếu mình chưa được thì đó là cái hình thức lường
gạt.
Thà
là không có Phật giáo, mà đã có Phật giáo thì phải Phật giáo thực chứ không
phải Phật giáo giả. Còn Phật giáo giả thì thôi thà là đừng có ở trên thế gian
này đi, để cho mang tiếng cái Phật giáo thế này thế khác, người ta cười chê
bằng cách này, bằng cách khác, thà là không có nó thì không ai cười, mà có nó
phải có cho thực. Và thà là một người, mà một người phải xứng đáng là người tu
sĩ của đạo Phật, còn cả bầy mà không xứng đáng thì thôi dẹp quách hết không có
chừa cái người nào. Bởi vậy, phải nói thì nói cho hết, quét thì phải quét cho
sạch, quét cái nhà mà quét có bên đây chỗ, bên kia chỗ thì rác rưới nó còn, mà
hễ quét thì phải quét cho sạch chớ đừng có để cho cái rác rết đó thì làm cái
nhà chúng ta nó dơ bẩn thêm cho nên không có ích lợi gì.
Vốn
Phật giáo ra đời để giải quyết cái khổ của con người, vì thế giáo lý và Giới
Luật của Phật là pháp môn để người tu chứ không phải để người học lấy đó làm
cấp bằng danh lợi.
Đến đây là hết phần giới thiệu về giới bổn Patimokka của đạo
Phật.(BBT:BN,22,01:38:09)(BBT:CĐ,24B,00:12:25)
THỌ TAM QUY NGŨ GIỚI
Vậy chúng ta sẽ thọ giới nào, sẽ thọ giới nào trước tiên. Bây
giờ mình nói giới bổn mà mình biết thọ giới nào trước đâu, phải hông? À mình
thấy năm giới, thường thường người ta nói thọ Ngũ giới chứ gì, rồi Thập giới
chứ gì, rồi Thập thiện chứ gì, rồi 250 giới chứ gì, rồi 348 giới chứ gì, rồi Bồ
tát giới chứ gì, đó mình nghe kê ra một loạt nhưng mà chưa chắc đã là Ngũ giới
là đúng. Bởi vì Ngũ giới nó chưa phải là giai đoạn của nó mà khi một cái người
mới bước vào để thọ giới của Phật, cho nên ở đây chúng ta phải hiểu Thọ Tam quy Ngũ giới.
Tại
sao người ta nói thọ Tam quy Ngũ giới mà người ta không nói là thọ ngũ giới
không? Đó bây giờ Thầy mới mở màn cho chúng ta thấy biết được cái chỗ mà chúng
ta thọ như thế nào?
Có người bảo tin Phật chỉ cần thành tâm, hà tất nhất định cần
phải quy y, mới thoáng nghe qua dường như là có lý, thật ra thì cái lý đó chẳng
vững, nó chẳng có vững đâu, có người nói à mình tin Phật coi như là mình theo
pháp Phật mình tu thôi cần gì mà phải quy y. Đó thì như vậy thì chúng ta phải
hiểu. Tại sao? Ví như học sinh muốn học phải làm thủ tục giấy tờ đăng ký nhập
học. Nghĩa là mình muốn học thì mình cũng phải đăng ký, thì mình muốn theo Phật
thì mình cũng phải đăng ký chứ sao mà mình nói cái chuyện mà ngông cuồng vậy,
hỗng đăng ký làm sao người ta biết tên biết họ mình có vô học không. Rồi cái
trường học đó nó mở rồi ba cái thằng học sinh này không có tên họ đó thì làm
sao mà cấp giấy học bạ cấp bằng cho nó. Đó là những cái mà chúng ta phải đem
một cái ví dụ cụ thể cho một cái trường học, bởi vì mình đây là một cái trường
học Phật cho nên mình bắt đầu mình phải thọ Tam quy. Vậy thì Tam quy là phải là
cái giới luật mà thọ đầu tiên chớ cái gì khác hơn hết. Đó thì bây giờ quý vị
mới thấy cái giới mà chúng ta thọ đầu tiên là cái giới Tam quý chứ không phải
là Ngũ giới đâu, Ngũ giới nó còn sau nữa mà, Tam quy chưa xong mà làm sao, ba
cái giới này chưa xong thì thọ ngũ giới làm sao làm được. Lớp thì phải đi từ từ
lên chứ, lớp một lớp hai chứ, sao lại thọ giới thọ giới mau quá vậy.(BBT:BN,22,E01:40:34)(BBT:CĐ,24B,00:14:32)
(BBT:CĐ,24B,00:14:33)(BBT:BN,23,B00:00:00)
Nghe
nói thì người nào cũng nói tôi thọ Ngũ giới hết, ông cư sĩ nào cũng nói tôi thọ
Ngũ giới hết mà cái Tam quy thì không hiểu làm sao hết. Trời ơi ba cái giới đầu
tiên hỏi tới ông, ông không biết gì hết, ông nói Phật, Pháp Tăng, mà ông nói
Phật Pháp Tăng chứ không biết giới. Ông Phật không phải là giới sống động sao,
mà Pháp không phải là giới sao, mà Tăng không phải sống giới sao, thì đó là
giới còn gì, giới thực tế giới cụ thể giới linh động nữa. Thì ba cái giới đầu
tiên không phải quy y theo nó sao?
Đó
thì hôm nay Thầy nói như vậy để cho quý thầy biết rằng chúng ta sẽ quy y cái
giới nào trước, chứ không phải nói à tôi quy y thọ cụ túc 250 giới hoặc là 348
giới ni đâu, không phải cái chỗ đó là cái chỗ căn bản của chúng ta đâu, mà bắt
đầu chúng ta phải thọ cái giới nào trước. Bởi vì học giới mà không rành giới
thì làm sao mà biết thọ cái giới nào trước cái giới nào sau, hỏi cái ông mà dạy
giới sư, hỏi cái giới nào thọ trước ông nói Ngũ giới, ông này mới nói thiệt là
quê mùa, phải hông? Ông không hiểu, tưởng người cư sĩ vô tu là thọ ngũ giới à.
Bằng
không trường học không có học tịch nên chỉ được miễn cưỡng dự thính, nghĩa là
nó không có học tịch thì người ta có cho mình được dự thính là may lắm mà miễn
cưỡng chứ làm sao người ta biết được thằng học trò đó là như thế nào. Đến cuối
niên học không có giấy tờ chứng chỉ học bạ gì hết, một học sinh mà không có
đăng ký như vậy đó, không có nhất định như vậy thì phải chiếu theo cái niên học
như thế nào mà đạt được, chứng chỉ học bạ như thế nào mà đạt được. Cho nên chúng
ta phải có cái sự rõ ràng, phải có sự đăng ký chứng chỉ học bạ để lên lớp, lên
cấp từ tiểu học qua trung học rồi đến đại học. Đầu tiên vào tiểu học phải đăng
ký, rồi khi mà hết tiểu học rồi phải đăng ký lên trung học, rồi hết trung học
rồi thì phải đăng ký lên đại học chứ đâu phải nói tu học luôn một lượt đâu
được. Cho nên thí dụ như bây giờ mình đăng ký thọ Tam quy nè, sau đó mình mới
đăng ký thọ Ngũ giới chứ, phải hông? Các thầy thấy nó phải đi tuần tự chứ, Tam
quy mà chưa xong rồi mình chưa tin ông Phật nổi mà tôi làm sao tôi thọ giới nổi
mà tôi giữ gìn được, cho nên uống rượu cứ uống rượu hoài chứ nó làm sao giữ Ngũ
giới được, mình tin ông Phật không nổi cho nên mình cứ uống rượu. Đó cho nên
cái giới đầu tiên mình chưa có làm được, mình chưa đăng ký được thì mình chưa
nên đăng ký cái Ngũ giới và còn thi cử xem có đủ năng lực hay không.
Do
đó người theo đạo Phật là phải thọ Tam quy, thọ Tam quy tức là thọ giới đầu
tiên trong đạo Phật, đó quý thầy thấy chưa, đây là thọ Tam quy là thọ ba cái giới
đầu tiên trong đạo Phật mới đúng cái nghĩa của nó.
Ở
đây Tam quy được xem là pháp thiện thứ nhất trong đạo Phật, bằng những hành
động cao quý và gương hạnh tuyệt vời của ba giới này, tuyệt vời cả ba giới đầu
tiên này, đem lại một cuộc sống an lành tràn đầy thiện pháp cho người cư sĩ đệ
tử của Phật. Vì thọ Tam quy là bước đầu giới luật thứ nhất để tiến vào cửa ngõ
đạo Phật, đó, ba cái giới đó là mình mới tiến vào cửa ngõ đạo Phật mới được
chứ. Còn nếu mình chưa có mà thọ Tam quy thì làm sao mình tiến vào cửa ngõ của
đạo Phật được. Cho nên dạy giới luật Thầy dạy rất rành, bởi vì trải qua một cái
thời gian mà Thầy về được thầy T.T. khuyên nên đọc lại kinh sách thì Thầy đọc
kinh sách là rất nhiều. Bởi vì Thầy đã sống từng mười năm ở trong sự mà thực
hiện giới luật ở trong sự tu tập của thầy cho nên Thầy biết đó là cái mấu chốt
giải quyết sinh tử luân hồi của con người, cho nên Thầy nghiên cứu cái này rất
nhiều vì vậy mà Thầy biết cái giới luật nào đầu tiên mà giới luật nào sau cùng
của nó. Chứ còn hầu hết là cái người mà không có tu hành mà đến nơi đến chốn
thì không có hiểu nổi cái điều này. Để tiến vào cửa ngõ của đạo Phật, nếu chẳng
đi bước thứ nhất này, thì đâu thể bước thứ hai, thứ ba thứ tư được. Muốn đi
bước thứ hai, thứ ba ắt phải bắt đầu đi bước thứ nhất, cấp bậc tu hành giải
thoát theo đạo Phật của hàng đệ tử lấy theo thứ lớp, lấy theo thứ lớp của giới
luật mà quy định. Nghĩa là các thầy thấy không thọ Thập giới thì người ta gọi
là Sa Di, phải hông? mà thọ 250 giới thì người ta gọi là Tỳ Kheo nó có cấp bậc
rõ ràng mà. Cho nên bây giờ mình thọ Tam quy thì cái cấp bậc của mình là mới
bước vào cửa ngõ của đạo Phật, thì như vậy rõ ràng là mình phải có cái sự đăng
ký hẳn hoi chứ đừng có nói là tôi tin Phật, tôi chỉ tu theo pháp Phật thôi
chẳng cần quy y gì hết, thì như vậy là mình đâu có thọ.
Quy
y Tam là lớp cơ bản đầu tiên học về đạo đức nhân quả giải thoát của hàng đệ tử
Phật, bao nhiêu giới luật và pháp môn của Phật cũng đều do ba giới đầu tiên này
mà lưu xuất ra. Mình phải thấy từ Phật, Pháp, Tăng nó cũng đều ở chỗ đó mà nó
lưu xuất ra giới luật của Phật, lưu xuất ra các pháp. Chứ không phải ngoài ông
Phật làm sao có các pháp này, ai nói pháp này thì chúng ta biết, không phải từ
ông Phật sao, mà ông Phật là cái giới đầu tiên của chúng ta thì nó phải lưu
xuất ra tất cả những cái Pháp khác, cái giới khác để chúng ta tu hành, đó là
không phải sao? Cho nên khi mà Thầy luận đến đây quý thầy thấy cái vấn đề thầy
nêu lên là cái vấn đề rất rõ không có mơ hồ, không có tưởng tượng, mà đây là
một cái sự thực, sự thực phơi bày cũng như là mọi vật ở trong cái lòng bàn tay
của chúng ta. Bởi vậy tất cả Giới Luật đều lấy Quy y Tam Bảo làm căn bản. Ngoài
cái Giới Luật của Đức Phật, pháp môn của Phật tu hành mà lìa xa cái Tam Bảo này
thì nó không còn là giới luật của Phật nữa.
Có
người cho rằng mình có đủ năng lực xem kinh thì tự mình trực tiếp hướng vào
kinh Phật tìm ra con đường thành Phật, đâu cần phải quy y cũng có thể được sự
thọ dụng của việc học Phật. Điều này trên lý thuyết thì nghe như là thông, mà
trên thực hành thì sai, thì sai bét. Vì sự nghiên cứu vào Phật pháp nội cái để
mà hiểu cho đúng còn khó khăn, và đôi khi chẳng hiểu gì cả, mà lại hiểu một
cách méo mó làm lệch lạc Phật pháp, hầu hết Phật giáo thời này Phật pháp đều
hiểu lệch lạc từ giới đến kinh. Một người mà đã được trang bị kiến thức đầy đủ
như những ông tiến sĩ, nhưng đối với giáo lý của đạo Phật mà để kiến thức này
nghiên cứu thì Phật pháp chẳng qua là biến thành một thứ giáo lý khô cằn cỗi.
Cũng như những người kiến thức tưởng giải, biến giáo lý Phật giáo thành bóng ma
trong đêm tối. Nghĩa là những nhà học giả đó, họ biến Phật giáo thành bóng ma
trong đêm tối, mà những nhà có học thức, có tiến sĩ mà nghiên cứu Phật giáo thì
nó cũng biến Phật giáo thành một cái thứ giáo lý khô cằn, nó cũng không có đem
cái gì lợi ích cho con người hết.
Người
muốn hiểu giáo lý và Giới Luật của đạo Phật phải là một hành giả, nghĩa là cái
người mà hiểu được giáo lý phải là một hành giả tới nơi tới chốn, được một bậc
đạo sư, hay một vị minh sư có kinh nghiệm hành trì, tri hành hợp nhất dạy và
bảo qua những kinh nghiệm của họ để cho người này tu hành thì mới hiểu được
giáo lý nhà Phật.
Đó
một người mà muốn hiểu được cái giáo lý của nhà Phật mà chính xác đúng thì cái
người đó phải là bậc hành giả, mà bậc hành giả đó không phải tự họ hành mà tự
họ hiểu được mà phải có một bậc đạo sư như đức Phật chẳng hạn, hoặc là một vị
minh sư có kinh nghiệm hành trì, tri hành hợp nhất, lời nói của họ phải đi đôi
với cái hành động của họ, thì họ dạy qua những kinh nghiệm của họ cho cái người
này, thì cái người này mới có hiểu được giáo lý, chứ không phải động người nào
mà bước vô đọc kinh sách của Phật đều hiểu hết đâu. Người thì hiểu góc độ này,
kẻ hiểu góc độ khác cũng như cái thằng mù mà sờ vòi, sờ lỗ tai thì cho nó là
con voi, mà sợ cái đuôi cũng cho nó là con voi, mà sờ cái chân cũng cho nó là con
voi, mà sờ con mắt cũng cho nó là con voi mà chẳng biết con voi toàn bộ nó là
thế nào. Đó là sờ cái giáo lý của Phật là như vậy, đó là sờ còn đúng cái vị trí
đó đó, còn nếu mà sờ mà chẳng hiểu đó là cái gì nữa là khác. Đó thí dụ con voi
mà ỉa ra cục cứt mà sờ nó chẳng biết con voi nó nằm đây hay chỗ nào…thì cái
chuyện đó là còn sai nữa đó chứ đừng nói chi mà sờ biết được cái lỗ tai nó là
may lắm rồi, sờ cái vòi biết cái vòi cũng là may đó, còn sợ mà sờ cái vòi nói
là cái roi mây thì trật luôn nữa đó. Đó thì tất cả những cái sai sót của người
ta ở trong cái đời do tưởng giải và kiến giải mà làm cho lệch lạc Phật pháp mất
đi con người tu giải thoát mà bao nhiêu thế kỷ, hàng trăm thế kỷ, hàng ngàn thế
kỷ, hàng trăm thế kỷ nay làm cho người ta khó mà đi lại con đường của đạo Phật.
Rất
dễ hiểu vì mục đích giáo lý này là chỗ hành động của cuộc sống để đem lại cuộc
sống thực, an lành, hạnh phúc cho mọi người, còn kẻ nào nói giáo lý suông là
đương nhiên không hiểu giáo lý. Lời dạy của Phật là lời dạy sống động, hành
động chứ không phải lời dạy suông, còn hiện giờ kinh sách hiện hành là lời dạy
suông, cho nên những ý kiến ở trên đều là sai hết.
Một
người chẳng thọ Tam quy mà lại tự xưng là Phật giáo đồ thì như những trang giấy
trắng mà chưa có một hàng chữ nào viết trong đó, thì tư tưởng này là tư tưởng
không dứt khoát, kẻ này…Nghĩa là cái chỗ này, cái người mà chưa có thọ Tam quy
mà tự xưng mình là Phật giáo đồ thì như là cái trang giấy mà người ta chưa có
viết chữ nào vào đó hết. Thì cái tư tưởng này đối với Phật giáo nó không có
dính gì hết cho nên họ nói vậy, bữa nay họ thấy ờ bây giờ mình nói vậy mai mốt
nghe cái Tin Lành nói ngon quá nó nhảy qua, mình đâu có thọ tam quy đâu cho nên
mình qua Tin Lành dễ dàng thôi đâu có gì khó, phải không? Cho nên cái ông này ông
lừng chừng nhất nè, ông này ổng hiểu Phật giáo một cách chưa có sâu đâu nhưng
mà bây giờ thấy nghe hay hay thôi thì mình cũng tự xưng mình Phật giáo đồ đi,
rồi mai mốt cái bộ coi hỗng được cái mấy bữa nghèo quá đi. Ba cái ông Tin Lành
ông đến cho một số tiền bạc cái thì nhào vô, bây giờ mình theo Tin Lành ngon
hơn, trời ơi có tiền, có sắm sửa nhà cửa. Ít ra mấy ông Tin Lành cũng cho mình
chiếc xe gắn máy chạy nữa, thì do đó thì tức là được cung cấp những cái đó thì
cái ông này ông ấy nhảy qua luôn. Hồi đó tôi đâu có quy y Phật đâu mà tôi sợ,
lỡ hồi đó quy y rồi đi ra vậy người ta nói mình ngoại đạo rồi, ờ mình theo
ngoại đạo rồi bỏ giáo của mình rồi, thành ra trong đầu óc nó có hai tôn giáo,
sợ người ta nói mình theo cái đạo này rồi mà theo đạo khác sợ chết xuống địa
ngục người ta chẻ mình làm hai, nên hoảng đi hỗng dám. Còn bây giờ đó mình đâu
có quy y đâu mà mình sợ, mình chưa có tôn giáo nào hết mình nói thì nói, mình
thấy Phật giáo hay vậy mình tự xưng vậy chứ thôi chứ chưa có ai ấn chứng cho
mình là mình đã theo Phật giáo, cho nên vì vậy mà bây giờ Tin Lành nó giúp đỡ
mình thì mình theo nó cũng phải ngon thôi có gì đâu mà lo, phải hông. Cho nên
nhiều người có người theo Cao Đài giáo bây giờ trở về Phật giáo nói tôi sợ quá
tại vì tôi phản đạo thôi rồi thì sao? Hồi đó tôi đưa tay tôi thề là không có
thay đổi đạo, mà bây giờ lỡ thề rồi nói làm sao bây giờ? Cho nên cứ dính Cao
Đài hoài hông dám ra, phải hông các thầy thấy.Đó là một cái điều kiện mà cái
người mà không có dám quy y Tam Bảo đó, là tức là không có dám quy vào cái giới
của Phật đó, thì cái người đó họ lừng chừng lắm, họ còn đang lưỡng lự lắm, họ
chưa có dứt khoát đâu. Cho nên ở đây, những cái họ lý luận ở trên, họ nói như
vậy là những kẻ lừng chừng bởi vì thấy những cái tư tưởng đó là mình đã biết họ
là cái loại người nào rồi.
Mình
chọn cái tôn giáo đó mình vào là mình phải nghiên cứu cho kỹ lưỡng hẳn hoi mình
vào, thì vào cho nó xứng đáng với cái sự vào cái tôn giáo đó. Còn đằng này,
biết mình vào đó mình có tu chứng không, thôi để thử thử coi có được hông, được
thì mình vô không được thì mình ra cũng không sao, cách thức đó là cách thức
như vậy.
Thì
tư tưởng này là tư tưởng không dứt khoát, kẻ này là kẻ vui đâu xâu đó, thích
thì tự xưng là Phật giáo đồ mà không thích thì thôi, đó là lối thăm dò chứ chưa
thực quyết tâm theo hướng thiện của đạo Phật. Những người này thường hay dụng
câu tự quy y Phật, thường thường họ nói họ tự quy y Phật đó, coi chừng mà chúng
ta thấy ở trong những cái bài kinh mà tự quy y Phật, tự quy y Pháp, tự quy y
Tăng đó, thì mấy cái ông này, họ lấy cái cớ đó họ nói tôi tự quy y chứ không
cần ông thầy nào quy y hết. Bây giờ quý thầy phạm giới đủ thứ tôi không có quy
y mấy ông đâu, tôi quy y Phật, quy y Pháp, tự quy y Tăng chớ tôi không cần mấy
ông đâu thì cái đó là điều sai.
Bởi
vì Thầy nói cho hết để chúng ta thấy rằng mình muốn quy y Phật thì mình chọn
một bậc thầy xứng đáng mình quy y còn không có thì thôi, mình nghiên cứu rồi
mình đi tìm kiếm những bậc nào mà giới đức hẳn hòi thì mình đến mình quy y. Còn
mình quy y ông thầy phạm giới thì từ đó mình cũng theo ông thầy đó cũng phạm
vậy thôi, thầy mình sao thì mình vậy, cho nên ông thầy có vợ con thì mình theo
ổng, mình quy y với ổng thì có ngày mình cũng có vợ con, cũng giữ cái chùa cũng
như là cái gia đình vậy chứ không khác gì hết. Thầy nói đó là cái sự thật bằng
chứng như vậy chứ hổng có làm cái…, còn mình theo ông thầy không vợ con thì
cũng đỡ một chút, mặc dù ông có phi thời thì cũng đỡ đỡ chút, còn ông thầy mà
có vợ con thì quá tệ rồi, không thể nào mà nói được. À tới đây thì Thầy xin
nghỉ để ăn cơm.
Bây
giờ chúng ta tiếp tục cái bài học, hiểu một cách cạn cợt đã đưa Phật giáo xuống
hố thẳm của mê tín thần quyền hay lạc vào đỉnh núi khoa học, khoa tâm lý học,
tất cả sự tự quy y này đã đưa Phật giáo đến chỗ sai lệch này đến chỗ sai lệch
khác, cũng như những bậc thầy đứng ra đại diện ba ngôi Tam Bảo để làm lễ quy y,
mà vị thầy ấy giới luật chưa nghiêm túc, và tu tập chưa ra gì mà đứng ra quy y
cho mọi người, họ cũng ví như một người mù mà dẫn đám người mù đi vào rừng
thẳm, thì chắc chắn ông thầy và đám người mù này sẽ chết dưới vực thẳm trong
rừng âm u, và có thể không còn một người nào còn sống sót. Bởi vậy bắt đầu vào
đạo Phật đừng tự vội quy y Phật, Pháp, Tăng mà hãy nghiên cứu trước, mà phải
tìm những bậc minh sư, họ chỉ dạy cho cách nghiên cứu.Bởi vì ở đây thì Thầy nói
rằng khi mà chúng ta muốn quy y Tam Bảo đó, tức là thọ Tam quy đó, thì chúng ta
phải chọn một cái vị thầy cho hẳn hòi đàng hoàng, một bậc minh sư của Phật
giáo. Chứ nếu mà chúng ta chọn không có đàng hoàng, thì ông thầy làm sao thì
sau này mình cũng như vậy. Ông thầy phá giới thì mình cũng phá giới, ông thầy
có vợ thì mình cũng có vợ, ông thầy ăn uống phi thời thì mình cũng phi thời,
ông thầy mà danh lợi thì mình cũng danh lợi. Bởi vì cái ông thầy là tượng trưng
cho cái Tăng bảo, mà cái Tăng bảo nó sống gần ở bên mình, cái oai nghi tế hạnh
nó không có thì mình cũng chịu ảnh hưởng luôn cái đời sống của mình như vậy mà
không thể nào mình thoát ra khỏi. Không thể thầy mình mà sống như vậy mà mình
làm khác thầy mình được. Cho nên đó là một cái điều khó cho người đệ tử sau này
muốn sửa lại cũng rất là khó.
Bởi
vậy bắt đầu mà vào đạo Phật, thì quý vị hãy đừng có vội vàng quy y, đừng có
nghe theo cái miệng lưỡi của mấy ông mà hãy nghiên cứu cho kỹ, mà muốn nghiên
cứu thì mình phải tìm những cái bậc minh sư mà người ta có Giới Đức, người ta
có thiền định sâu mầu á, thì mình đến đó mình xin những cái bậc đó dạy cho mình
cách nghiên cứu phật giáo. Kinh điển Phật giáo thì bây giờ không biết cái loại
nào đúng, loại nào sai cho nên chúng ta đụng cuốn kinh nào cũng nói là của phật
giáo hết thì sai. Vì vậy mà phải cần phải gặp những cái bậc mà người ta có tu
đúng của đạo phật, có giới hạnh thì người ta mới chỉ cho mình hợp với nghiên
cứu cuốn kinh nào cuốn sách nào chứ không phải đụng đâu mình đọc đó.
Đó
là đem cho mình hiểu biết Phật giáo một cách chơn chính rồi từ đó mình rằng
mình ghiên cứu xong cái đạo Phật nó tuyết vời như thế nào nó phù hợp như
thế nào, nó đúng cái ước vọng của mình như thế nào thì mới tìm đến cái bậc minh
sư đó, người mà mình tin tưởng ông ta là giới hạnh nghiêm túc đó thì mới xin
quy y. Rồi ông ta mới đứng ra mới đại diện cho ba ngôi Tam Bảo mà ông ta quy y
chứ không phải là mình cứ quy y ông ta đâu mà mình quy y Tam Bảo. Đó là cái,
cái đó là cái đúng, rồi cầu xin, mình cầu xin ông ta đứng ra quy y, nhưng nếu
mà ông thấy cái tư cách mà ông ta chưa có đủ thì ông chỉ cho chúng ta một người
có tư cách hơn ông. Bởi vì những cái bậc mà thiền đức á, những bậc mà giới đức
á thì họ nhường lại cho những người mà có cái đức hạnh cao hơn họ khi mà họ
thấy họ còn thiếu, còn những người mà danh lợi đó thì ai vô quy y họ cũng quy y
hết. Đó vì họ quy y cho đệ tử cho đông để làm gì để phục vụ cho đời sống của họ
cho đầy đủ. Đó là những cái, cái lợi, cái danh của họ, họ không thấy được cái
lợi ích cho người đệ tử của họ quy y. Còn cái người mà người ta giới luật
nghiêm chỉnh á người ta sợ cái người đệ tử của mình theo giữ gìn không có nổi,
nếu mà người ta thọ cho cái người đệ tử cho họ quy y rồi thì người ta có trách
nhiệm làm sao cho cái người đệ tử của mình phải đi vào trong cái giới luật của
Phật, khép mình trong thiện pháp, cho nên sợ đệ tử của mình giữ gìn không
có trọn, cho nên người ta đưa đến những cái bậc cao hơn để cho cái oai lực và
oai đức nó cảm hóa được cái người đệ tử đó đểt trở thành người tốt, một người
đệ tử của Phật sau này nghiêm chỉnh, trì giới luật rất nghiêm chỉnh. Còn nếu mà
ông thầy đó ông đủ cách thì ông đứng ra ông đại diện, còn nếu mà không đủ cách
thì ông đứng ra ông giới thiệu cho một người khác. Họ từ chối chỉ cho chúng ta
đến với một người khác, để cho người thầy của quý vị là một tấm gương sáng
chói, tấm gương sống cho quý vị sau này trên bước đường theo Phật giáo tu hành.
Họ là một cái tấm gương sáng chói làm cho chúng ta thấy cái gương hạnh đó mà
chúng ta theo dõi cái bước chân tu hành của bậc thầy của mình, nhờ đó mà mình
tiến bước trên con đường đạo Phật tu hành giải thoát.
Còn
thời nay người chưa đủ tư cách mà đứng ra quy y, mà vội vàng là để cầu danh,
cho đệ tử càng đông càng tốt, càng làm giầu, càng có danh có tiếng nhiều. Đó là
cái số thầy mà người ta chỉ nhắm vào danh và lợi vào cái số đệ tử để gây cái uy
tín người ta thì người ta không có nghĩ đến cái lợi ích của cái người đệ tử của
mình để quy y.
Cho
nên cái sự quy y thầy nói thật sự, quy y thường thường nếu mà để tỏ ra mà dẫn
dắt người đệ tử không có được quy y đông, nghĩa là chỉ trong vòng 2 người hoặc
3 người thì nghiêm chỉnh, ở trong cái giờ phút ấy nó rất là nghiêm chỉnh để làm
cho cái người đó người ta thọ được tam quy, người ta thanh tịnh. Còn mình thọ
một lần 10 người hay 100 người hay 1000 người điều đó là chỉ gieo cái nhân Phật
pháp với họ chứ không có nghiêm túc, không có thanh tịnh, không có đắc được cái
Tam quy.
Bởi
vì cái giới đầu tiên là Tam quy, mà Tam quy mà thọ kiểu đó thì kể như là nó chỉ
là cái nhân cho tốt cho người đó chứ sau này không có người nào mà đắc Tam quy
hết. Cho nên bây giờ chúng ta nhìn thấy Phật giáo thì đó là tình trạng bây giờ
thì ai cũng biết chứ không phải là riêng Thầy nói đây mà quý thầy không có chứng
nghiệm được điều đó.
Trong
Phật giáo hiện giờ có những bậc thầy thống kê số đệ tử quy y của mình, họ lấy
đó làm hãnh diện với một số tín đồ đông đảo. Nghĩa là có người họ thống kê lại
à bây giờ họ được mười ngàn, hai chục ngàn, ba chục ngàn, hay một triệu tín đồ,
họ thấy đó là cách hãnh diện nhất của họ. Chứ còn họ không biết là cái số đệ tử
đó nó có được giải thoát hay là không được giải thoát, nó có nằm được trong cái
thiện pháp hay là không thiện pháp thì họ chẳng cần, nhưng mà họ chỉ nhắm vào
cái số đông đó. Cho nên có những vị thầy họ đem sổ ra họ thống kê lại xem cái
số đệ tử quy y của mình được bao nhiêu. Thứ nhất là họ thống kê như vậy để khoe
khoang cho mọi người biết rằng mình có số đệ tử đông như vậy. Những sự đông đảo
ấy nhìn lại không có chất lượng là đệ tử của Phật.
Thọ
Tam quy chẳng phải chỉ là vấn đề trên hình thức mà còn là một vấn đề nội tâm
giúp cho người đó nhớ mãi không quên những pháp thiện, những hình ảnh thiện.
Bởi vì Phật, Pháp, Tăng là cái pháp thiện, mà những hình ảnh của Phật Pháp Tăng
là những hình ảnh thiện, cho nên cái hình ảnh đó nó ghi khắc mãi ở trong tâm
chúng ta khi mà chúng ta thọ với một bậc thầy mà thanh tịnh giới luật, thì họ
chỉ cách cho chúng ta thọ nó rất đúng cách. Nó làm cho cái ngày giờ mà chúng ta
thọ nó thiêng liêng vô cùng chứ không phải là đơn giản, họ tạo ra cái cảnh giới
làm cho chúng ta nhớ mãi không quên cái ngày mà chúng ta đến với đạo
Phật, đến với ba ngôi Tam Bảo đó. Ngày thọ Tam quy là ngày có tính chất trang
nghiêm và trọng yếu với một vị thầy giới hạnh nghiêm chỉnh, thiền đức sâu màu,
lực tuệ cao siêu thì vẻ trang nghiêm và trọng yếu càng tăng lên gấp bội. Nghĩa
là có một bậc thầy mà nó thanh tịnh giới luật, mà nó có thiền định sâu màu và
trí tuệ siêu việt thì cái buổi lễ mà thọ Tam quy đó, nó làm cho cái người đệ tử
nó tăng lên gấp bội cái sự trọng yếu, cái sự trang nghiêm đó lên gấp bội trong
tâm hồn của họ. Điều này khiến cho cái người thọ Tam quy khó quên, đã từng ghi
nhớ mãi trong óc mọi hình ảnh hành động từ bi vô lượng của Phật, Pháp, Tăng thể
hiện trong ngày hôm đó.
Còn
bây giờ chúng ta quy y rồi chúng ta chẳng thấy như là một cái buổi lễ thường
thường, rồi một buổi họp để mà vui chơi chứ chẳng có cái nghĩa lý gì trong cái
ngày thọ Tam quy của chúng ta hết. Đó là thọ ba cái giới đầu tiên mà chúng ta
thấy một cái người mà bước vào đạo Phật, bước vào cổng của đạo Phật đó thì tức
là phải thọ Tam quy.
Vậy
thọ Tam quy là gì?
Từ
trên chữ giải thích thì thọ là hưởng, chịu lấy, chấp nhận; tam là ba; quy là
quay đầu quay về, thọ Tam quy là chấp nhận trở về ba nơi. Đây là nói tắt, nói
cho đầy đủ nghĩa là thọ Quy y Tam Bảo, thọ Quy y Tam Bảo là trở về chấp nhận
nương tựa ba nơi quý báu. Nói cho dễ hiểu hơn là trở về chấp nhận nương tựa ba
nơi thiện pháp cao quý. Nói một cách khác nữa quyết tâm tu tập ba thiện pháp
cao quý. Nói một cách khác nữa quyết tâm sống đúng ba giới hạnh tuyệt đỉnh. Đó
thì mình nói cho hết cái nghĩa của nó để mà khi chúng ta phải thông suốt được
cái thọ tam quy nó như thế nào, vì vậy cho nên ở đây vạch hết tất cả những cái
này, khi mà một cái người quyết tâm đến với Phật thì phải tu tập ba thiện pháp
đó. Rồi phải sống đúng ba cái giới hạnh tuyệt đỉnh đó, rồi phải chấp nhận nơi
thiện pháp đó. Đó là tất cả những cái mà chúng ta muốn, về đó là chúng ta phải
chấp nhận như vậy, phải lấy cái đó mà trau dồi thân tâm của mình nữa, cho nên
nói một cách dễ hiểu để chúng ta hiểu khi trở về đó, không phải lài trở về đó
Phật độ mình hoặc mình có tai nạn gì đó ông xuống ông rước mình, không phải
vậy. Mà chính mình phải trau dồi thân tâm của mình để cái gương hạnh Phật,
Pháp, Tăng đó nó là một cái nơi để chúng ta thấy được, để mà trau luyện cho
mình được như những bậc đó, những pháp đó.
Đó
là cái chỗ mà chúng ta tự cứu mình chứ không phải mình quy y Tam Bảo rồi từng
đó mình có tai nạn, bệnh tật thì Tam Bảo gia hộ mình. Theo cái kiểu mà bây giờ
quý thầy hiểu là tôi làm Phật sự thì Tam Bảo cũng gia hộ tôi, sự thật Tam Bảo
chỉ là pháp thiện thôi chứ đâu có cái gì mà gia hộ mình, mà người ta cứ nghĩ
tưởng đó là những cái thần linh, những cái ông thần cho nên cứ phù hộ mình, cho
nên cứ hở hở ra là nói tôi làm cái chuyện Phật pháp đây là Tam Bảo gia hộ tôi,
sự thật là làm sao mà có sự gia hộ được. Phật giáo đâu có dạy cái vấn đề đó
được, nhưng mà người ta nghĩ qua một cái thần giáo rồi cho nên nó có cái quyền
năng ở đó để gia hộ mình. Sự thật ra mình làm bậy thì mình chịu, mình làm đúng
thì mình hưởng tức là nhân quả nó rõ ràng.
Cho
nên Phật giáo xây dựng cái đạo Phật nó ở trên cái nhân quả, nó cụ thể và rõ
ràng như vậy cho nên từ cái bước đầu mà ba ngôi Tam Bảo đều là thể hiện qua cái
thiện pháp chứ đâu phải là gì khác hơn, ba cái thiện pháp ở đây đầu tiên, tức
là ba cái giới thiện đầy tiên mà chúng ta hướng về, và nó là ba cái giới đầu
tiên, tức là ba cái pháp đầu tiên mà chúng ta hướng về chứ đâu phải là ba cái
ông thần. Mà người ta nghĩ rằng ba ngôi Tam Bảo là ba ông thần. Ông thần thứ
nhất là ông thần Phật, ông thần thứ hai là ông thần Pháp, ông thần thứ ba là
ông thần Tăng, cho nên là ba ông thần đó mà ngồi trên cái bàn đó rồi phù hộ
chúng ta khi mà chúng ta nương vào đó, cũng như là các tôn giáo khác vậy, có
ông thần phù hộ đó. Cho nên Phật giáo nó biến thành thần giáo mất đi, mà Phật
giáo là ba ngôi này nó là ba cái pháp, ba cái pháp thiện, từ đó Phật là một cái
pháp thiện để chúng ta nương vào đó để chúng ta sửa mình lại trong cái pháp
thiện mà từ đó chúng ta cứu mình ra khỏi nhân quả. Bởi vì nhân quả nó có thiện
ác, mà thiện thì nó đem đến phước báu cho chúng ta, mà ác thì chúng ta thọ
những cái quả khổ.
Ở
đây thọ Quy y Tam Bảo cũng còn nói tắt, nói cho đủ là thọ Quy y Phật, Pháp,
Tăng, nghĩa là mình nói thọ Quy y Tam Bảo là mình còn nói tắt đó. Mình nói cho
đúng là thọ quy y Phật, Pháp, Tăng, tức là mình nương vào ba cái pháp, ba cái
pháp thiện này.
Phật, Pháp, Tăng là gì?
- Phật tức là chỉ đức Phật là một con người
như chúng ta mà đã sống được với thiện pháp siêu việt, làm gương hạnh sống toàn
thiện, chân thiện.
- Pháp là lời dạy của đức Phật, lời dạy toàn
thiện, thánh thiện, chân thiện.
- Tăng là những đệ tử của đức Phật, đều là
những con người bằng xương bằng thịt như chúng ta theo Phật tu hành sống đúng
toàn thiện, chân thiện.
Gồm
lại những chữ này giải thích thọ quy y Phật, Pháp, Tăng là quay về nương tựa
đức Phật, vâng theo lời dạy của Ngài và theo gương hạnh các bậc Thánh tăng tu
tập. Đó thì như vậy là chúng ta lấy ba cái gương hạnh của ba ngôi Tam Bảo này
mà chúng ta tu tập chứ không phải là nhờ ba ngôi Tam Bảo này gia hộ cho chúng
ta.
Ở
đây quý thầy phải hiểu Phật, Pháp, Tăng là ba giới luật sống động vì thế Phật
còn sống tại tiền thì tất chúng Tỳ Kheo đều nương vào Phật tu tập, Phật dạy sao
họ tu tập như vậy không có tu tập sai. Cuộc sống của Phật là cuộc sống của giới
luật nghiêm chỉnh không sai phạm một lỗi nhỏ gì. Phật đã chế ra Giới Luật được
nói lên gương hạnh sống giải thoát của ngài, qua hành động sống của Phật cho
nên phải thấy Giới Luật là một điều quan trọng trong việc hành trì theo đạo
Phật. Vì thế đức Phật phải quan tâm đến Giới Luật, cho nên Ngài phải chế giới
nhiều lần để cho phù hợp với không gian và thời gian, có thời điểm và thời đại
nào cũng phù hợp và thích nghi được.
Nghĩa
là Ngài rất là quan trọng về Giới Luật chứ không phải là ngài chế giới cái
chuyện mà không có quan tâm đến nó. Ngài không có nông nổi mà đặt ra giới đại
đâu mà Ngài phải đắn đo suy nghĩ rồi mới chế ra cái giới và khi chế ra giới rồi
Ngài còn sửa đi sửa lại nhiều lần để cho nó phù hợp, để cho cái không gian và
thời gian nó không có bị không thích hợp; và cái thời đại diễn biến từ cái thời
Ngài cho đến về sau, lúc nào nó cũng thích nghi được với cái giới luật đó mà
không có cần sửa tới, sửa lui.
Ngài quan tâm và hoàn chỉnh giới luật trước khi ngài nhập diệt,
Ngài biết rằng khi ngài nhập diệt không có một vị Thánh tăng nào đệ tử của ngài
đủ tư cách làm thầy cho các vị Tỳ Kheo sau này. Từ lâu Ngài phải có ý định ai
là người thay Ngài để dẫn dắt những người tu sau này chứ không phải lúc gần
chết Ngài nông nổi di chúc Giới Luật là thầy cho chúng ta như vậy. Nghĩa là
Ngài đã nghĩ rằng Giới Luật là thầy của chúng ta, nó hội đủ ba cái oai lực, đại
oai lực, đại thần lực và đại minh lực, thì nó phải đủ ba cái lực như vậy thì nó
mới xứng đáng làm thầy. Mà Giới Luật của Phật thì nó đủ ba cái oai lực đó, cho
nên nó mới xứng đáng làm thầy của người sau và nó không bao giờ có một sự thay
đổi nào được hết vì nó phải tròn đủ, chứ nó không thể thiếu mà nó cũng không
thể thừa. Chúng ta nên xét một người như Đức Phật không thể nông nổi, bộp chộp,
mà phải có sự đắn đo kỹ lưỡng, nhất là người cầm vận mệnh của tiền đồ Phật giáo
sau này, mà đặt sai thì quý thầy nghĩ sao, một công trình 49 năm khai sáng Phật
giáo, đem lại một cuộc sống(BBT:CĐ,24B,E00:45:50)
an lành cho loài người trên quả đất này. Ngài lại không thấy trước sự thịnh suy
của Phật giáo hay sao?(BBT:BN,23,E00:35:03)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét