BĂNG SỐ 51
Con cũng quan sát từ
tóc đến mắt, tai, mũi, miệng, lưỡi, cổ, họng, tim, gan, bao tử, thận, mật, ruột
già, ruột non. Đều quan sát như trên, đều là vô thường, các pháp hoại diệt cho
đến tham, sân, si cũng từ nơi sắc thân vô thường mà có.
Ở đây, con về cái sự
mà quán này, thì con hơi có cái sự lộn xộn, nghĩa là bây giờ các con phải quán
như thế nào để đúng. Bây giờ mình quán từ cái tóc, mắt, tai, mũi, miệng, thân,
ý của mình từ trên xuống đến chân và từ chân trở lên trên. Tức là mình quán nó
bất tịnh hoặc là mình quán nó vô thường, phân biệt cho nó rõ ràng. Nếu là mình
quán nó vô thường, thì tức là mình quán bây giờ như tóc của mình, mình phải
quán từng phần. Tóc bây giờ còn nhỏ thì tóc nó đen nó vô thường, bây giờ nó bạc
là nó vô thường, nó thay đổi. Phải không? Hồi nhỏ thì tóc nó dài, nó rậm, bây
giờ nó thưa, cái đầu gần sói hết, tóc rụng gần hết. Cho nên đó là nó vô thường,
quán vô thường từng phần, con nói nó vô thường mà con không có nói ra được cái
vô thường của nó, cái thay đổi của nó thì nó không có thấu rõ được cái vô
thường. Nói con mắt của mình là vô thường thì con phải quán nó, trước là con
mắt hồi còn nhỏ thì sáng suốt, nó không có mờ, bây giờ thì con mắt nó mờ. Hồi
nhỏ thì đó đen, bóng, mà bây giờ thì nó trắng bạc, nó vàng đi nó không còn như
trước. Do cái sự trắng bạc, vàng đi đó là cái sự vô thường. Nếu mà con nói như
vậy là không phải...
(câu hỏi của
tu sĩ).
À không phải, Thầy
muốn nói đây để cho con quán từng phần. Từ cái tóc như thế nào là vô thường, từ
cái mũi, cái tai, cái lưỡi của mình vô thường như thế nào? Từ cái cổ, cái họng
như thế nào là vô thường? Tim, gan, phèo, phổi, mật, ruột già, ruột non, như
thế nào là vô thường? Do đó con phải quán. Như vậy, tức là đặt ra cái niệm rồi
con phải suy xét nó, con sẽ tìm thấy vô thường.
Còn nếu mà con quán
nó là bất tịnh, thì nó hôi nó thối như thế nào, thế nào thì nó lại cái phần
khác nữa. Cho nên ở đâu nó ra cái phần nấy cho nó rõ ràng. Ở đây Thầy chỉ hướng
dẫn thêm để cho thấy các pháp mà nó là vô thường thì phải thấy cho rõ cái sự vô
thường của nó. Chứ mình dùng cái chữ vô thường mà mình không thấy từ cái tóc nó
bạc, từ cái tóc nó đen nhánh cho đến nó bạc. Thì như vậy mình chỉ nói cái vô
thường là cái vay mượn mà không thấy thật của vô thường của nó, sự thay đổi
của nó.
Chỉ
vì vô minh mà không cảm nhận lấy sự thương ghét, hơn thua, ham muốn, ở
đây con nói luôn cả tham sân si. À, cho nên ở đây không phải, về cái phần
mà tham sân si thì nó không phải là cái xác thân của con mà
nó là các pháp.Muốn được như vậy thì tức là phải quán
cái phần mà tâm của mình tham sân si mạn nghi, tức là ngũ triền cái.
Chỉ
vì vô minh mà cảm nhận lấy sự thương ghét, ở đây con nói thuộc về cái
tâm. Quán cái thân thì mình quán cho rõ. Cho nên phân biệt nó rõ phần
nào thì cho nó rõ ra phần nấy, quán về tâm là tâm mà quán về thân
là thân, quán về xác thân của mình. Quán về tâm tức là quán về thọ, quán về tưởng, quán về
hành, quán về thức.
À cái phần nào con
phải quán, quán như vậy về cái định vô lậu thì cái phần nào nó ra
cái phần nấy để chúng ta phá sạch các lậu hoặc. Con nhớ kỹ cho rõ
ràng. Nhưng cuối cùng là ảo giác giả tạo, con đặt niệm trước mặt
là thọ vô thường, con gọi 6 căn bám vào niệm thọ vô thường trước mắt
đừng để thất niệm.
Ở đây thì theo
Thầy thấy con gọi 6 cái căn mà bám chặt vào một cái tụ điểm, để cho
nó nằm yên ở trên cái tụ điểm đó mà nó không hướng ra 6 trần, nó
không dính mắc 6 trần. Còn bây giờ con quán 6 căn này như là mắt tai
mũi miệng hồi nãy đó, là con thấy cái sự thay đổi vô thường của nó.
Như mắt hồi nhỏ thì xanh, lớn lên thì vàng và bạc, mờ không thấy rõ
nữa, thì đó là vô thường của nó.
Còn về cái phần
mà con nói ở đây là bảo cho nó bám chặt vào cái niệm thọ, niệm
thọ nếu nó bám chặt vào niệm thọ sao được. Bởi vì luôn luôn, thí
dụ như cái ý thức mà nó bám vào cái thọ, thì cái thọ là cái thân
của con, cái chỗ nào đau nhức nó mới sanh ra cái thọ nó câu hữu với
cái sắc, nó làm cho con khổ sở như cái đầu nhức, thì bây giờ con
bảo nó bám vào cái đầu để con biết nó nhức thì nó nhức chết còn
gì. Cho nên cái này không có được, mà bảo 6 căn phải bám vào cái tụ
điểm, đừng có bám vào cái chỗ đau nhức của cái xác thân của con, ngay
chỗ đó nó sẽ không còn đau nữa. Thì như vậy, con sẽ phá đi cái thọ
của con, không còn làm cho con đau đớn trước cái thọ và cái niệm đó
luôn luôn, 6 cái thức của con, 6 cái căn của con nó nằm chặt ở trên
chỗ cái niệm, nó làm cho cái tâm con không duyên qua cái thọ, nó không
còn làm cho con khổ nữa.
Con quan sát từng
phần, con ngồi một giờ tu Định vô lậu, trong đầu óc không có một
niệm gì xen vào, rất sáng suốt. Không phải, cái chỗ này con lộn. Khi
mà con tu cái Định vô lậu thì luôn luôn có một tri kiến giải thoát,
hoàn toàn nó theo những cái niệm mà của con đã đặt trước mắt nó, nó
thấy từ cái niệm này đến cái niệm kia, nó vô thường như thế nào
của cái thân của con, thì như vậy trong đầu óc của con không thể nào
mà không có niệm, nó phải có một cái sự suy tư đó, nó có dòng tư
tưởng liên tục, chứ không thể nào mà con như thế này.
Con quan sát từng
phần, con ngồi một giờ tu định vô lậu, trong đầu óc không có một niệm
gì xem vô, không được. Có nghĩa là bây giờ, ở đây con nói con không có
cái niệm khác xen vô, bởi vì khi mà con dùng cái trí tuệ con nó quan
sát thì cái niệm đó là cái động của tâm con rồi, chứ không phải ở
trong cái đầu óc của con là cái tịnh, con hiểu không? Bây giờ cái tịnh
nó trống rỗng, nó không có cái niệm, cho nên vì vậy nó không có xen
vô. Ở đây đọc thì người ta hiểu rằng, trong cái đầu của con lúc bấy
giờ, con đang quan sát cái thân của con là vô thường, thì tức là cái
dòng tư tưởng, cái tri kiến giải thoát của con nó thuộc cái dòng,
nó đi theo các pháp nó vô thường, phải không. Cho nên cái niệm khác
không thể xen vô được, không có niệm gì xen vô được thì nó đúng. Nhưng
mà đây là một cái dòng của tư tưởng thì nó có cái niệm nào khác hơn
thì cái niệm này. Đó là cái thứ nhất, cái sai thứ nhất của con.
Nếu mà cái đầu
óc của con bây giờ nó hoàn toàn nó không có niệm thì bây giờ nói không
có niệm nó xen vô thì mới được, thì nó đúng. Còn cái rất sáng
suốt và tỉnh thức, nó bây giờ nó đi theo một cái dòng tư tưởng của
nó để quan sát cái thân của nó là vô thường thì nó đi theo cái dòng
của nó không có còn một cái niệm gì mà làm cho nó quên cái đó
được. Đó là cái phép quán, cái thiền quán, nó làm cho con phá đi
cái thân vô thường mà không dính mắc, chớ không phải con khéo lầm ở
chỗ này, là vì cái đầu óc nó rỗng rang, nó không có một cái niệm
gì xen vô mà đây nó đang có cái niệm, cho nên làm sao có cái niệm xen
vô được. Hãy phân biệt ở chỗ này.
(tu sinh hỏi Thầy)
Không phải, con
phải phân biệt như thế này, khi mà có một cái niệm mà cái niệm của
mình đưa ra một cái dòng tư tưởng niệm, thì không có cái niệm nào xen
vô được, phải không? Cho nên nó không niệm. Còn bây giờ trong cái đầu
óc chúng ta ngồi đây mà giữ cái tâm nó không có một cái niệm nào
hết, hoàn toàn nó thanh thản, hoàn toàn nó không có niệm thì đây là
nó ở trong nhất niệm, nó hoàn toàn ở trong cái tâm thanh tịnh không có
niệm, nó vô niệm. Thì bây giờ cái niệm gì không xen vô thì chúng ta
biết là chúng ta đang ở trong một cái nhất niệm thanh tịnh của tâm. Cho
nên không có cái niệm nào xen vô, mà cái niệm nào xen vô đó thì gọi
là cái vọng tưởng. Còn bây giờ trong tâm của chúng ta đang có một
cái niệm, chớ không phải là cái tâm, nó niệm từ cái tóc tai mắt
mũi miệng nó, nó suy tư ra, cho nên lúc bây giờ không thể nào mà có
một cái niệm khác xen vô, nghĩa là không làm sao…, vì đó là cái niệm
rồi, mà cái niệm khác không thể được, không có cái niệm nữa. Còn
cái này là nó vô niệm, cho nên vì vậy mà cái niệm khác dễ xen vô. Con
phân biệt rõ không?
Cái
niệm mà bây giờ nó đang có cái niệm thì nó sẽ không có cái niệm
thứ hai nữa được. Cũng như đức Phật ví dụ “Một
bậc A La Hán chỉ ra đời, chỉ có một bậc A La Hán, không thể đồng
thời có hai bậc A La Hán được”. Thì chúng ta nói rằng
trong đầu chúng ta có một cái niệm thì không thể có một cái niệm
khác được, trừ ra trong đầu chúng ta không có niệm thì nó mới có xen
vô cái niệm khác, hiểu vậy chưa? Còn bây giờ nó có niệm thì không thể nào có cái niệm
khác được vì trong đầu chúng ta luôn luôn lúc nào nó có cái niệm, mà
cái niệm đó là chúng ta điều khiển, chủ động cái niệm đó nó khởi
ra, chứ không phải để cho nó tự động nó khởi ra. Vì nó tự động nó khởi ra, đó là cái niệm vọng tưởng. Còn bây giờ mình điều khiển cái niệm đó, vì vậy cái
niệm đó gọi là thiền quán hoặc là Định niệm vô lậu. Chúng
ta dùng cái niệm để quan sát, để thấu suốt cái lý lậu hoặc để mà
chúng ta dẹp cái lậu hoặc đi, đó là cái niệm, cho nên khi đã có cái
niệm thì không còn cái niệm thứ hai được nữa. Các con hiểu không?
Cho nên trong đầu
óc của chúng ta, khi nào mà nó không có niệm thì mới gọi là có cái
niệm khác xen vô hoặc là không có niệm khác xen vô. Còn bây giờ nó
đã có niệm thì không thể nào có cái niệm thứ hai nữa, cho nên không
thể nào nói có cái niệm thứ hai mà xen vô được.
Thì tự thấy được
toàn thân là vô thường, đó là cái niệm quán xét vô thường, cho nên
mới thấy nó toàn là vô thường. Từ dòng máu lưu thông toàn cơ thể
đều là vô thường, nó hằng sanh diệt, hằng diễn biến, hằng thay đổi
không ngưng nghỉ, thấy từ cọng tóc, từ lỗ chân lông, từ các tế bào,
thớ thịt đều sanh diệt vô thường. Nhưng ở đây con dùng một cái số
từ, cái số từ để chỉ cho sự vô thường, chứ chưa phải chỉ cái hành
tướng, cái trạng thái vô thường của các pháp của thân con. Cho nên con
chỉ suông suông cũng như là một người mà biết cái lý mà không có
cái hình tướng để thấy sự vô thường.
Thầy muốn nói,
mình muốn nói lên cái danh từ đó để chỉ thấy sự vô thường cho nó rõ
ràng, thì bây giờ cái dòng máu ở trong thân của chúng ta vô thường,
lúc thì đỏ, lúc thì đen, đó là sự thay đổi vô thường; lúc thì
nhiều lúc thì ít, đó là sự vô thường. Cho nên khi mà nó nhiều thì
nó lại căng đầu chúng ta lên, khi mà nó ít nó làm chúng ta giảm xuống
như thế này thế khác, thì đó gọi là vô thường. Còn nói về cái sự
vô thường của cái tóc của chúng ta thì đen, trắng thì đó là sự vô
thường. Những cái hình ảnh mà trạng thái nó thay đổi, còn con nói
cái danh từ không “nó là vô thường” thế này thế khác mà không diễn
tả được cái trạng thái vô thường, cho nên nó không thấm được cái lý,
con hiểu chưa?
Cho
nên, kh, ông phảiThầy muốn nói đây, thà là con nói ít, bây giờ con chỉ
quan sát cái tóc con vô thường thì con nhớ hồi nhỏ, tóc mình dài và
đen mượt, rất là đẹp, bây giờ già rồi, bạc trắng rồi mà thưa mà
rụng. Đây là tóc vô thường. Bấy nhiêu đủ để thấy chúng ta nó vô
thường mà nó rõ nét phải không? Còn bây giờ mình nói vô thường mà
mình không diễn tả được cái sự trạng thái vô thường của nó thì
mình không thấm sâu được cái vô thường đó, cho nên mình nói suông, rồi
đây rồi nó sẽ không thấy vô thường, phải không các con? Dùng cái danh
từ nói vô thường thì cũng như Thầy nói bây giờ thân của tôi làvô thường, khổ, không, vô ngã.Nhưng mà tôi nói
danh từ như vậy, nhưng mà tôi chưa biết nó vô thường. Nhưng mà tui nói
cái thân tôi vô thường, tôi nhớ lại hồi nhỏ của tôi, lúc mà tôi 20 -
25 tuổi thì sức tôi khỏe, tôi có thể làm nó không biết mệt, thuyết
giảng nó không mệt. Còn bây giờ tôi đã 60 tuổi, gần 70 tuổi, nói
trong một cái thời pháp như thế này, tôi thở hết muốn ra hơi, do đó
tôi thấy cái thân tôi nó kém rồi, do đó tôi biết nó là vô thường.
Hồi nhỏ thì mặt tôi nó thẳng, nó không có da nhăn, nó không có cái
xấu xí, những cái trên mặt của tôi. Còn bây giờ thì già, da nhăn rồi
răng rụng thế này kia thì đó là cái sự vô thường của thân tôi. Con
hiểu cái đó. Quán vô thường là phải quán như vậy để cho mình thấy
thật vô thường để cuối cùng mình mới không có chấp cái thân của mình
là cái ngã của mình nữa. Mình thấy nó là vật vô thường, nó làm
cho mình rất khổ và mỗi lần vô thường vậy nó xảy ra như thế nào? Từ
nhỏ, từ cái sức khỏe tôi dần dần mất đi, nó trải qua bao nhiêu lần
bệnh đau. Mỗi lần bệnh đau vậy nó làm cho thân của chúng tôi kém cái
sức khỏe xuống dần dần. Cho đến bây giờ nhiều lần đau, mà cho đến bây
giờ tôi thấy sức khỏe tôi gần như là kiệt quệ, làm cái gì nặng tôi
thở quá nhiều. Đó là sự vô thường của thân tôi.
Đó con thấy không,
mình cũng quán vô thường mà quán đúng cách thì nó thấm được cái
lý, mà thấm được cái lý cho nên mình không chấp cái thân mình là ngã
nữa, mình chấp cái thân là của mình nữa. Ở đây là có những cái phần
mà có thể rằng con phải thấu suốt để không khéo mình dùng một cái danh
từ, mình chỉ nó vô thường, nó thế này kia để mình nhai đi nhai lại vô
thường mà trở thành mình không thấy được cái tướng vô thường của
nó. Đó, thấy đúng như thật là vô thường, cho nên cái đau nhức khó
chịu biến mất, xả ra có sự an lạc. Đó, bây giờ con ngồi thiền thì
con thấy đau, xả ra thì an lạc thì con quán cái thọ vô thường, con
đặt cái niệm thọ. Cho nên dưới đây, con nói chung chung là từ sắc,
thọ, tưởng, hành, thức, con gộp chung ở chỗ này con nói chung,
chứ lẽ ra con viết bài này con phải nói: à bây giờ con quán cái
sắc, từ cái sắc đó con phải quán từ tóc, tai, mũi, miệng. Cũng như
cái bài kệ của vị ni mà người ta quán tóc của mình, rồi tới cái
mặt cái mũi của mình lần lượt người ta quán như vậy, để mà thấy
được cái tướng vô thường của nó. Đó là Thầy có nêu lên những cái
gương hạnh của những người mà tu cái Định vô lậu đó, quán vô thường.
Hỏi: Thấy
đúng như thật là vô thường, cho nên cái đau nhức khó chịu biến mất,
xả ra có sự an lạc. Thưa Thầy nhận thấy như vậy có phải là tri kiến
giải thoát hay không?
Đáp: Chưa đúng đâu.
Tri kiến giải thoát nó lột sạch ra tất cả những cái gì gọi là vô
thường, nó thấu suốt rất là thấu suốt, cho nên từ đó nó nhìn cái
thân của nó nó ghê gớm lắm, hễ nhìn bất tịnh là nó ghê gớm vô cùng,
mà nhìn tất cả những sự thay đổi của cái thân, nó thấy được cái
đường đi nước bước của nhân quả chi phối từng phút giây rất rõ ràng.
Vì lúc bấy giờ, cái người mà quán được cái Vô lậu, thấy được cái thân
vô thường thì người ta thấy được đường đi của Nhân quả, thấy rất rõ
ràng. Do vì cái sự quán xét mà thấu suốt như vậy đó, nó làm cho
trí tuệ giải thoát của chúng ta, còn ở đây con quán như vậy chỉ là
một cái số từ để mà nói lên cái sự vô thường của nó, thế nhưng mà
sự thật không thấy cái hình ảnh vô thường.
Thầy muốn nhắc ở
đây là nhắc chung cho các con, lấy cái bài của cô Minh Cảnh để làm
chung cho cái bài học của các con để tu cái định Vô lậu, làm chúng ta
diệt sạch các lậu hoặc của chúng ta.
Hỏi: Con
vẫn tiếp tục tu Định Vô lậu, cho đến khi chứng đạt được tâm bất động
mới thôi hay sao, kính mong Thầy chỉ dạy thêm và tiếp tục?
Đáp: À, bây giờ con
tu cái Định Vô lậu này, con thấy là nó đã vô lậu thì như thế nào?
Tức là ly dục, ly bất thiện pháp. Con thấy tới bữa ăn con không thích
ăn đâu, con không thèm cái món ăn nào nữa hết. Con thấy là con ly được
cái tâm ham muốn ăn rồi, con thấy mọi vật xung quanh con, thậm chí như
cái lời dạy trong băng của Thầy con cũng không ham thích nữa, con chỉ
còn biết tu biết giải thoát mà thôi. Hiểu được cái gì làm cái nấy
chứ không muốn nghe nữa, bởi vì nghe nhiều khi nó còn gợi cho chúng ta
những lời ham thích ở đó, nó còn chưa ly được dục đâu. Cho nên ở đây
Thầy nói là một lẽ, lời Thầy dạy thì các con đúng cái pháp nhưng
mà khi mà cái người tu cái Định Vô lậu rồi, họ không còn thích nghe
gì hết, họ chỉ muốn âm thầm sống trong trầm lặng để giải thoát tâm
hồn của họ, chứ họ không bao giờ họ mà có thể còn nghe, thích nghe băng
nghe này nghe kia hoặc là còn thích pháp này, pháp kia. Họ biết cái
gì tu được, cái gì không tu được là họ nỗ lực cái đó họ tu chứ họ
không thích nữa. Hoàn toàn họ buông xuống hết, họ không còn một vật
gì, hoàn toàn chỉ con hai bàn tay trắng mà thôi.
Đó
thì như vậy là cái Định Vô lậu đã sạch mà cái định vô lậu giúp để
chúng ta ly dục, ly ác pháp để chúng ta nhập được Sơ thiền. Cái Định
Vô lậu tu để chúng ta nhập được Sơ thiền vàtừ cái chỗ Sơ thiền đó mà chúng ta tiến vào để chúng ta
nương vào hơi thở để chúng ta đi tới cái chỗ mà chúng ta nhập Tứ thiền,
làm chủ được cái sự sống chết của chúng ta. Đó như
vậy là mới xong. Còn bây giờ chúng ta còn thấy dính mắc một chút nào đó,
tối mà chúng ta nằm ngủ, chúng ta còn thấy chưa tỉnh thức thì tức là
Vô lậu chúng ta chưa hết. Tại sao vậy? Tại vì nằm ngủ, cái
thân ngủ mà cái tâm chúng ta luôn luôn biết hơi thở thì tức là tỉnh
thức trong hơi thở. Vì vậy mà cái người tu thiền mà theo đạo Phật mà
tâm ly dục ly ác pháp rồi, thì họ rất tỉnh thức, họ rất tỉnh thức
thì họ không ham ngủ, họ không ham ngủ thì không bao giờ có chiêm bao
mà không bao giờ mệt nhọc. Còn bây giờ chúng ta không ngủ một đêm là
chúng ta đã mệt nhọc, đã muốn bệnh rồi thì như vậy là chúng ta chưa
tỉnh thức. Do mà tu cái Định Vô lậu này thì nó chứng minh cho cái
sự mà đạt, thành. Mà hết tu cái Vô lậu thì lúc bấy giờ chúng ta
hoàn toàn là phải ly dục ly ác pháp, hoàn toàn là phải không có
mộng mị, chiêm bao, phải thức tỉnh suốt trong đêm trong ngày, ngủ mà
như không ngủ. Đó như vậy là cái Định Vô lậu chúng ta đã đạt được.
Hỏi: Con
tu Định Vô lậu trước để quét sạch cái đau nhức, khó chịu rồi sau đó
con mới tu định niệm hơi thở có chất lượng?
Đáp:
Đúng vậy, cái Định Vô Lậu, nó vừa phá cái thọ, nó quét sạch cái thọ làm cho cái
tâm của con trước cái thọ đau khổ mà nó không dao động, không có
nghĩa là cái Định Vô Lậu nó làm cho con hết đau khổ, nó vẫn đau khổ
nhưng tâm của con không dao động trước đau khổ của cái thọ.Con
hiểu chưa? Không phải cái Định Vô Lậu nó làm cho con như một liều
thuốc tê mà chấm dứt cái sự đau khổ, nó không phải làm cho con hết
đau khổ, nó có đau khổ nhưng vì tâm của con Vô lậu, cho nên trước cái
Thọ đau khổ đó, con không có dao động tâm con, con không sợ hãi, mặc
nó đau là nó đau, kệ nó, con chỉ biết giữ cái tâm con nằm chặt ở
trên một cái tụ điểm, nằm chặt ở trên một cái đối tượng của 6 cái
thức mà thôi. Đó là nó đau là mặc đau.
Rồi sau đó con
mới tu Định niệm hơi thở, tu Định niệm hơi thở mới đầu vô con tu hơi
thở bình thường khoảng 5 phút, bắt đầu hướng tâm thở hơi thở chậm
nhẹ, 6 căn bám nhẹ vào tụ điểm và từ từ vận dụng hơi thở chậm nhẹ
hơn nữa. Có hơi thở nhẹ và chậm như không thấy hơi thở mà vẫn vận
dụng 6 căn bám chặt tụ điểm, tai con còn nghe âm thanh quá rõ, cho nên
con gọi nhĩ thức câu hữu với thân thức bám chặt tụ điểm thì bắt đầu
nhĩ thức mới bám vào tụ điểm.
Thưa Thầy hiện
giờ con nên phá âm thanh trước rồi sau mới tịnh chỉ hơi thở sau, hay
là hướng tâm tác ý đồng một lượt mà phá âm thanh và tịnh chỉ hơi
thở?
Đáp: Không phải.
Bây giờ con không nên phá hơi thở mà nương hơi thở, nằm ở trên hơi thở
chậm và nhẹ rồi bắt đầu mới phá âm thanh trên hơi thở đó, rồi sau
đó mới tịnh chỉ hơi thở để mà phá thọ. Nghĩa là phá thọ sau khi
phá âm thanh. Đó thì nương vào cái hơi thở để mà tịnh chỉ hơi thở
cho ngưng nghỉ để nhập tứ thiền, thì đó là phá thọ. Còn bây giờ
nằm ở trên cái hơi thở, thở biết hơi thở ra, hơi thở vô, nhưng luôn luôn
lúc nào cũng kêu gọi cái nhĩ thức phải tập trung, phải nằm chặt ở
trên tụ điểm và luôn luôn lúc nào cũng không được nghe âm thanh bên
ngoài. Phải nghe cái hơi thở, phải nghe cái tụ điểm, không được nghe
ra ngoài. Thì dùng cái pháp hướng mà nhắc như vậy thì cái nhĩ thức
nó mới bám chặt trên cái tụ điểm, nó mới không nghe ra ngoài, từ đó
con mới phá được âm thanh, còn không khéo thì con cứ nghe âm thanh mà
âm thanh thì nó dễ lôi cuốn cái thọ, nó câu hữu với cái thọ, nó làm
cho cái thọ tác động cái thân, làm cho cái thân bị thọ, mà cái thân
mà bị thọ rồi thì cái thân nó tác động cái ý thức và cái ý thức
nó bị chao động, cái tâm của con nó chao động theo cái thọ. Cho nên
ngồi đau quá chịu không nổi phải xả ra phải lôi chân xuống thì cái
đó nó sẽ làm cho con mất định, mất cái định đi. Cho nên, muốn mà
được cái định là phải phá âm thanh trước, âm thanh nó không câu hữu
với cái thọ, cái thọ nó không câu hữu với cái thức, cái thức nó
không câu hữu với cái tâm, thì cái tâm con nó bất động, nó yên lặng ở
trong trạng thái định. Nhớ chưa? Từ bắt đầu tu như thế nào mà tập luyện
như thế nào để phá âm thanh trước.
Tu định Chánh
niệm tỉnh giác, con tu trong mọi hành động và lúc nào cũng kèm theo
tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả và hướng tâm gọi ý thức hãy sống trong hiện tại,
Chánh niệm tỉnh giác, khi ăn uống, nói, nín đại tiểu tiện, luôn luôn
phải tỉnh giác. Tỉnh giác ở đây thì các con sẽ nghe lại lời dạy
trong băng của Thầy thì mới thấu rõ cái Chánh niệm tỉnh giác. Chánh
niệm tỉnh giác nó có nhiều cách thức tu, mà nó phải lợi dụng ở
trong cái hành động đi kinh hành như thế nào, lợi dụng trong cái hành
động làm hằng ngày chúng ta tu cái Chánh niệm tỉnh giác, thì tất
cả mọi hành động hằng ngày thì chúng ta đều phải tu cái Chánh niệm
tỉnh giác. Nhưng mà tu cái Chánh niệm tỉnh giác thì chúng ta phải tu
nhiều, tu nhiều hơn. Và lúc nào chúng ta cũng thực hiện tu cái Chánh
niệm tỉnh giác để cho cái sức tỉnh cho đến khi mà chúng ta phải tu
cái thức tỉnh của chúng ta ở trên cái hơi thở để chúng ta ngủ mà
không ngủ. Cái đó là cái cuối cùng mà các con phải tu tập để chúng
ta phá 18 cái loại tưởng và đồng thời chúng ta phá cái mộng tưởng,
không còn chiêm bao nữa, luôn luôn tỉnh giác.
Hỏi:Dưới đây con xin Thầy chỉ dạy cho con cách thức tu Định
Sáng suốt cho đúng?
Đáp: Định Sáng
suốt có nghĩa là, khi chúng ta thực hiện cái Định Vô lậu mà xong thì
ngồi lại thì cái tâm nó sáng suốt, cho nên chúng ta giữ cái tâm nó
thanh thản, cái tâm yên lặng, cái tâm vô sự, tức là cái pháp môn thư
giãn làm cho thân tâm chúng ta trở về trạng thái an ổn nhất không có
mệt nhọc, không đau khổ. Chứ không phải ngồi mà tập trung trong cái
sáng suốt, trong cái vô sự, trong cái thanh thản thì nó sai. Cái
người mà tu Định sáng suốt, Định thanh thản này là cái người thư
giãn cả thân tâm chúng ta cho nó trở về trạng thái an ổn, nó không bị
mệt nhọc, không bị rối loạn. Vì như vậy nó không phải là Định sáng
suốt này là cái định mà tập trung làm cho nó mệt thêm, thì không
phải là sáng suốt nữa.
Hỏi: Muốn
tu tập buổi khuya, ngồi ghế bình thường mà tỉnh táo không bị buồn
ngủ, xin Thầy chỉ dạy cho con biết tu đúng cả 4 loại Định, không chênh
lệch?
Đáp: Bốn loại Định
đó, thì cái định mà Chánh niệm tỉnh giác định phải tu nhiều, cái
Định vô lậu thì phải tu ít hơn cái định Chánh niệm tỉnh giác, Định
hơi thở, Định hiện tại an lạc trú thì tu rất ít, một ngày thì tu có
1 lần hoặc 2 lần thôi, còn hoàn toàn tất cả các loại định kia phải tu
nhiều. Và đồng thời trong mỗi loại định, như Định hiện tại an lạc
trú này, định Chánh niệm tỉnh giác này, Định vô lậu này, mỗi cái
loại định như vậy đó, sau khi tu rồi thì chúng ta nên thư giãn cái thân
tâm chúng ta bằng cái Định sáng suốt. Nghĩa là cái Định sáng suốt
xen kẽ vào để thư giãn nó, làm cho thân tâm chúng ta trở về cái sự an
ổn và bình thường, phục hồi lại cái mệt nhọc của chúng ta, rồi
chúng ta tiếp tục tu các định khác thì rất dễ dàng và sáng suốt
hơn. Cho nên nó mới có cái tên là Định sáng suốt, là làm cho chúng ta
khỏe khoắn ở trong người trở lại mà tu tập cái khác, coi như là, sau
một thời gian làm việc mệt thì chúng ta được nghỉ ngơi đó. Cái Định
sáng suốt có nghĩa là cái định để nghỉ ngơi, chứ không có gì hết.
Hỏi: Thưa
Thầy, từ ngày Thầy dạy giáo án đến giờ tâm con xả sạch, tâm con an
ổn, ngày một bữa không còn thấy đói gì cả, không bao giờ nghĩ đến
chuyện ăn uống hay thèm khát gì hết, cứ đến giờ là đi ăn. Thân thanh
tịnh, tâm dục tự nó mất tiêu không bao giờ hay, con thương mà chẳng
ghét ai cả, thích thú sống độc cư, sống trầm lặng, không nghĩ đến
làm việc gì hết, nhưng bổn phận phải làm. Không muốn đến chỗ đông
người ồn ào, bất đắc dĩ ra nghe băng và ra ăn cơm. Thường hướng tâm ám
thị phải sống trong thiện pháp, đến ngủ, ngủ ít khi có chiêm bao. Hằng
ngày con sống như vậy, có phải là Sơ thiền không?
Đáp: Không phải
đâu. Tất cả những cái này không phải là Sơ thiền, mà là cái cuộc
sống của con, nhiều khi mình cứ nghĩ tưởng là mình sống như vậy là
đúng nhưng sự thật sai. Cái hoàn cảnh hiện giờ, cái trí tuệ của
người tu rất sáng suốt, chúng ta nhận được cái hoàn cảnh của chúng ta,
không phải sống như vậy đúng. À, bởi vì các con tưởng mình sống như
vậy là mình giải thoát, nhưng mình nhìn xung quanh mọi người, họ đang
khổ sở với mình, mà mình cứ thun thút ở trong thất, mình tưởng là
vậy sống đúng. Phải chi trong cái thời đức Phật, người ta đi xin ăn,
người nào cũng xin ăn, thì ông Phật cũng xin ăn mà các vị tỳ kheo
khác cũng đi xin ăn, thì mình sống luôn luôn ở trong cái độc cư, ở
trong thất mình tu như vậy là đúng.
(mất tiếng)
Vừa rồi Thầy có trả
lời cho bên nữ cô Minh Cảnh có hỏi về cái vấn đề tu tập, nhưng Thầy thấy rằng,
hầu như đó cũng là cái sai, cái sai đây cũng là cái sai chung cho tất cả chúng
chứ không phải riêng cho một người, cho nên cái sai này hầu như người ta trạch
cái pháp ra, cái câu ra dùng nó làm pháp hướng, mà cái pháp hướng nó khác và
cái pháp quán nó khác, hai cái pháp này nó khác. Khi chúng ta quán mà chúng ta
lại quán chung chung, nó không có đúng cái tánh cách của cái sự quán xét, nó
không thành cái hiện trạng của một cái sự quán, mà nó trở thành một cái danh từ
suông. Hầu hết là những người tu hành trong cái thời đại này thì đứng trên cái
chữ nghĩa mà nói suông mà thôi. Thí dụ, chúng ta nói cái thân này là vô thường,
khổ, vô ngã thì người ta nói suông cái danh từ như vậy chứ người ta đâu thấy
được cái trạng thái vô thường, khổ, vô ngã như thế nào? À, cho nên muốn mà được
thấy cái trạng thái vô thường, khổ, vô ngã đó thì chúng ta phải có sự quán xét
và suy tư cho nên gọi là quán pháp. Còn đằng này thì quán chung chung như làm
biếng, không có chịu suy tư, sợ động não nó mỏi mệt. Cho nên cứ vay mượn đờm
dãi của người khác mà nhai đi nhai lại gọi là quán vô thường, khổ, vô ngã thì
Thầy thấy cái chuyện quán đó thì bây giờ suốt ngàn năm đi nữa quý vị tu cái
Định vô lậu nó cũng không hết lậu hoặc đâu.
Do cái chỗ sai đó mà
Thầy quá mất cái thì giờ rất nhiều cho cái giáo án này, vì sự thật ra cái tu
hành chúng ta phải hiểu khi nào mà chúng ta phải quán, khi nào mà chúng ta phải
hướng. Khi nào mà nó đã quán xong rồi, chúng ta thấu triệt rồi thì chúng ta mới
dùng pháp hướng để đoạn dứt, chặt đứt nó đi, lìa bỏ nó đi, từ giã nó đi.Cái
pháp hướng là cái pháp để mà đoạn dứt, pháp hướng là cái pháp ra lệnh để cho
tâm chúng ta nó không còn bám dính cái đó nữa. Còn cái pháp quán là cái pháp
phải thông suốt, phải thông hiểu. Cho nên, Phật nói đầu tiên mà cái người vào
đạo Phật “ Những gì chưa thông hiểu phải thông hiểu”. Mà bây giờ mình nghe cái
danh từ suông mình chưa có rõ, chưa có rõ được cái trạng thái. Cũng như bây giờ
nó hôn trầm, thùy miên thì ai nói danh từ đó cũng được nhưng mà không có biết
hôn trầm thùy miên nó ra sao? Cái trạng thái hôn trầm, thùy miên đó nó làm cơ
thể chúng ta mỏi mệt, lười biếng, nhã nhợt, nó làm cho chúng ta bần thần không
có tỉnh táo, thì cái đó nó gọi là hôn trầm, thùy miên. Còn bây giờ chúng ta nói
hôn trầm, thùy miên suông không thì không hiểu gì hết, cái người khác người ta
không hiểu.
Mình muốn nói được
cái đó thì mình phải diễn tả ra được, phải suy tư ra được, phải quán xét ra
được, phải có cái trạng thái hôn trầm, thùy miên mới biết được nó. Còn nếu mà
không có thông rõ như vậy thì chúng ta tu hoài nó cũng vô ích. Bởi vì tu nó
khó, khó là cái chỗ thông hiểu, phải thông hiểu. Cho nên cái vấn đề quan trọng
của đạo Phật thì như quý thầy cũng đã thấy rằng cái vấn đề nó rất rõ là phải
thông hiểu. Mà không thông hiểu thì không có làm sao mà tu được hết, mà cứ vay
mượn, vay mượn cái đờm dãi, nước miếng của người ta mà nhai đi nhai lại hoài
thì nó không có ích lợi gì; mà mình phải thông hiểu, mình quán tức là làm cho
cái tri kiến của mình nó thông suốt. Rồi cái tri kiến của mình tự nó phóng ra
những cái sự hiểu biết đó, nó làm cho mình thấu rõ được cái pháp đó nó như thế
nào đúng và như thế nào sai?
Đó là những điều
kiện mà Thầy giảng hôm nay. Đâu có phải trong một cái Định vô lậu mà quý thầy
đã sai thì cái Định hiện tại an lạc trú về hơi thở thì quý thầy còn sai biết là
bao nhiêu nữa. Cho nên Thầy nhắc nhở rồi cái Định sáng suốt Thầy nghe quý thầy
cũng chẳng trình bày cho Thầy cái đúng, cái sai trong sự tu hành, mà nhìn vào
cái sống của quý thầy thì biết quý thầy tu chẳng tới đâu hết. Tại sao vậy? Tại
vì trong ba tháng này xét ra cái người nào tu được, tu không Thầy đã biết. Mà
người nào tu không được mà tu như thế nào mà không được, tu như thế nào là được
Thầy đều biết. Tại sao vậy? Tại nhìn thấy qua cái sự sống trầm lặng của người
đó biết được người đó sẽ tu được, mà cái người mà sống phóng dật, tâm chạy theo
luận bàn cái này, nói chuyện kia thì những người đó không tu được gì hết.
Thì nhìn lại ở đây
chúng ta thấy được mấy người mà sống trầm lặng, đã là đi tu rồi thì chúng ta
phải quyết tâm, phải giữ gìn không cho phóng dật. Rồi đây thì quý thầy sẽ thấy
rằng tâm Phật không phóng dật, tâm ta niệm Phật cũng không phóng dật vì phóng
dật là một pháp rất ác,rất độc, nó nối tiếp sự sanh tử luân hồi chúng ta mãi
mãi là do cái tâm phóng dật. Mà muốn cho nó đừng phóng dật, thì chúng ta phải
làm sao? Đó là một cái điều kiện mà rất khó, cho nên ở đây chúng ta nhìn lại
chúng, nhìn lại một số quý thầy thì chúng ta thấy cái người mà không phóng dật
là được mấy người. Đó, mà sống trầm lặng, sống độc cư, sống cô đơn, sống một
mình người đó mới không phóng dật. Bởi vì, cái tướng không phóng dật thì cái
tâm lần lượt nó sẽ nguội lạnh và nó sẽ không phóng dật. Mà cái tướng mà không
giữ được thì cái tâm không thể nào mà giữ nó được hết. Mới đầu chúng ta giữ
được cái thân của chúng ta không phóng dật, sau lần lần cái tâm nó theo đó nó
không phóng dật. Còn nếu mà cái thân mà chúng ta không giữ nó được đó, thì nó
phóng ra nó chạy tứ tung binh tàn thì cái tâm chúng ta ngồi lại, cái tâm của
chúng ta nó còn nhiều hơn nữa, hết chuyện này tới chuyện khác, nó như một cái
chợ ở trong đó vậy.
Đó thì hôm nay Thầy
nói như vậy để rồi chúng ta tiếp tục học cái Tứ Bất Hoại Tịnh.
Mới bắt đầu vào học
Tứ Bất Hoại Tịnh mà chúng ta đã thấy thời gian quá dài là vì gần hai ngày học
rồi mà chưa hết một pháp này, rồi quý thầy còn học biết bao nhiêu thứ khác nữa
chứ đâu phải ít, đâu có đơn giản. Cho nên ở đây có một số quý thầy cũng xin
Thầy để tóm lược lại những cái điều mà quan trọng để cho quý thầy nắm cho vững
những cái điều quan trọng đó để mà tu tập, đây Thầy xin đọc một cái bức thư gởi
cho Thầy, có một vị thầy gởi cho Thầy một bức thư:
“Nam Mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính
bạch Thầy!
Hôm
nay, chúng con trong đại chúng xin cung kính, thành tâm có lời thỉnh nguyện:
Kính
thưa Thầy!
Thời
gian còn quá ngắn, giáo án còn dài, sức khỏe của Thầy lại kém, chúng con cầu
mong ngưỡng vọng Thầy từ bi hoan hỷ dành thời gian còn lại giảng cho chúng con
về phần căn bản then chốt, cốt lõi của Tứ Thiền và Tam Minh để chúng con nắm
được phần quan trọng này. Sau khi qua hạ vì chúng con không còn đầy đủ duyên
lành, may mắn để tiếp tục theo Thầy để tu học, để lấy đó làm phương châm trên
bước đường tu đạo, để cầu thoát ly sanh tử sau này. Cúi xin Thầy từ bi hoan hỷ
chấp nhận hứa khả cho chúng con, đồng thời Thầy hoan hỷ cho
chúng con được nghe những lời thỉnh nguyện của Thầy với Hòa Thượng Trúc Lâm mà
không được Hòa Thượng chấp nhận trợ duyên cộng tác với Thầy để mở cửa, xiển
dương con đường thiền giải thoát cho con người ở trong hiện tại,mà Thầy đã khổ
công nhập thất tu hành suốt mười năm không nói một lời, sống trong cô đơn, trầm
lặng đã khám phá thực hiện thành công kết quả chiến thắng dành lại quyền sanh
tử sống chết của kiếp con người mà hiện nay trên thế giới này chưa có ai làm
được.
Hôm
nay chúng con đầy đủ duyên lành từ ngoài Bắc và ở trong Nam tụ hội về
đây cũng là phước duyên lành của chúng con dung bồi từ quá khứ. Cho nên hôm nay
chúng con được nghe lần đầu cũng như lần cuối những lời quý báu này, lợi ích
cho chúng con nói riêng, nói chung cho tất cả người sau. Đó là những lời tha
thiết, chân thành của chúng con cúi mong Thầy từ bi, hoan hỷ chấp nhận cho
chúng con.
“Sẵn
dịp Thầy cho chúng con được nghe dự thảo của Thầy thành lập Trung tâm Khu an
dưỡng ở Phước Hải. Có lý do gì khó khăn hay không mà Thầy lại không tiến hành
mà lại bỏ dỡ. Đó là những gì mà chúng con muốn biết những việc làm của Thầy tốt
đạo, đẹp đời, là phương châm của Phật giáo hiện nay, cũng là nhân duyên chấn
hưng Phật giáo lợi ích cho chúng sanh, nhân loại. Với hoài bão và tâm nguyện
của Thầy từ khi ra thất luôn luôn tâm nguyện canh cánh nỗi lòng và sự tồn vong
của Phật giáo của hiện tại và tương lai, cho đến hôm nay mà hoài bão của Thầy
vẫn chưa thực hiện được. Mà hôm nay Thầy lại ra đi ẩn bóng để lại cho chúng con
một nỗi niềm thương nhớ, một bậc Thầy khả kính làm gương hạnh cho chúng con
trên bước đường tu học.”
À, qua hai bức thư
mà thỉnh cầu:
Thứ
nhất là về cái phần giảng về bốn thiền và cái Tam minh. Sự thật ra thì cái căn
bản nhất của cái bốn thiền là cái sống, là tu tập Định vô lậu, để làm gì? Để
cho cái tâm nó ly dục, ly ác pháp, đó là cái căn bản nhấtchớ không phải là cái
hơi thở để mà chúng ta vào thiền định.Khi cái tâm mà chúng ta thanh tịnh được
rồi thì cái thời gian mà tu tập cái Định vô lậu chúng ta thường dùng cái pháp
hướng. Nếu không có pháp hướng thì chúng ta khó mà đoạn dứt được cái tâm ham
muốn của chúng ta. Các cái duyên ở bên ngoài dễ lôi cuốn chúng ta, chẳng hạn
như cái tâm phóng dật đó là một. Nếu không hằng ngày, không rèn luyện cái pháp
hướng mà diệt cái tâm phóng dật đó, thì như vậy chúng ta đã thấy được cái pháp
Tứ Bất Hoại Tịnh, mà nếu mà chúng ta không tu tập thì chúng ta không thấy được
cái tâm phóng dật là cái tâm rất là khó và vi tế, rất là vi tế.
Chúng ta nghĩ rằng
mình không có ham muốn như cái người thế gian, tức là không phóng dật. Nhưng ở
trong tâm của chúng ta thật sự là cái gốc phóng dật vẫn còn là chúng ta biết
rằng có chứ không phải không. Tại vì chúng ta xả chưa hết mà, mà chưa hết thì
tức là còn phóng giật. Dù là một cái bát đi, một vị sư đó có ba y một bát
không, dù cái bát mà chưa có bỏ được, còn tiếc nó nghe một vị khácgõ cái bát sợ
bể thì ngay đó còn cái tâm phóng dật, chưa có dừng lại, nó khó như vậy.
Cho
nên khi bắt đầu mà chúng ta tu Tứ Bất Hoại Tịnh đó, là cái điều kiện tiên quyết
đầu tiên là chúng ta tu tập như thế nào để chúng ta có một cái niềm tin, cái
niềm tin đó đối với Phật. Cho nên Tứ Bất Hoại Tịnh đó,nó giúp cho chúng ta có một niềm tin đó, đó là những cái cơ bản
của thiền định. Chứ
không phải thiền định của đạo Phật bằng cách ngay đó mà dạy cho quý thầy bằng
cách này, bằng cách kia là thiền định đâu, nó không phải đâu. Nếu mà sự thật ra
đây Thầy giảng cái bài về bốn thiền rất là rõ ràng, cụ thể. Nhưng mà cái căn
bản nó không có, không có ngay từ cái lúc đầu đó thì bốn thiền và những cái
danh từ mà diễn tả cách thức mà nương hơi thở thế này cách khác, thì quý thầy
không làm sao quý thầy bước vào được hết.Biết nó như vậy nhưng mà cái tâm của mình
còn phóng dật, chưa ly dục, chưa ly ác pháp thì chắc chắn là không bao giờ mà
có thể đi vào được bốn cái định này. Rồi quý thầy thấy khi mà yêu cầu Thầy dạy
Tam minh, nếu muốn dạy Tam Minh không phải đơn giản như chúng ta nhập Tứ thiền
rồi, từ đó chúng ta có Tam Minh đâu. Mà Thầy còn phải dạy Tứ Như Ý Túc, bởi vì
khi mà nhập Tứ thiền mà muốn hướng dẫn mà tâm đến Tam minh đó thì nó phải có
Đại Thần Lực. Mà có Đại Thần Lực thì chúng ta mới có đủ cái sức của nó, đủ cái
sức của nó mà điều khiển, ra lệnh mà điều khiển, chứ nó không còn có cái sự vận
dụng của một cái người mà đang vận dụng cơ bắp nữa, mà chỉ còn có cái ra lệnh
mà thôi. Mà như vậy là Thần lực chớ không thể nào là cái sức lực của chúng ta
nữa, mà đây gọi là Thần lực, cái lực vô hình gọi là Thần lực. Mà cái thần lực
này nó do cái pháp hướng mà ngay từ lúc đầu mà chúng ta ly dục ly ác pháp được,
tu cái Định vô lậu chúng ta phải rèn luyện nó hết sức ở trong cái pháp định vô
lậu, chứ không phải là khi mà vào hơi thở thì chúng ta luyện tập nó thì chẳng nhằm
nhò gì, chẳng kết quả gì hết.
Đó là những cái cơ
bản, nếu mà ngay từ Tứ thiền mà dạy hướng Tam Minh thì chắc chắn là quý thầy sẽ
không bao giờ mà có thể hướng đến Tam Minh vì con đường này Thầy đã đi qua Thầy
biết rất rõ. Tại sao vậy? Tại vì khi mà chúng ta nhập được Tứ thiền rồi thì cái
đầu tiên mà chúng ta biết được, làm chủ được là cái chúng ta ra lệnh là hơi thở
ngưng nghỉ các hành trong thân chúng ta. Chúng ta thấy nó có cái Thần lực như
vậy đó thì chúng ta biết. Bắt đầu bây giờ chúng ta như thế nào? Nếu mà hơi thở
ngưng như vậy, tức là chúng ta đã nhập định, mà đã nhập định thì như vậy gọi là
Định Như Ý Túc, quý thầy thấy chưa nó trong Tứ Như Ý Túc, cái Định Như Ý Túc,
thì tức là bây giờ chúng ta thực hiện cái muốn của chúng ta hiện giờ muốn như thế
nào? Muốn mình phải nhập định, muốn cho hơi thở ngưng, muốn cho nhập được tứ
thiền thì cái muốn đó nó phải thực hiện qua cái lực, cái thần lực của nó, nó
bảo hơi thở ngưng thì nó ngưng, nó bảo các hành về hơi thở phải ngưng thì các
hành ở trong thân của chúng ta về hơi thở ngưng. Đó là cái mà gọi là Định Như Ý
Túc và bây giờ nó thường hay bị bung ra và bị âm thanh tác động, bị thọ. Chúng
ta bảo âm thanh hoàn toàn không được tác động vào tâm của chúng ta vào cái định
này nữa, thì từ đó âm thanh không tác động. Thì như vậy gọi là Định Như Ý Túc,
an trú như ý của mình trong đó gọi là Định Như Ý Túc. Và khi mà Định Như Ý Túc
được như vậy đó thì chúng ta, nó có cái sự siêng năng, rất là siêng năng mà
siêng năng như ý túc, chúng ta muốn nhập bao lâu nó cũng được hết, nó không có
làm cho chúng ta lười biếng cho nên gọi là Tinh Tấn Như Ý Túc.
Đó quý thầy thấy khi
mà đến chỗ này rồi chúng ta phải thực hiện Tứ Như Ý Túc trước đã, rồi sau đó
chúng ta mới thực hiện, mà muốn được vậy thì chúng ta phải lần lượt từ cái chỗ
nào, bắt đầu bây giờ, đây là cái định như ý túc rồi, thì bắt đầu bây giờ mình
muốn kéo dài cái thời gian mà nhập định này thì nó là Tinh Tấn Như Ý Túc. Quý
thầy phải hiểu ở đây Thầy giảng đơn sơ, chứ còn sự thật ra mà để dạy cho nó thì
cách thức thì chúng ta phải như thế nào để tập luyện khi mà ở trong cái trạng
thái của định đó. Mà bây giờ chúng ta chưa biết nó như thế nào thì Thầy nói
cũng như là chẳng qua là lý thuyết suông mà chơi, chứ nó cũng không có cái
nghĩa lý gì. Nhưng mà vì cái giáo án thì phải nói cho hết, chứ sự thật ra nói
để mà nói, chứ cái người mà tu tới đây mà khi mà tâm chúng ta chưa có được vô
lậu mà chúng ta thực hiện nó thì chẳng bao giờ mà chúng ta nếm được cái mùi vị
của bốn thiền. Nó không phải khó nhưng mà khó là từ khi chúng ta bước vào đầu
mà Giới luật không nghiêm chỉnh, đời sống không độc cư, không trầm lặng đó, thì
chắc chắn là chúng ta chẳng nếm được cái mùi vị này.
Mười năm trong thất
Thầy chẳng hề có một lời nói, không phải là sống độc cư trầm lặng một mình sao?
Ai dám làm điều này không? Chắc chắn khó có người làm được điều này lắm! Nhưng
mà Thầy đã làm được điều này. Vì vậy mà Thầy thấy rất là rõ ràng và cụ thể. Đâu
phải trong một năm, hai năm mà có thể mười năm, hai chục năm nếu mà chưa thành
tựu vẫn phải sống độc cư suốt đời chúng ta, chứ còn chưa nói rằng trong mười
năm. Mà đây mười năm là thành tựu thì Thầy mới ra thất. Còn cỡ mà nó chưa thành
tựu thì chắc chắn còn kéo dài năm năm nữa, hay là mười năm nữa không chừng. Vậy
mà nguyện trọn đời là khi nào mà thành đạo thì mới ra khỏi thất, còn không đạt
được cái sự làm chủ sanh tử thì Thầy không ra khỏi thất. Chừng nào mà Thầy ra
lệnh rằng cái hơi thở ngưng và các hành ngưng thì chừng đó là Thầy mới ra khỏi
thất chứ bây giờ chưa ra khỏi thất, chưa có bao giờ, chưa làm chủ được cái này
thì không ra khỏi thất.
Nhưng mà khi mà đã
làm chủ được có thần lực như vậy rồi thì không lý nào mà Thầy không đi đến
những cái điều mà quan trọng mà trong Tứ Như Ý Túc. À, bây giờ thí dụ như Thầy
đang ngồi đây Thầy bảo rằng, không lẽ bây giờ Thầy nhập vào cái định đó, Thầy
bảo cái đồng hồ này phải hiện một cái nữa cho Thầy, thì ngay đó Thầy ra lệnh
thì nó có một cái nữa nó nằm bên đó, hai cái hoàn toàn, hai cái rõ ràng.
Ai lấy xài cũng được hết, trừ ra Thầy bảo hai cái này trở lại một thì nó trở
lại một, thì như vậy gọi là Dục Như Ý Túc. Muốn cái gì được cái nấy, phải
không? Như bây giờ, Thầy nói tấm gạch tàu này là một miếng vàng thì nó bắt đầu
nó là một cục vàng hẳn hòi đàng hoàng, bây giờ đang ra chợ, đem tới đâu thợ kim
hoàn nào đục ra cũng làm đồ trang sức y như là vàng như vậy. Nhưng mà Thầy bảo
cái cục vàng đó phải hồi lại là cục gạch tàu thì nó trở lại là cục gạch tàu.
Cái lệnh của Thầy ra làm sao thì nó y như vậy gọi là Dục như ý túc. Các thầy
thấy chưa? Rồi bây giờ khi mà Dục Như Ý Túc được rồi thì phải Tuệ Như Ý Túc,
cái trí tuệ của Thầy muốn như thế nào thì nó phải theo như thế ấy. Cho nên từng
đó Thầy mới từ cái chỗ mà Tuệ Như Ý Túc Thầy đã phát hiện được rồi thì bắt đầu
Thầy mới nói bây giờ đó phải thực hiện Túc Mạng Minh, minh là cái trí tuệ của
mình mà. Cho nên bảo nó một cái là ngay đó là chúng ta biết được nhiều đời,
nhiều kiếp liền tức khắc. Đó quý thầy thấy rất rõ không? Cho nên ở đây chúng ta
phải thực hiện Tứ Như Ý Túc. Như vậy là chúng ta đã biết rằng Tuệ Như Ý Túc.
Bởi vì có bốn Như Ý
Túc như thế nào thì Dục Như Ý Túc là đầu tiên rồi Định Như Ý Túc, rồi Tinh Tấn
Như Ý Túc rồi mới Tuệ Như Ý Túc. Thì bốn cái này đều phải được giảng rất là kỹ,
khi mà chúng ta nhập tứ thiền rồi thì cái mà đầu tiên của chúng ta là như thế
nào? Chẳng hạn bây giờ mình bảo hơi thở mình ngưng, nhưng nó ngưng có một chút
à,nó không có chịu ngưng lâu đâu. Thì như vậy nó chỉ có Thần lực có
một chút xíu à. Thời gian này chúng ta phải tu như thế nào để cho nó
ngưng, một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, rồi đến thời gian dài ra,
đâu có phải là chuyện dễ, lực của chúng ta mới tu tập, cái Thần lực
chúng ta mới tu tập nó còn nhỏ, nó đâu bằng cái người tu 10 năm. Còn
nếu mà chúng ta tu 20 năm, cái Thần lực của chúng ta còn dữ tợn hơn nữa,
bởi vì hằng ngày chúng ta trui, rèn luyện mình trên cái pháp hướng
thì Thần lực nó càng ngày càng vĩ đại hơn. Chớ không phải như mấy ông
thầy mà ngồi tu mà tập trung cái tâm, tư tưởng trên cái đầu của chúng
ta để làm cho nó quay cuồng ở trên đó, nó rối loạn thần kinh, nó tiêu
luôn, chứ không phải dễ. Ở đây chúng ta đâu có tu tập cái gì đâu, chúng ta
đâu có đụng tới cái thân của chúng ta mà nhăn mặt hoặc là cắn chặt
răng hoặc là gồng mình lên để mà gom tâm mình bằng cách này bằng
cách kia. Cho nên nó đâu có rối loạn cơ thể chúng ta, chúng ta chỉ nhẹ
nhàng khi mà chúng ta tu cái Định Vô Lậu chúng ta chỉ nhẹ nhàng.
Ví dụ như bây
giờ, cái tâm phóng dật là một cái pháp ác, làm cho thân tâm chúng ta
luôn luôn tái sanh luân hồi, sanh tử, đau khổ. Vậy thì cái tâm phóng dật
này phải lìa đi không được ở đây nữa. Bình thường, mình nhắc như vậy
thôi, chứ mình đâu có bảo nó làm sao được, mình đâu có lôi nó được,
như mình sống ở trong cái hạnh độc cư đó thì tức là mình ly nó rồi,
tức là mình lìa nó rồi. Nhờ cái thân mình chịu khép mình trong cái
khuôn khổ độc cư, trầm lặng đó thì nó đã ly đó, cho nên mình nhờ đó
mà mình không phóng dật. Nhưng mà cái tâm của chúng ta nó vẫn còn phóng
dật chứ chưa hết. Cho nên chúng ta hằng ngày phải nhắc: à cái tâm
phóng dật phải dứt đi, không có được, vì phóng dật là đau khổ, nối
tiếp cho ngọn đuốc sinh tử luân hồi, làm cho đời người tiếp tiếp nối
nhau mà khổ ở trên 6 nẻo luân hồi. Cho nên mình thường nhắc nó, cứ
nhắc đi nhắc lại đuổi nó đi hoài, đuổi riết nó, mình sống đúng
hạnh mình đuổi riết thì nó phải hết trong tâm. Còn mình sống mình
tiếp giao với dục lạc, mình phóng tâm mình chạy theo nào là rượu
chè, hút thuốc, nào là xem video, tivi rồi xem ca hát, rồi nhảy nhót,
nhảy đầm, đăng-xê gì đủ loại, thì thử hỏi cái cách thức đó thì làm
sao mà chúng ta bảo cái tâm phóng dật đừng có phóng dật không? Hàng
ngày chúng ta muốn ăn cái này, muốn ăn cái kia, muốn ngủ hồi nào
ngủ, muốn thức hồi nào thức, thì bảo đừng phóng dật thì nó làm
sao nó không phóng dật. Mình đã sống phóng dật mà mình bảo nó đừng
phóng dật là làm sao? Còn mình sống mình khép mình ở trong cái khuôn
khổ, không phóng dật và đồng thời mình nhắc cái tâm của mình riết
nó sẽ hết phóng dật. Quý thầy có nghĩ điều đó không? Nếu quý thầy
nghĩ điều đó là cái sống của quý thầy phải đi trước, đó là cái cơ
bản để chúng ta thực hiện thiền định.
Cho nên cái giáo
án thì lần lượt Thầy sẽ dạy hết, mà dạy hết là một cái điều cũng
rất nguy hiểm cho cái người sau. Tại sao vậy? Tại vì nó có sẵn hết,
người ta chỉ lợi dụng nó để mà bán pháp, bán Phật mà sống, chứ
không phải để thực hiện sự giải thoát.Họ hiểu biết rồi, họ hiểu
cách hành trì rồi, họ ra họ nói dóc, chứ sự thật ra họ chạy theo
dục lạc, họ chạy theo danh lợi, họ lấy cái hiểu biết đó họ nói như
họ là Thánh vậy đó.
Như từ lâu tới
giờ quý thầy thấy trong kinh sách không có nói những cái hành trì,
những cái pháp hành, Phật có nói những cái danh từ rất là cô đọng
lại, chúng ta khó được hiểu, như Phật nói: “Như lý tác ý là pháp
hướng tâm”. Nhưng bây giờ Thầy triển khai ra những cái pháp này, nó
trở thành những trạch pháp, như Phật dạy là Trạch pháp giác chi này,
rồi Niệm giác chi này, Khinh an giác chi này. Thầy triển khai ra những
cái này nó trở thành những cái pháp tu, trở thành cái pháp hành
của chúng ta rất rõ. Và từ đó nếu cái người mà quyết tâm tu, thì chắc
chắn là phải được, còn cái người mà quyết mượn nó để buôn Phật
bán pháp thì chắc chắn cái số này rất lớn chứ không phải ít.Đó,
người ta cứ ngỡ rằng mình hiểu như vậy là mình giải thoát, nhưng sự
thật ra họ chưa làm chủ, họ chưa làm cái gì được hết nhưng mà họ
mượn cái chỗ mà Thầy nói đây, họ sẽ nói ra tùm lum đủ thứ hết.
Nhưng
cuối cùng thì cuộc đời họ cũng chỉ trôi lăn ở trong lục đạo. Chỉ
gạt được cái người mà người ta chưa có nghe được giáo án này. Chớ còn
những người mà được nghe rồi, được hiểu rồi thì ông cũng nói ở
trong cái này thôi, chứ ông đâu có nói cái chuyện gì khác của ông
đâu. Nhưng trên bước đường tu tập chúng ta có nhiều kinh nghiệm của
chúng ta lắm, chứ nó không phải như ở chỗ Thầy nói. Thầy nói đây là
một cái phần rút tỉa từ những ưu khuyết điểm của quý thầy, rồi
đến những cái ưu trong cái sự tu tập của Thầy so sánh để rồi mới lấy
ra cái pháp hành cụ thể, để giúp cho quý thầy sau này. Rồi quý
thầy sẽ tu, quý thầy có những cái kinh nghiệm của quý thầy nữa.
Nhưng kinh nghiệm đó nó không xa lìa cái cốt lõi của Phật pháp, nó
không trật. Cho nên ở đây thì Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy, con
đường mà chúng ta còn đang học và còn đang hiểu, con đường cho đúng
đạo Phật cái đã. Mà muốn học hiểu đúng Đạo Phật thì chúng
ta phải đi từng bước, chứ không thể nào mà đùng cái chúng ta hiểu.
Quý thầy thì
muốn hiểu bây giờ phải nhập từ Sơ thiền phải như thế nào, trạng thái?
Lần lượt quý thầy sẽ được nghe Thầy diễn tả tất cả những cái này.
Nhưng tu hành được hay không là do quyền của quý thầy chứ không phải là
của Thầy nữa, Thầy chỉ làm hết bổn phận của mình dựng lại những
cái giáo lý của đức Phật và qua những kinh nghiệm của Thầy, qua
những cái lời của Phật dạy quá là cô đọng làm cho người ta không có
hiểu cái pháp hành và cũng chính vì vậy mà đạo Phật tới ngày nay
người ta mới không triển khai nổi. Chỉ có những người mà hành thì
người ta mới triển khai nổi. Còn những người mà không hành, mà lý
thuyết không thôi thì không triển khai được. Mà Thầy hôm nay đã phá vỡ
cái này.
Thật
là đối với Phật Thầy cũng có một cái tội, lẽ ra ông Phật ngày xưa
thì ông phải khai triển cái này rất rõ, nhưng ông chỉ ngầm để mà ông
đến với các đệ tử của mình, để chỉ cái pháp hành đó mà thôi, chớ
không có nói ở trong kinh sách. Và các ngài thuật trở lại như ông
A-Nan thuật lại, cái dạy riêng cho từng người để mà nhập được cái
định thì không có nói cho mọi người nghe những pháp hành đó. Tại sao vậy?
Như đức Phật thể hiện thần thông đến với ông Mục Kiền Liên thì chỉ
nói à ông nhập cái Sơ thiền nó không được do cái tâm ông như thế này
thế khác hoặc là ông bị hôn trầm, thùy miên, vô ký thì ông Phật đến
để giúp cho ông ta phá đi. Có 5 cái điều kiện phá hôn trầm, thùy
miên. Rồi đến cái khi mà ông nhập Sơ thiền không được, hoặc là nhập
Nhị thiền không được, luôn luôn cái tâm ông bị dao động ở trong đó thì
đức Phật đến nhắc ông phải im lặng như Thánh, trụ như Thánh, nói những
danh từ như vậy thôi. Nhưng mà ngoài những cái danh từ đó, chắc chắn
là đức Phật có kê tai nói với ông Mục Kiền Liên “Ông phải như thế này
nè, ông nằm ở chỗ đó”. Cho nên mình phải xét thấy khi mà nó có
những cái định. Tại sao từ cái khoảng từ Sơ thiền cho tới Nhị thiền, nó
có những cái định khác nữa, chứ đâu thể nào mà nói Sơ thiền, Nhị
thiền không.Nó có cái định, cái định mà Sơ thiền thì
nó có Tầm, có Tứ, rồi tiếp đó thì cái định thì nó vô Tầm mà nó
hữu Tứ. Chúng ta phải tu tập như thế nào? Vậy thì cái mà có Tứ này
là cái Tứ gì đây? Ông Phật không nói, cho nên người ta không biết mà
cái vô Tầm mà có Tứ này là cái gì? Còn Sơ thiền thì mới ly dục, ly
ác pháp thôi. Cho nên nó còn Tầm còn Tứ, nhưng
mà ở trong Tầm Tứ thiện. Bây giờ muốn đi đến Nhị thiền thì
diệt Tầm Tứ, mà diệt Tầm Tứ thì không thể ngay một lúc mà chúng ta
diệt được. Cho nên vì vậy chúng ta phải rõ được cái chỗ mà muốn vô
Tầm mà còn Tứ, nó là một cái định để mà chuyển qua một cái định
diệt Tầm Tứ.
Đó
thì quý thầy thấy rất rõ, mà muốn chuyển qua như vậy là gì, nếu
không phải pháp hướng trong đó thì ông Phật không kê tai nói nhỏ với
ông Mục Kiền Liên thì chắc chắn bây giờ chúng ta biết được không? Nói
định vô Tầm mà hữu Tứ thì chắc chắn ai nói cũng được. Nhưng mà chúng
ta biết làm sao đây là hữu Tứ đây? Chưa ai biết hết. Hữu Tứ là như
thế nào? Nếu không phải là Như lý tác ý ra lúc bấy giờ thì làm sao
mà diệt Tầm được. Bởi vì Tầm Tứ, trong cái Nhị thiền nó có Tầm Tứ
rồi, phải không? Nhưng mà nó sống ở trong ly dục, ly ác pháp thì nó
phải có Tầm Tứ thiện rồi. Nhưng bây giờ muốn diệt Tầm, không phải
ngồi ức chế tâm đâu. Các thầy phải nhớ, các thầy ngồi mà ức chế tâm là các
thầy dùng hơi thở, các thầy tập trung, các thầy gom,
các thầy gồng mặt, gồng mình lên cho nó căng thần kinh lên, thì cái
điều đó là điều sai rồi. Cho nên Phật nói ở đây vô Tầm mà hữu Tứ,
cho nên có bảo mình gồng mình không? Quý thầy phải hiểu rõ cái điều
này, vô Tầm mà hữu Tứ thì cái Tứ nó còn tức là Tác ý nó còn chứ
gì? Mà Tác ý còn tức là pháp hướng chứ gì? Cho nên chúng ta thí dụ
như bây giờ chúng ta muốn cái tâm của mình diệt Tầm Tứ thì chúng ta
phải giữ cái đối tượng của nó là cái niệm. Nhưng mà bây giờ mình
chưa có biết cái niệm nào, tức là trong Tứ niệm xứ mình chưa có học
thì ngay Tứ thiền mình dạy mình có biết cái niệm nào, nó ở chỗ nào
đâu? Bây giờ nó ở thọ hoặc là ở thân, ở tâm của mình hay ở pháp. Bởi vì
nó có 4 cái chỗ để mà chúng ta thực hiện cái Niệm, vậy thì nó ở
chỗ nào đây mà để thực hiện cái niệm đó đây? Cho nên vì vậy chúng ta
phải học Tứ niệm xứ để chúng ta biết cái niệm đối tượng của nó để
mà chúng ta tác ý. Vậy thì khi mà chúng ta trạch pháp ra nó phải có
đúng ở trên cái đối tượng cái niệm của nó để mà chúng ta dùng cái
đó, đối tượng đó để mà chúng ta tác ý để mà chúng ta diệt Tầm. Cho
nên nói vô Tầm mà hữu Tứ, phải không? Cho nên bây giờ chúng ta tu 5
phút, 10 phút hay 30 phút, thì cái lúc bây giờ nó không có Tầm mà
nó còn Tứ. Rồi bắt đầu bây giờ muốn diệt Tầm Tứ thì bây giờ Tầm
nó đã hết rồi, thì cái Tứ phải diệt như thế nào? Không tác ý nữa,
mà không tác ý nữa thì cái gì mà chúng ta phải xả nó đi để cho nó
không tác ý? Thì tức là cái niệm. Vậy thì cái niệm nào mà xả
được? Bây giờ chúng ta niệm Phật, chúng ta xả được không? Xả gì mà nó
ngồi nó cứ niệm ở trong đầu nó hoài, thì làm sao xả được? Đó là
những cái mà khi chúng ta học Tứ niệm xứ thì chúng ta mới thấy rõ
cái điều này. Nhưng mà Thầy thấy cái thời gian mà chúng ta dạy đến
đây thì chúng ta thấy nó còn nhiều cái sự học.
Bây
giờ chúng ta, Thầy nói Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy rõ này: Nếu mà
chúng ta không học 5 cái Căn, tức là ngũ Căn, ngũ Căn tức là 5 cái
gốc, 5 cái gốc để cho nó thực hiện được con đường Thiền định này,
thì chúng ta không biết cái gốc ở đâu mà chúng ta tu, thì làm sao mà
có cái sự này được? Thì 5 cái gốc đó như thế
nào? Tín căn
này, Tấn căn này, Niệm căn này, Định căn này, Tuệ căn này, cái gốc
ở đó nó sinh ra Tuệ này, cái gốc nó ở đó nó sinh ra cái Định này,
cái gốc nó ở đó nó sinh ra cái Niệm này, cái gốc nó ở đó nó sinh
ra cái sự siêng năng này, tức là Tấn căn đó, cái gốc nó ở đó nó sinh
ra cái lòng tin của chúng ta này. Chúng ta phải biết 5 cái Căn này. Mà
5 cái Căn này thì chúng ta phải tu tập mà làm sao cho có 5 cái Lực,
gọi là ngũ Lực.
Cho nên có nhiều
người người ta Thầy nói Niệm lực, họ nói chỉ có Thầy đặt thôi chứ
làm gì Phật pháp có cái Lực. Đó là những người chẳng hiểu Phật
pháp. Phật có 5 Lực chứ đâu phải 1 Lực. Ví dụ Thầy nhắc cho quý
thầy thấy nè, nào là: Tín lực này, rồi Tấn lực, rồi Niệm lực này,
rồi Định lực này, rồi Huệ lực này. Nó phải đủ 5 cái Lực của nó,
nó mới gọi là Phật pháp. Mà 5 cái Lực này nó hợp lại, nó gọi là
Thần lực.
Đó,
thì như vậy chúng ta mới thấy con đường tu. Mà bây giờ bắt đầu Thầy
dạy Tứ bất hoại tịnh này, xong rồi Thầy sẽ dạy cho quý thầy thấy
được ngũ Căn như thế nào, rồi ngũ Lực như thế nào? Thì cái thời gian
mà dạy ngũ Căn, ngũ Lực quý thầy thấy đâu có phải là thời gian
ngắn được, chắc gì mà trong cái thời gian 5 đến 10 ngày nay mà nó hết
được, nó còn nhiều quá. Và đồng thời Tứ niệm xứ thì quý thầy thấy,
bốn cái chỗ mà để chúng ta đặt cái Niệm, lúc nào mà chúng ta tu cái
Định gì mà chúng ta đặt cái Niệm gì ở trên cái xứ sở nào cho nó
đúng cái xứ đó chứ? Nếu mà trật cái xứ đó thì chúng ta tu bậy rồi.Bây
giờ cái đầu đang nhức mà cứ nói cái thân bất tịnh, cái thân vô
thường, cái thân như thế này thế khác, thì ăn thua nhằm nhò gì khi
cái đầu, cái thân của chúng ta đang bệnh.
Cũng như có nhiều
vị ở đây đang bệnh đau, đang nhức nhối, đang khổ sở mà cứ ngồi quán
cái thân như thế này, ngồi hít thở, thử hỏi chịu nổi không? Đó là
tu sai, tu ở trong những cái nào mà nó đang thể hiện. Bây giờ cái tâm
chúng ta tỉnh táo này chúng ta sẽ tu cái gì này? Bây giờ chúng ta cái
tâm nó mờ mịt, nó thiếu tỉnh thức này thì chúng ta tu cái gì nè?
Chúng ta tu từng cái tâm Niệm của chúng ta mà. Bởi vậy Phật nói tâm
có tham biết tham, tâm có tỉnh biết tỉnh, tâm có sân biết sân, tâm
không sân biết không sân, tâm không tham biết không tham. Mỗi tâm niệm của
chúng ta đều biết và trong khi đó chúng ta sẽ tu cái gì? Bây giờ tâm
có tham thì chúng ta biết, chúng ta tu cái gì, mà tâm không tham thì
chúng ta biết chúng ta tu cái gì? Tâm có tỉnh thì chúng ta biết chúng ta
tu cái gì? Mà tâm không tỉnh thì chúng ta biết chúng ta tu cái gì? Vì
vậy nó mới có kết quả. Còn bây giờ tâm mình không tỉnh mà mình cứ ngồi
mình hít thở thì làm sao mình tỉnh? Chỉ có ngủ luôn chứ ở đó mà
tỉnh.
Thầy muốn nói như
vậy để chúng ta học rất là kỹ mọi cái pháp hành của Phật để biết
từng tâm niệm của chúng ta, chúng ta mới thực hiện được, chứ không
khéo chúng ta làm sao thực hiện được? Quá khó khăn.
Cho
nên ở đây Thầy xin nhắc lại trong cái điều kiện mà thầy Thiện Thiền
muốn hỏi là để thấy được cái sự việc trải qua cái thời gian của
Thầy muốn chấn hưng lại Phật pháp, muốn nương vào Hoà Thượng, giúp Hoà
Thượng để xây dựng lại Phật pháp, vì Thầy là một người tu, không còn
có chấp danh chấp lợi, không còn có muốn mình là bậc Thầy ai hết, chỉ
muốn núp sau lưng Hoà Thượng để mà giúp Hoà Thượng xây dựng lại cái ngôi
nhà Phật giáo như ở trong băng Thầy đã nói. Ở trong băng của Thầy đã
được nói ra rất là rõ ràng. Nếu một ngày gần đây Thầy sẽ đọc lại
những lời đó mà trước đây 3 năm Thầy đã có giảng cái lời nói đó. Tức
là trong hai cuộn băng đó, cái cuộn thứ nhất làPhật Môn Bảo Huấn. Thầy muốn khuyên quý thầy là trở
về với cái sự chơn chánh của đạo Phật, đừng có lợi dụng cái chiếc
áo Tôn giáo mà làm lệch đi con đường của đạo Phật. Đó là cái cuộn
băng thứ nhất. Cái cuộn băng thứ hai là Thầy muốn so sánh giữa cái
Thiền Đông Độ và cái thiền của bốn Thiền của Phật để cho Hoà Thượng
thấy cái đúng, cái sai, để cho Hoà Thượng hiểu được Thầy, rồi thầy trò
hiểu nhau, Thầy sẽ núp sau lưng Hoà Thượng mà cố gắng đào tạo tìm
lấy một số người quyết tâm tu hành giải thoát. Sau khi mà đào tạo
được cái số người này rồi thì đương nhiên là đệ tử Hoà Thượng chứ
không phải là đệ tử của Thầy, họ chỉ là huynh đệ của Thầy mà thôi.
Để cuối cùng thì người ta nhìn thấy Phật giáo của Việt Nam do Hoà
Thượng đã chấn hưng lại, có người tu chứng làm chủ sanh tử như vậy
như vậy, kết quả như vậy. Riêng Thầy thì âm thầm rồi Thầy thị tịch
khi mà đã có những người mà Thầy đã hướng dẫn được thì Thầy thị
tịch. Thầy ra đi, không để lại một vết tích nào, công lao nào của Thầy
đối với con người, đối với Phật giáo ở trong thế gian này. Nhưng
cuối cùng thì không được, cho nên buộc lòng Thầy phải nói lên cái
Giáo án này để cho mọi người sau này hiểu biết được con đường của
đạo Phật, nó không phải như người ta đang tu tập hiện bây giờ nhu người
ta đang hiểu Phật giáo bây giờ.
Trước tiên, Thầy
xin thuật lại khi mà tu xong làm chủ được cái sự sanh tử, sự sống
chết rồi thì Thầy trở về thăm Hoà Thượng ở trên Chơn Không. Thì lúc
bấy giờ trong cái bài mà thỉnh nguyện thì Thầy có nhắc lại một cái
phần đó. Để cho quý thầy hiểu rõ hơn thì Thầy sẽ đọc lại cái bài
thỉnh nguyện này để cho quý thầy thấy rõ. Cái bài này cách đây 7
năm, năm đó là năm 1990, ngày 26 tháng 03 năm 1990. Còn cái ngày mà âm
lịch, thì đó là ngày 3 tháng 02 âm lịch, năm Canh Ngọ, Thầy về Thường
Chiếu, Thầy thỉnh nguyện cái bài này, trong khi cái Tu viện Chơn Lạc,
Hoà Thượng Thanh Từ đã giao cho Thầy cái khu đất đó để xây dựng cái Tu
Viện Chơn Lạc đó, thì lúc bấy giờ nó có những cái duyên rất là
khó khăn mà chính bây giờ Trung Tâm An dưỡng ra đời cũng muốn xây dựng
ở trên khu đất đó, để mà thực hiện cái hoài bão đem cái đạo đức
của Phật giáo đến với mọi con người, làm cho con người giải thoát
từ bàn tay của họ, từ khối óc của họ. Họ làm điều thiện, họ đem
lại sự hạnh phúc đó cho họ, họ làm điều ác thì họ phải mang lấy
hậu quả khổ đau của chính họ. Vì biết rõ đường đi nhân quả cho nên
Thầy có cái hoài bão đó.
À, đây Thầy sẽ đọc
lại cái bài thỉnh nguyện mà cách đây 7 năm, chứ không phải mới đây
đâu. Đây quý Thầy nghe cái bài thỉnh nguyện:
“Nam mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật!
Kính bạch Thầy và
đại chúng!
Con tỳ-kheo Thích
Thông Lạc, hôm nay có duyên sự xin đầu thành đảnh lễ tác bạch sám hối.
Kính bạch Thầy và
đại chúng!
Từ ngày con về Chơn
Không học thiền với Thầy, con đã ngộ những gì và tu tập như thế nào?
Kính bạch Thầy và
đại chúng!
Trong
ba tháng hạ năm ấy, năm 1970. Con đã nghe Thầy giảng kinh Kim Cang đến câu: “Bồ
tát độ chúng sanh trong bốn loài mà không thấy mình độ, độ hết chúng sanh thì
thành Phật”. Thầy giảng câu này cho chúng con nghe, đó là vọng
tưởng, độ hết chúng sanh tức là hết vọng tưởng, hết vọng tưởng tức là thành
Phật.
Lại
nữa, cũng Kinh đó Thầy giảng câu: “Hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc và quá khứ tâm
bất khả đắc”. Con ngộ câu này: “Tâm quá khứ và vị lai là vọng
tưởng, tâm hiện tại là tác ý”. Ngộ hai câu kinh này con đặt trọn niềm tin ở
Thầy là một Thiền sư đắc đạo mới hiểu được như vậy.
Quét hết vọng tưởng,
dùng tác ý để thành Phật, bấy giờ tâm con đều buông xuống hết. Con không còn
tha thiết cái ăn, cái ngủ, cái mặc. Dẹp sạch, cả ngủ nghỉ con cũng không còn
ham thích nữa. Con không còn ham học hay tìm hiểu về Kinh sách nữa. Con từ
khước dịch thuật khi Thầy giao cho con một tập kinh trong bộ Đại Tạng, con từ
giã tất cả những gì của thế gian, quyết lòng thực hiện cho bằng được.
Trong chúng chỉ có
mười huynh đệ cùng nhau tu học, con thường tìm cách xa bạn bè, tránh nói chuyện
tào lao, nghị luận, tìm nơi vắng vẻ, năng nổ tu hành.
Con tự nghĩ người
xưa chỉ ngộ một câu rồi dẹp tất cả, tìm lấy con đường giải thoát cho mình như
ngài Đại Mai ngộ câu “Tức tâm, tức Phật”, rời Mã Tổ đến núi Đại Mai nỗ lực tu
hành. Lục Tổ Huệ Năng ngộ câu: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”, từ giã mẹ già
đến chùa Quỳnh Mai nỗ lực thực hiện, quét sạch vọng tưởng trong lao tác, chẳng
học tập gì hết. Ngài Dược Sơn ngộ câu “Nhướng mày, chớp mắt, không nhướng mày,
chớp mắt”, ba năm không làm một điều gì hết, da mỏng da dày đều hết sạch”. Bởi
vậy ngộ là để tu chứ không phải để tìm văn trích cú, hiểu biết nhiều, kiến giải
sâu. Ngộ là để thực hiện sự làm chủ thân tâm mình ra khỏi nhà sanh tử luân hồi.
Kính bạch Thầy và
đại chúng!
Suốt mười năm trong
thất con quét sạch vọng tưởng, dùng tác ý. Đầu tiên con được Thầy dạy pháp môn
Tri Vọng; biết vọng liền buông. Nhờ pháp môn này con đã dẹp gần hết vọng tưởng,
nhưng thật chưa sạch. Năm cuối cùng con dùng pháp hơi thở nhiếp sạch, nhiếp
mạnh, hoàn toàn ức chế được tâm mình. Con thành tựu dùng Tác ý kéo dài thời
gian này bảy ngày đêm liên tục không biết đói khát.
Tiếp tục suốt hai
tháng con không còn nghe, thấy, biết gì bên ngoài và không còn cảm giác đau
nhức, nóng lạnh khó chịu. Duy nhất con không mất tâm thức của con, rất tỉnh
táo.
Rồi một hôm ngón
chân con đụng vào bàn Phật, hơi thở con bắt đầu thở trở lại. Biến cố xảy ra
trong con, toàn thân con có sự thay đổi. Con có cảm giác như toàn thân con nhẹ
nhàng thanh thản. Các công án, các tắc ở trong Bích Nham Lục con đều hiểu rõ.
Con thấy các Tổ tu như thế nào chứng, tu như thế nào không chứng? Con biết
sạch! Cũng như hiện giờ Thầy và con là một hay là hai con cũng đều biết. Con đã
có trí tuệ và có thiền định. Thầy nói con, con đều đáp đúng như ý của Thầy,
không bao giờ con đáp sai ý Thầy. Thầy lấy kinh Lăng Già ấn chứng cho con. Sau
này con có về trình thầy hai lần nữa. Những trạng thái trong định, Thầy đều
cho rằng tất cả những điều mà con nhập định là đúng.
Kính bạch Thầy và
đại chúng!
Khi về trình Thầy
lần đầu tiên, biết duyên mình chưa đủ với chúng sanh, con khéo léo xin Thầy ra
đi. Trước là để niềm tin cho chúng thấy sự Nhập định và làm chủ sự sống chết
của con, để họ theo Thầy tu tập và con sẽ ghi lại những kinh nghiệm để lại cho
Thầy. Nhưng Thầy yêu cầu con ở lại giúp Thầy chấn hưng thiền Lý, Trần. Do sự
yêu cầu này con ở lại đem hết sức mình giúp Thầy giữ gìn con đường Thiền Tông
phát triển lâu dài.
Mười năm làm Phật sự
đã qua, con gặp nhiều cay đắng cam go và thử thách vô vàn. Con chẳng sờn lòng,
miễn Thầy trò hiểu nhau như lời Thầy đã dạy con: “Chẳng sợ ngại gì, chỉ Thầy
trò hiểu nhau là hơn hết”, con tin ở lời này.
Kính bạch Thầy và
đại chúng!
Con chẳng tự xưng
mình chứng quả A-La-Hán, nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Khi gặp
thầy đắc pháp ở Thường Chiếu, Thầy có giảng nói về trạng thái của Sơ thiền cho
đến Tứ thiền, con đáp lại lời Thầy: “giống thì có giống, nhưng có chỗ không
giống”. Cũng như là Tứ Không, Diệt Tận Định, chẳng có ai trực tiếp dạy con nhập
các thiền, các định này. Nên làm sao dám xác định nhập các thiền các định. Chỉ
dò theo trạng thái lúc nhập, lúc nhiếp tâm nhập định, phỏng chừng theo kiến
giải chữ nghĩa trong kinh điển mà nói ra. Đó là kiến thức chứ không phải thiền
định.
Và con cũng chẳng
bao giờ tự khoe mình có thần thông phép lạ xuất hồn, nói Túc mạng minh. Thế mà
người ta đồn đại, nhất là từ ngày thầy Thông Huyễn (Chân Quang) trú tại Chơn
Như, sự đồn đại ấy càng ngày càng nhiều.
Kính bạch Thầy và
đại chúng!
Sự hiểu biết của Trí
tuệ học hỏi làm sao hiểu được Kinh điển, nội tâm tu hành của kẻ khác. Thầy
Thông Huyễn là một người thông minh, có trí nhớ đặc biệt và có học thức. Nhưng
kiến giải qua sự hiểu biết của trí thế gian thì bảo sao không xây dựng trên ảo
tưởng huyền thoại, và đó cũng là sở trường của thầy Thông Huyễn.
Kính bạch Thầy và
đại chúng!
Hôm nay nhân duyên
làm Phật sự của con không đủ, nên xin Thầy và đại chúng chứng minh, kể từ ngày
nay con sẽ không chỉ dạy kinh nghiệm này cho ai nữa. Nó là một thứ thiền ngoại
đạo như lời Thầy đã dạy. Đất nước này, thời điểm này, Thầy là người có công
chấn hưng lại Thiền Tông Việt Nam .
Con là đệ tử của Thầy, trợ giúp Thầy, vô tình đã làm Thầy buồn. Vậy con xin sám
hối Thầy và đại chúng. Từ nay về sau con không làm phiền lòng Thầy nữa. Mỗi
tháng con sẽ về xin thỉnh nguyện sám hối một lần để có những lỗi lầm nhờ Thầy
và đại chúng chỉ dạy cho, để được con làm tròn bổn phận là người đệ tử biết ơn
sâu dày.
Kính bạch Thầy và
đại chúng!
Ơn nghĩa Thầy khai
ngộ con thấu suốt được lý giải thoát sanh tử, làm sao con quên được. Lời khích
lệ năm xưa còn văng vẳng bên tai “Phật pháp còn mãi thế gian là còn người tu
chứng”. Những lời này ghi khắc mãi trong tâm con. Ngày nay, con đã làm chủ được
thân tâm, bản ngã đã tiêu mòn, danh lợi đã sạch, sanh tử đã tự tại là nhờ ơn
đức của Thầy. Ơn đức này sánh dường trời biển, hơn cả công sinh thành dưỡng dục
của mẹ cha. Biết lấy chi so sánh được. Một lần nữa con cúi xin Thầy mở lượng từ
bi lân mẫn cho con sám hối. Từ đây về sau con sẽ làm Thầy vui lòng để đền đáp
ơn sâu dày trong muôn một.
Sau cùng con xin
phép Thầy, khi Thầy ra đi con sẽ cùng Thầy, cùng với Thầy ra đi nếu chẳng còn
ai theo con tu học nữa. Khi con ra đi, con không lưu lại dấu vết gì, nếu lưu
lại con tự nghĩ là một việc làm bất nghĩa.
Bài thỉnh nguyện sám
hối này ngày 30 tháng 2 năm Canh Ngọ, tức ngày 26 tháng 3 năm 1990 tại Thiền
viện Thường Chiếu.
Đó là cái bài
mà Thầy đã thỉnh nguyện để xin sám hối qua cái vấn đề mà Thiền
viện Chơn Lạc đã có cái sự làm cho rối loạn ở cả cái Tu Viện Thường
Chiếu. Hầu hết là tu sĩ lúc bấy giờ xin đăng ký ra ngoài đó, làm
náo loạn. Cho nên đó là cái sự rất là đau lòng, mà quý Thầy
không thấy rằng cái sự đang chuyển tiếp để mà Thầy âm thầm giúp cho
Hoà Thượng. Nhưng quý thầy nghe đến cái sự làm chủ sanh tử thì quá
ham. Cho nên từ đó quý thầy không thấy rằng do chính quý thầy đã tạo
những cái điều kiện này, vì vậy mà Tu Viện Chơn Lạc bị đổ vỡ. Khi
đó nó có cái sự làm cho Thường Chiếu nó vắng vẻ đi, làm cho Thường
Chiếu không còn người nữa đi, thì lúc bấy giờ Hoà Thượng làm sao đây,
nghĩ gì đây? Quý thầy không thấy điều đó, người nào cũng đăng ký ra
Chơn Lạc hết. Nhất là những thầy mà cao thủ, những thầy mà hiện bây
giờ gọi là cấp lãnh đạo. Trừ ra những thầy mà đang giữ gìn rường
mối của Thiền Viện Thường Chiếu thì không nói, còn những thầy trẻ
trẻ tuổi nhỏ sau này mà bây gờ là nòng cốt của các Thiền viện đó
thì các Thầy đều xin đi hết, đi theo Thầy ra ngoài đó.
Cho nên do đó mà
cái duyên nó không đủ, buộc lòng Thầy phải về xin sám hối cái bài
thỉnh nguyện này thì quý thầy thấy đã cách đây 7 năm. Do đó nó sẽ
không đem đến một cái kết quả, thay vì cái lần đầu tiên khi Thầy về,
Thầy trình bày như trong cái lời thỉnh nguyện này thì nếu mà Hoà
Thượng đã nhận được cái điều kiện đầu tiên thì Thầy xin nhập diệt.
Và trước khi nhập diệt Thầy cũng xin Hoà Thượng Thầy sẽ nhập định 7 ngày
đêm ở tại Chơn Không để cho tất cả tăng ni đệ tử mà đang theo Hoà
Thượng tu hành chứng kiến được cái sự nhập định. Và vì vậy, họ thấy
được cái sự tự tại và cái mà Như ý túc, Định như ý túc, nghĩa là
muốn như thế nào là đạt được như thế nấy. Đó gọi là thực hiện cái
định. Và sau khi mà nhập định 7 ngày đêm, Thầy xuất Định ra, và trong
khi có đủ mặt chúng ở đó, Thầy sẽ từ giã thầy và đại chúng và nhập
diệt, bỏ thân tại đó. Và sau đó Thầy xin Hoà Thượng thiêu xác thân của
Thầy rồi đem đổ xuống biển, đừng xây tháp xây gì hết. Coi như hoàn
toàn không còn cái vật gì mà để lại. Thầy chỉ còn lưu lại cái tài
liệu cho Hoà Thượng, mà theo cái tài liệu đó mà hướng dẫn người ta từ
cái Giới luật của Phật, phải sống như thế nào để giữ giới hạnh và tu
tập những cái thiền định như thế nào để mà làm chủ được, nhập được
định mà làm chủ được sống chết như vậy, một cách rất tự tại như
vậy?
Đó là cái điều
kiện mà Thầy đã muốn giúp Hoà Thượng. Ngay từ khi mà mình thành tựu 10
năm ở trong thất, thì Thầy thấy không còn- đối với Thầy danh lợi
không còn nữa, mà Thầy chỉ còn có tình nghĩa Thầy trò để mà giúp
nhau, để mà xây dựng lại Phật pháp đem lại Thiền Tông mà thôi. Mà
lấy bản thân của Thầy, lấy kinh nghiệm của Thầy để làm cái đó cho
mọi người sáng suốt được Phật pháp, làm cho người ta thấy được Phật
pháp.
Nhưng rồi Hoà
Thượng lại không có cái ý đó, mà lại muốn Thầy ở lại để cho có một
người đệ tử một bên thầy mà giúp đỡ. Từ đó khi mà Thầy về thì Hoà
Thượng có nhắc “Trong cái chuyến về này thì Thông Lạc hãy ghé thăm
các Chiếu”. Nhưng mà Thầy không có ghé thăm, Thầy đi về luôn. Do đó thì
khi Hoà Thượng hỏi lại, Thầy có về thăm không? Thì trong các Chiếu nói
không có, Thầy Thông Lạc không có về. Cho nên Hoà Thượng nói quý thầy cử
mỗi thầy ở mỗi cái Chiếu đại diện về thỉnh Thầy thì Thầy mới về, chứ
còn không thể nào mà Thầy về đâu. Do đó thì có một cái chuyến xe, mà mỗi
Chiếu đều có một vị đại diện về đây để Thỉnh thầy. Sau khi được
thỉnh thì Thầy mới về thăm Thường Chiếu và các Chiếu.
Sau chuyến thăm đó
thì có nhiều cái tư tưởng chống đối, rồi cũng có nhiều tư tưởng kê
là ganh tị đó. Thầy nói rõ ra là hầu hết là cái người mà phàm phu
thì họ chưa thấy. Như vậy Thầy đã hiểu biết cái tâm trạng đó, cho nên
đến đó hỏi Thầy, Thầy chỉ nói qua loa, không bao giờ mà nói lộ ra một
cái gì mà gọi là cái kinh nghiệm tu hành của mình. Tại sao vậy? Tại
vì người ta không có tin mình, mà người ta có lòng ganh tị. Tại sao
Thầy được Hoà Thượng cho rằng Thầy tu chứng như thế này, thế khác. Do
đó, từ đó khi chuyến thăm về rồi thì Thầy đã thấy nảy nở ở trong
tâm huynh đệ của mình có những cái sự chống đối chứ chưa phải họ
quyết tìm con đường giải thoát. Cho nên khi mà về thăm, khi Thầy tu xong
Thầy về thăm, Thầy cũng đã hiểu được tâm của chúng sanh rồi, cho nên
Thầy chỉ muốn làm cái niềm tin cho họ đối với Hoà Thượng hơn là ở
Thầy. Còn Thầy mà ở lại mà giúp Hoà Thượng thì chẳng qua là một sự
tranh chấp mà thôi. Họ đâu có muốn Thầy về mà làm Thầy của họ đâu? Cho
nên vì vậy đó, họ muốn họ bao giờ cũng phải có một cái sự điều khiển
hoặc là được Hoà Thượng giao cái sự điều khiển đó chứ không phải giao
cho Thầy. Cho nên Thầy thấy điều đó là một cái điều khó. Nhưng lần lượt
thì Thầy không thể nào mà sống ở trong các Chiếu với Hoà Thượng để
giúp đỡ các huynh đệ được là do cái tâm đó.
Vì vậy sau này
Hoà Thượng giao cho Thầy cái khu đất ở Phước Hải được người Phật tử
cúng dường, rồi Hoà Thượng đặt cho nó cái tên là Chơn Lạc để lấy cái
tên của nó. Do đó mới giao khu đất, giao khu đất thì Thầy ra Thầy cất
những cái thất nhỏ nhỏ như ở đây mình vậy, cũng bằng tầm vông trúc
tre vậy. Mỗi thầy đều đăng ký xin một cái thất, ở trong khu rừng núi
mà vùng biển như vậy thì có khí hậu rất tốt. Cho nên quý thầy ai
cũng thích, nhất là những thầy mà có cơ thể bị bệnh tật thì thích
ở cái vùng đó để cơ thể khỏe hơn. Cho nên họ đều đăng ký đi hết, vì
vậy mà Thường Chiếu dường như trống. Do vì vậy mà có một sự xảy ra
không hay. Từ đó coi như Hoà Thượng không có chú ý đến cái vấn đề của
tu viện Chơn Lạc nữa, và Hoà Thượng thường thường cứ nhắc “Bây giờ Hoà
Thượng Huệ Hưng thì đang yêu cầu Thông Lạc thì Thông Lạc giúp đỡ Hoà
Thượng Huệ Hưng một tay đi”. À, đẩy Thầy qua một bên góc độ.
Mà Hoà Thượng Huệ
Hưng là một người chỉ có biết Thầy chứ Thầy chưa phải là một đệ tử
của Thầy Huệ Hưng, cho nên Thầy làm sao mà Thầy giúp cho Hoà Thượng Huệ
Hưng. Nhưng Hoà Thượng Huệ Hưng là người có sự đối đãi với người tu
hành rất lịch sự, rất là tốt. Hoà Thượng không có thấy cái ngã của
mình là Hoà Thương, là một vị lãnh đạo tăng cả nước, coi như là Hoà
Thượng đứng ở trong mặt Giáo hội thì Hoà Thượng coi như là Trưởng Ban
Tăng Sự, coi Tăng Ni trong cả nước lận mà, chứ đâu phải là ít. Hoà
Thượng muốn cấp giấy cấp tờ gì cho Tăng Ni đều là quyền của Hoà
Thượng hết. Thế mà Hoà Thượng hạ mình đến mà mời Thầy. Thì thậm chí
đến đây, Hoà Thượng có ý rằng, những công phu tu hành của Thầy như vậy
đó, chỉ có Thầy mới có thể giúp cho Phật giáo sống lại được mà
thôi. Cho nên qua cái ý đó và đồng thời Hoà Thượng có muốn xây dựng
cái Tu Viện chuyên tu ở Tùng Lâm nơi mà của Hoà Thượng Thiện Hòa để
lại đó, để mời Thầy về đó, để mà giúp.
Nhưng mà Thầy thấy
quý Thầy ở Tùng Lâm cũng như quý Thầy ở Ấn Quang họ cũng chẳng có
tâm tha thiết với cái sự đó đâu. Họ chỉ nhắm vào cái phần sống về
danh, về lợi hơn là cái chỗ mà tu hành giải thoát. Cho nên cái ý
của Hoà Thượng là một lẽ. Khi mà Hoà Thượng tịch rồi thì kể như cái
ý đó nó cũng không đi đến đâu. Nhưng mà Thầy thì Thầy không phải nhắm
vào cái chỗ đó, mà Thầy nhắm vào Hoà Thượng để giúp cho Hoà Thượng
(Thanh Từ). Vì một ngày đi nữa cũng là Thầy của mình, làm sao cho cái
con đường thiền của thầy của mình sống mãi. Đó là mình đền đáp ơn
Thầy mình. Nếu mình không nhận Thầy của mình thôi, mà đã nhận Thầy
của mình thì mình phải làm sao cho xứng đáng là người đệ tử.
Như các thầy đã
nghe cái lời thỉnh nguyện của Thầy, dù như thế nào đi nữa tình của
Thầy với Hoà Thượng không bao giờ mà có thể ai ngăn cản được. Ai làm
gì thì làm nhưng mà tâm của Thầy đối với Hoà Thượng vẫn là một bậc
Thầy đáng kính, khả kính của Thầy. Luôn luôn Thầy kính trọng, không bao
giờ mà Thầy coi Hoà Thượng dạy Thiền như thế nào thì Hoà Thượng có quyền
dạy. Nhưng mà Thầy chỉ cần có những cái kinh nghiệm giúp thêm Hoà Thượng
cần, chứ không bao giờ mà Thầy nói Hoà Thượng như thế này, thế khác.
Nhưng có nhiều người họ lại lấy những cái lời của Thầy dạy đúng
đắn, mà họ lại nói rằng Thầy bài bác Hoà Thượng thì cái điều đó là
họ hiểu như thế nào Thầy cũng chẳng hiểu.
Như
quý Thầy thấy, Thầy đem cái Thiền Đông Độ, Thầy so sánh với cái bốn
Thiền của Phật là mục đích Thầy muốn cho Hoà Thượng nhận xét được,
cái nào mà thực hiện được, cái nào mà không thực hiện được. Có như
vậy để giúp Hoà Thượng có những sáng kiến. Từ đó Hoà Thượng đi dần
dần. Cũng như một bức thư của Thượng Toạ Nhất Hạnh gửi cho Hoà Thượng,
nhắc Hoà Thượng như thế này “Chúng ta hãy trở về với cái con đường nguyên thủy”. Có
nhắc Hoà Thượng cái điều đó mà. Các con có thấy bức tâm thư của Thượng
Toạ Nhất Hạnh nhắc Hoà Thượng Thanh Từ “Hoà Thượng hãy trở về với con
đường nguyên thủy”.
Đúng vậy! Sự
thật ra những cái điều mà Thầy nêu lên trong cái lời băng đó là muốn
cho Hoà Thượng trở về với Phật giáo chơn chánh, để giúp cho một số
người đang theo Hoà Thượng đạt được cái kết quả. Sự thật nó là sự thật,
không thể nào mà sai. Nhưng không kết quả. Lần thứ nhất không kết quả.
Lần thứ hai Thiền Viện Chơn Lạc không kết quả. Lần thứ ba, hai cuộn
băng ra đời, nhằm mục đích để mà âm thầm giúp cho Thiền viện Trúc
Lâm. Nhưng lần trở về Thầy đưa cái dự thảo phương án Trung Tâm An Dưỡng,
xin Hoà Thượng đứng ở trong đó để giúp đỡ cho con làm công việc này.
Hoà Thượng nói Hoà Thượng chỉ lo dạy Thiền tu học thôi, chứ không làm
công việc xã hội.
Sự thật ra cái
hình thức thì phải nhìn cái Trung tâm An dưỡng từ thiện, nó là công
việc từ thiện xã hội thật sự đó. Nhưng mà bên trong nó lại lồng vào
một cái đạo đức của đạo Phật rất là lớn, và lợi ích rất lớn cho
con người. Nó không nhắm vào một cái số mà tu Thiền để mà giải
thoát sinh tử tầm thường, mà nó nhắm vào tất cả mọi người có mặt ở
trên hành tinh này. Để đem lại cái đạo đức Nhân quả, để mọi người
thông suốt nó, thì xã hội này rất là trật tự, an ninh, không bao giờ
mà có ai làm cái tội ác nữa hết. Đó là cái Trung Tâm An Dưỡng ra
đời là nhằm cái mục đích đó. Nhưng mà lại một lần nữa, lại không
được Hoà Thượng chấp nhận. Như quý thầy cũng đã biết, không được chấp
nhận. Do đó, bây giờ đứng ở trong một cái vấn đề làm việc lớn này
mà nhân sự của Thầy không có, đệ tử của Thầy cũng chẳng có, thì bây
giờ Thầy còn làm cái gì hơn? Rồi cái khu đất đó thì để cho cây cỏ mọc
chứ làm gì hơn? Bây giờ còn ai hơn nữa?
Cho nên vì vậy mà
gần đây Thầy có ý nghĩ, Thầy chỉ di chúc lại cho những mầm non của
tổ quốc, cho những mầm non sau này. Cái Dự thảo phương án này sẽ có
những đứa bé mới sanh, cũng như đã sanh 5-7 tuổi, những người này
đều là những người có trí tuệ, có thông minh đang học hỏi rất giỏi,
nghĩa là rất thông minh. Chúng nó đang được cha mẹ cho sang ngoại quốc
học vì được học rất giỏi, học giỏi hơn cả trong nước, rất là giỏi.
Nghĩa là được tuyển chọn, được cấp học bổng hẳn hòi đàng hoàng.
Thầy di chúc lại, giao lại cho những đứa bé này. Sau này nó sẽ thay
Thầy tuyên hoá. Học xong nó trở về, nó phục vụ cho dân tộc, cho đất
nước thì nó sẽ làm những công việc này. Đó là những mầm non tương
lai của Phật giáo và cũng là mầm non tương lai của đất nước này. Nó
sẽ đem lại cái đạo đức cho dân tộc này. Còn Thầy thì già rồi và
đồng thời thì cũng không có đủ duyên hợp tác với Giáo hội cũng như với
Hoà Thượng thì Thầy đâu có làm được gì nữa hơn? Cho nên Thầy thấy đúng
lúc là 3 cái giai đoạn mà mình cố gắng để giúp cho đời tu hành đạt
được sự kết quả, làm cho Phật pháp sống lại thì 3 cái giai đoạn đó
không đạt.
Rồi bây giờ về
cái phần mà đem cái đạo đức Nhân quả để dạy con người, thì cũng
chẳng thành, thì còn bây giờ làm cái gì? Thì còn bây giờ còn những
giờ phút này ẩn bóng để chờ cho những đệ tử của mình tu tập cho
xong mà thôi. Còn nếu không, mà không có những người đệ tử đang theo
Thầy tu tập thì chắc chắn là Thầy đã nhập diệt. Chứ mang cái thân này,
các con thấy ngày ngày nó mệt mỏi, mỗi một lần ho, mỗi một lần
bệnh, một lần nhức đầu, mỗi một lần là một cái nghiệp, thọ cái khổ,
bỏ nó đi cho rồi, có gì mà tiếc nó đâu. Ăn thì các thầy thấy là
ngày một bữa, có gì mà phải ngon, mà phải béo bở đâu nữa, mà lại
ham. Người ta ở đời người ta còn ăn ngon, ngủ ngon, người ta còn chạy
theo cái này, cái kia, còn Thầy còn cái gì nữa mà ham. Cho nên đối
với Thầy đã hết rồi. Chỉ còn buôngmà thôi.
Nhưng đáng thương
cho mấy con, đi theo Thầy lỡ dở, cho nên không lẽ mà Thầy bỏ các con.
Cho nên Thầy ẩn bóng, ẩn bóng để theo dõi trên cái sự tu tập của các
con, cho đến khi nào các con thành tựu, thì lúc bấy giờ Thầy sẽ ra đi
vĩnh viễn. Đó là cái nguyện vọng của Thầy.
Chứ bây giờ Thầy
đâu có còn mong mà để Thầy núp sau lưng Hoà Thượng để giúp cho Hoà Thượng
nữa. Hết rồi, ba lần, mà ba lần là quá sức rồi. Các con chưa từng
nghĩ thầy Chơn Tịnh thường thường đưa Thầy về Thường Chiếu, phải nửa
đêm, mà thầy trò chiều thì phải đi về thành phố ngủ. Muốn ra 7-8 giờ
thì ở Thường Chiếu người ta sám hối rồi, người ta thỉnh nguyện rồi
thì mình phải ra cho đúng giờ, chứ phải đâu phải. Cho nên cả thầy
trò phải đi 4-5 giờ phải thức dậy đi, từ thành phố thức dậy đi ra ngoài
đó, rồi sám hối rồi trở về, chứ không phải ở ngoài đó. Bởi vì khó
khăn lắm chứ không phải dễ. Cực khổ lắm chứ không phải dễ. Thế mà
mỗi tháng đều là Thầy về sám hối như vậy, chứ không phải không có.
Nhưng cuối cùng thì Hoà Thượng cũng nói rằng “Ở xa xôi quá cứ về như
vậy thì rất là vất vả, thôi từ cái ngày mà hiểu biết được rồi
thì ở tại chỗ đừng có về nữa, rất cực khổ”.
Đó là Hoà Thượng
nói với Thầy như vậy. Cho nên Thầy không có về sám hối nữa. Để mà
làm cho cái tình hòa hảo giữa huynh đệ cũng như giữa Thầy, nhưng họ
rất là áy náy là vì họ không biết Thầy là cái hạng người nào, như
thế nào mà luôn luôn hạ mình đến mức độ, hạ, không có tưởng tượng
được. Thầy Chơn Tịnh mà đi theo Thầy đó, thầy nói thầy không chịu nổi
được cái lối hạ mình của Thầy. Với huynh đệ cũng vậy, mà với thầy
Viện chủ cũng vậy. Thầy tu hành như vậy mà Thầy hạ mình đến mức.
Thậm chí như thế này này, khi mà đến mà xin sám hối đó, mà Hoà Thượng
ở bên Linh Chiếu, Thầy phải đi qua bên Linh Chiếu, qua bên Linh Chiếu gặp
Hoà Thượng rồi, thì Hoà Thượng ngoe ngẩy, Hoà Thượng bỏ đi về không nói
một lời nào. Thầy vẫn đi theo sau Hoà Thượng, để chứng tỏ một cái tình
người của một người đệ tử rất là hạ mình, biết tôn trọng Thầy
mình, chứ không phải như quý Thầy đâu. Nói hơi nặng lời là quý thầy bỏ
đi liền à. Còn Thầy không có đâu. Hoà Thượng ngoe ngẩy, chống cái gậy
khi mà Thầy qua bên Linh Chiếu gặp Hoà Thượng rồi, thì Hoà Thượng ngoe
ngẩy không nói một lời nào nữa, ngoe ngẩy đi về. Hất hủi một cách
rất là hất hủi, chứ không phải không. Thầy nói nhắc lại đây, các con
chưa có từng thấy đâu. Thầy Chơn Tịnh đi sau Thầy “Thầy chịu đựng nổi
chứ con chịu đựng không nổi, chịu không có nổi”. Thầy nói “Đã là
Thầy của mình là ông cha của mình rồi, tại sao lại là mình chịu
không nổi”?
Đó là những cái
hành động, rồi những khi mà Hoà Thượng tìm mọi cách tránh né không
gặp Thầy, Thầy vẫn bền bỉ ngồi chờ đợi, ngồi chờ đợi có những khi
mà mưa dầm tầm tã. Có những khi chờ đợi để gặp Hoà Thượng xin một
lời sám hối rồi trở về thì có thể nói rằng từ 5giờ 6 giờ, có thể
7 giờ mà vẫn còn ở Thường Chiếu. Mà gặp Hoà Thượng được rồi thì lúc
bấy giờ Thầy với Thầy Chơn Tịnh mới về trong đêm tối, không ở lại
Thường Chiếu. Bởi vì mình biết, ở lại Thường Chiếu thì chẳng có
một sự đối xử nào nghĩa tình với mình cả. Thì các con biết thì
lúc bấy giờ nó không phải là một cái đơn giản. Nhưng mà Thầy vẫn giữ
là người đệ tử rất là biết trọng ơn Thầy. Nhưng mà Thầy nhìn hết
những người đệ tử của Thầy, khó mà tìm được cái người đệ tử mà
đối xử với Thầy như Thầy đối với Hoà Thượng. Khó lắm, khó có lắm, khó
bền bỉ. Cho nên hôm nay Thầy nhắc lại để cho các con thấy rằng, cái
người mà có tình nghĩa, mà có tình nghĩa thầy trò, Thầy thấy mình nó
đã diệt mòn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét