BĂNG SỐ 02
(BBT:CĐ,02B,B00:00:00)
Do đó chúng ta mới dứt được, nó mới không còn trói buộc chúng ta được. Do đó chúng ta mới yên tâm giữ gìn Giới Hạnh, để chúng ta ly dục, ly ác pháp. Nhờ thế, chúng ta mơi ngồi lại tu cái Định Sáng Suốt. Vậy thầy sẽ đọc cho quý thầy nghe bài kệ Nhất Dạ Hiền.
Bây giờ thầy đọc bài kệ: (BBT:BN,01,B00:56:51)
Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng
Chỉ có Pháp hiện tại
Chánh Niệm Tỉnh Giác đây
Tuệ tri quán Vô Lậu
Không động, không rung chuyển
Biết vậy nên tu tập
Hôm nay nhiệt tâm làm
Đêm ngày không mỏi mệt
Xứng gọi Nhất Dạ Hiền
Luôn luôn sống trầm lặng
Bây giờ thầy đọc bài kệ: (BBT:BN,01,B00:56:51)
Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng
Chỉ có Pháp hiện tại
Chánh Niệm Tỉnh Giác đây
Tuệ tri quán Vô Lậu
Không động, không rung chuyển
Biết vậy nên tu tập
Hôm nay nhiệt tâm làm
Đêm ngày không mỏi mệt
Xứng gọi Nhất Dạ Hiền
Luôn luôn sống trầm lặng
Đó là một bài kệ mà thầy nhắn nhủ quý thầy, trầm lặng đó là độc cư đó, sống một mình mình, sống trong cái trạng thái tâm hồn trầm lặng, đừng có lăng xăng, đừng có nhôn nhao ở trong cái tâm của mình. Và cái sự tu tập thì ở đây chỉ rõ đó là hai cái Định: Chánh Niệm Tỉnh Giác Định và cái định Vô Lậu Định. Cho nên hai câu kệ này để hàng ngày hàng đêm quí vị cố gắng mà tu tập trong hiện giờ, chớ không phải tu tập cái hơi thở, mà hãy tu tập hai cái định này trước. Vì cái bước đầu tu theo Đạo Phật, không phải đi vào cái Định mà phải đi vào cái sức Tĩnh Giác, chớ không phải là cái Định. Vì cái Định, nó phải ngưng các hành, còn cái Tĩnh Giác nó không ngưng các hành. Mà chính cái sức Tĩnh Giác nó làm cho cái tuệ tri của chúng ta mới sáng suốt, mới diệt được cái lậu hoặc, làm cho tâm chúng ta vô lậu. Nhớ kĩ mà tu tập, siêng năng mà tu tập, thì cái Định này. Vì quá khứ nó cũng không ích lợi gì cho chúng ta. Mà tương lai thì chúng ta có mơ mộng, có ước vọng cái này cái kia thì nó cũng chưa có đến. Cho nên chúng ta đừng có sống trong thời gian quá khứ, cũng đừng sống trong cái thời gian tương lai, mà hãy chỉ có cái hiện tại. Mà hiện tại thì chúng ta tu cái gì đây, tức là chúng ta tu Chánh Niệm Tĩnh Giác Định và tuệ tri quán vô lậu để cho cái tâm chúng ta không dính mắc vào cái ngã, để tâm chúng ta không dính mắc vào các pháp mà sanh ra tham, sân, si, phiền não. Đó là cái phương pháp mà quý thầy phải siêng năng mà tu tập. Đó, quý thầy nhớ ghi lại cái bài kệ đó. Đó là như vậy, cố gắng hàng ngày lúc nào cũng phải tu tập, không có được biếng trễ những cái pháp này. Cho nên quý thầy nhớ kỹ, cái đời sống của quý thầy hiện giờ ở đây là luôn luôn sống trầm lặng, phải sống trầm lặng, không được nhôn nhao, không được nói chuyện, không được đi lăng xăng mà chỉ đi với sự kinh hành thanh thản trong pháp Chánh Niệm Tĩnh Giác Định mà thôi.
Làm việc cũng vậy, khi những giờ lao động thì quý thầy quét dọn hoặc là nhỏ cỏ cũng tuần tự làm nhẹ nhàng, để tâm trong Chánh Niệm Tĩnh Giác chớ không được làm vội vàng, làm không có tu tập ở trong đó thì nó không ích lợi cho sự của mình.
Cho nên qua bài kệ này, thì quý thầy phải nhớ học thuộc lòng, và thường nhắc nhở sự tu tập của mình hàng phút hàng giây để cho sức Tĩnh Giác và trí tuệ quán xét diệt lậu hoặc, làm cho tâm không còn lậu hoặc nữa, thì mới có sự giải thoát chân thật của Đạo Phật. Qua cái bài kệ này, để nhắc nhở trong hiện tại quý thầy về đây tu tập, nỗ lực thực hiện có pháp để mà tu, không khéo rồi chỉ ... không biết pháp nào mà tu, cứ lo ôm chặt hơi thở mà tu thì không đúng, vì lúc nào dạy hơi thở thì thầy sẽ dạy hơi thở, mà chưa dạy thì quý thầy phải tu hai cái Định đó trước tiên. Chứ nếu quý thầy mà không tu hai cái Định đó thì chắc chắn là quý thầy sẽ đi vào hơi thở không đạt được kết quả tốt của hơi thở đâu.
Bây giờ thầy sẽ tiếp tục, qua cái giáo án vừa rồi, để chúng ta học cái giáo án này cho nó ... trong cái mùa hạ này, cho nó hoàn tất cái giáo án của Đạo Phật đã dạy. Các vị tỳ kheo ngày xưa cũng như bây giờ thì thầy theo cái giáo án này mà dạy quý thầy tu tập trong hiện tại.
Trong cái giáo án thầy có nói rõ ràng là hai cái đời sống rất là cụ thể. Vì cái đời sống của thế gian thì nó theo cái LẠC của thế gian, theo cái dục lạc của thế gian cho nên chúng ta thương ghét giận hờn phiền não nhiều thứ đau khổ. Và cái đời sống của người xuất thế gian, thì nó không còn cái tâm lăng xăng đó nữa và nó không còn cái tâm ham muốn nữa, cho nên nó phóng khoáng như hư không, nó trắng bạch như vỏ ốc, nó làm cho người tu sỹ thanh thản hàng ngày, không còn vướng bận một cái gì trong tâm hồn.
Do cái sự so sánh này mà quý vị đã chọn lấy con đường tu theo Đạo Phật. Mà đã chọn lấy nó rồi thì quý thầy sẽ học tập cái gì trước tiên? Như trong cái giáo án tóm lược này, khi đã quyết tâm cắt ái xuất gia như vậy, quý vị phải siêng năng học tập Giới Luật, không có Giới nào mà quý vị không thuộc. Quý vị phải thường hằng cố gắng sống đúng Giới Luật, không cho phạm phải một lỗi nhỏ, sống đúng nếp sống oai nghi tế hạnh của người tu sỹ Đạo Phật. Vậy muốn mà sống đúng Giới Luật không phạm phải lỗi nhỏ mà quý thầy không học Giới Luật thì làm sao mà quý thầy biết lỗi nào là lỗi nhỏ, lỗi lớn nào, ở trong Giới Luật. Cho nên đến cái giai đoạn này, thầy phải giảng cho quý thầy rõ biết cái Giới Luật, hiểu biết 250 giới luật của người tu sỹ, của người tỳ kheo.
Nhưng quý vị toàn là những người ... có những người là xuất gia mà cũng có người tại gia, cho nên không phải quý vị học giới luật ở đây để rồi quý vị đi ra chê cười những người xuất gia. Khi quý vị đã hiểu biết Giới Luật là để cho quý vị tu tập chớ không để cho quý vị biếm nhẽ người khác, vì Phật giáo không dạy cái điều mà biếm nhẽ người ta. Người ta có phước duyên, thì người ta tu đúng giới luật, thì người ta được giải thoát. Người ta chưa đủ phước duyên, người ta tu từng chút từng chút thì cái sự lỗi lầm của người ta để lần lượt người ta sẽ chữa, chớ không phải để cho quý vị học Giới Luật để quý vị chê cười người ta, mấy vị khinh bỉ người ta.
Còn mình là cư sĩ mà đã thông giới luật, không phải cái thông Giới Luật đó để cho mình đem ra, mình coi rẻ quý thầy. Mà mình thông Giới Luật là để cho mình tu tập, giữ gìn phạm hạnh, tâm hồn thanh tịnh của mình, để mình đi đến chỗ giải thoát hoàn toàn. Cho nên một người tu theo Đạo Phật là một người không khinh chê ai, không khen Pháp này, không chê Pháp kia. Chớ không phải chúng ta đứng ở góc độ tu này chê Pháp người khác. Cho nên Đạo Phật không bài bác, không lý luận, không hý luận chỗ vui đùa bằng cách thích thú của một tâm hồn thế gian: khen và chê.
Vì vậy hôm nay, thầy giảng Giới Luật cho quý vị hiểu biết để cho quý vị tu, chứ không phải để cho quý vị chê cười người khác. Vì người khác người ta phạm Giới, người ta lỗi thì đó là cái nhân quả để người ta gặt hái, người ta chịu cái quả đó, chớ không phải chỗ để quý vị cười chê người ta. Nếu quý vị cười chê người ta, thì quý vị phải gặt hái cái quả cười chê đó dù quý vị là người giữ giới thanh tịnh. Cho nên trong Giới Luật, rất là cấm kị cho những người khen chê, lấy sự hiểu biết của mình chê người khác, lấy Pháp tu của mình bài bác Pháp của người khác, là sai, không đúng Phạm Hạnh của người tu theo đạo Phật. Người tu theo Đạo Phật thì không bao giờ có sự khinh chê ai cả, nghèo chúng ta không khinh, giàu chúng ta không nịnh bợ, người học dở chúng ta không khinh, người học hay chúng ta không khen. Do chỗ tu hành giải thoát chứ không phải do chỗ khen chê đó.
Cho nên từ đây về sau, quý thầy học được Giới Luật ở đây giảng dạy, và quý thầy đã cố giữ gìn được, thì quý thầy hãy thương xót những người ... người ta chưa làm đúng chớ không được khinh chê bài bác họ. Không được ở đây ra chỗ khác mà chỉ trích họ bằng cách này, bằng cách khác. Nếu ai làm trái lời dạy của Thầy ở đây thì sẽ đoạ địa ngục, vì làm cho Phật Pháp chia rẽ, vì làm cho Phật Pháp suy đồi thêm, không ích lợi cho quý vị, mà làm đau lòng - rạn nứt trong một đại gia đình tôn giáo Phật Giáo.
Quý vị nhớ kỹ, những lời này quý vị sẽ phải gắng ghi ở trong lòng quý vị, không được đem Giới Luật hiểu biết của quý vị chê cười người khác. Thầy nhắc lại một lần nữa để quý vị nhớ kỹ: Khi học Giới Luật, không được khinh chê người phạm Giới. Lần lượt mình hãy giữ mình cho đúng Giới Luật của Phật. Những người phạm Giới người ta sẽ theo đó mà sửa mình, chớ không được chỉ trích họ.
Thầy tin rằng, khi những lời Thầy dặn bảo và khuyên lơn quý thầy, quý vị, thì quý vị hãy cố gắng mà nghe những lời Thầy dạy để cho một cái đại gia đình Phật Giáo không có sự rạn nứt, mà có một tình thương nhau, chị ngã em nâng, chớ không thể nào chúng ta thấy những người khác phạm Giới mà chúng ta coi thường họ. Người tu sĩ Phật Giáo biết thương yêu chớ không biết thù hận, người tu sĩ Phật Giáo biết giúp đỡ, không biết từ bỏ những sự giúp đỡ của những người phạm phải những lỗi lầm. Người tu sĩ Phật Giáo biết tha thứ, không biết cố chấp, không có cố chấp. Vì vậy, chúng ta tu hành thì phải giữ mình cho trọn vẹn những Đức Hạnh đó.
Đến đây, Thầy nhắc lại cái phần chọn lựa hai con đường tu tập, để quý thầy thấy sự chọn lựa như thế nào cho đúng, để mà chúng ta bước vào con đường tu hành của Đạo Phật.
Trên giai đoạn tu tập thứ hai này, quý vị cần phải tư duy nhiều hơn để thấy rõ mặt thực của đời sống.
Một, ai mang cái thân này lại tự cho là không bệnh, không khổ dù chỉ trong một phút giây ngắn ngủi, người ấy, quý vị phải xác định họ là người ngu. Nghĩa là trong khi chúng ta đang mang cái thân này, mà chúng ta cho rằng không bệnh khổ, không có giận hờn phiền não, không có đau khổ thì chúng ta thấy đó là một người ngu chớ không phải là người thông minh. Một người thông minh nào cũng nhận biết rằng ai mang cái thân này thì cũng phải có bệnh, có chết, có khổ, có già, có suy nhược. Thì tất cả mọi thứ đó đều là cái khổ cho đời người. Vì vậy mà người thấy mang cái thân này không bệnh, không khổ là cái người không có trí tuệ, là người ngu.
Hai, người có thân bệnh và tâm bệnh là người vô minh, điên loạn, lầm chấp ngũ uẩn là ngã. Nghĩa là cái thân mà bệnh, cái tâm mà lo lắng, thì người đó gọi là người vô minh. Người có thân bệnh, mà tâm thanh thản, không lo, không buồn, không rầu thì người đó là người không chấp ngã, không chấp ngũ uẩn là ngã.
Ngũ uẩn là gì? Là sắc, là thọ, là tưởng, là hành, là thức. Đó gọi là ngũ uẩn. Vì lầm chấp ngũ uẩn là ngã, cho nên thân có bệnh thì tâm lo rầu, hoặc có đối tượng gì, có sự việc gì thì tâm giận, tâm hờn, tâm đau khổ, tâm phiền não.
Ba, người có thân bệnh mà tâm không bệnh là người trí, sáng suốt, không chấp thân ngũ uẩn là ngã. Nghĩa là cái người, mà nhận biết cái thân ngũ uẩn này không phải là ngã của mình, thì do đó khi thân có bệnh, họ vẫn thản nhiên, họ vẫn thanh thản mà không phải buồn rầu, lo lắng thì đó là họ không chấp ngũ uẩn ... không chấp thân ngũ uẩn. Chỉ vì ngu si, vô minh, không nhận thấy đúng lẽ thật, lầm chấp cho sắc là tự ngã. Cái thứ nhất là mình lầm chấp mình là cái sắc đây, tức là cái thân tứ đại này, cho nó là cái ngã của mình. Cái thứ hai mình lầm chấp cho cái cảm giác đau đớn đó là cái tự ngã của mình. Cái thứ ba, mình lầm chấp cái sự suy tư, tư niệm của mình trong đầu của mình, tưởng cái này, nhớ cái kia, đó là mình cho đó là cái tự ngã của mình. Rồi mình còn lầm chấp những cái hành động, mình cho đó, những hành động đó là tự ngã của mình hoặc là mình lầm chấp cái thức, cái biết của mình đó là tự ngã của mình, nên mới đời sống có sầu bi khổ não và ưu phiền. Vì mình lầm chấp cái thân ngũ uẩn này, thì do đó mình mới có đau khổ. Còn nếu mình không lầm chấp như vậy thì mình sẽ không đau khổ. Do vì có cái thân này, cho nên chúng ta lầm chấp, cho nó là ngã, cho nên mọi thứ dục lạc trên thế gian này chúng ta đều phục vụ cho cái lầm chấp đó mà trở thành một cuộc sống đau khổ. Bởi vậy, Phật dạy có hai lộ trình mà quý vị phải chọn lấy một. Nghĩa là hai lộ trình là hai cái cuộc sống của chúng ta, một cái cuộc sống ở ngoài đời và một cuộc sống ở trong Đạo, đó là hai cái lộ trình mà Phật dạy chúng ta phải chọn lấy một lộ trình.
Một, có một lộ trình, đưa đến thân kiến, kiến lập tập khởi đời sống thế gian. Nghĩa là cái lộ trình mà hiện mà mọi người đang đi ở trong cái thế gian này, đang sống ở trong thế gian này, đó là cái lộ trình thân kiến. Thân kiến nghĩa là chấp cái thân của mình, chấp cái sắc của mình, chấp cái thọ cái tưởng hành thức của mình, tưởng đây là cái ngã của mình đó. Đó là cái lộ trình thức nhất, mà tập khởi những sự đau khổ, huân lên những cái sự đau khổ cho suốt cả một cái đời người. Đó là lộ trình thứ nhất.
Lộ trình thứ hai, có một lộ trình đưa đến thân kiến đoạn diệt, đời sống xuất thế gian. Vì cái lộ trình này, đưa đến con người không có còn chấp cái thân nữa, không còn chấp cái tự ngã nữa, cho nên thân kiến đoạn diệt, cái sự hiểu biết về thân nó bị đoạn diệt hoàn toàn, nó không có một cái đối tượng, một cái vật mà chúng ta chấp nó là cái ngã của chúng ta. Cho nên cái lộ trình này là cái lộ trình của đời sống xuất gia. Cho nên hai lộ trình này ta phải chọn lấy một lộ trình để mà chúng ta đi.
Lộ trình thứ nhất, quý vị thấy sắc thọ tưởng hành thức là thật, là thật có nên chấp nó làm tự ngã. Lộ trình này đưa đến sự hiểu biết dính mắc các pháp nên đau khổ dẫy đầy, nghĩa là cái lộ trình thứ nhất này, thấy các pháp thì quý vị chạy theo các pháp, dính mắc các pháp, không thể nào xa lìa được các pháp. Do đó mà quý vị phải chịu những điều đau khổ suốt cuộc đời.
Lộ trình thứ hai, thấy biết sắc thọ tưởng hành thức không phải là tự ngã, con đường này đưa đến thân kiến đoạn diệt, đưa đến sự chấm dứt đau khổ, không còn nữa. Đó là quý vị chọn lấy hai cái lộ trình, cái lộ trình đời sống thế gian và cái lộ trình đời sống xuất thế gian mà cái giáo án của Phật đã vạch cho chúng ta thấy, để mà chúng ta suy ngẫm chọn lấy, so sánh mà chọn lấy hai cái lộ trình đó. Cho nên hôm nay Thầy bổ túc thêm về cái phần để thấy được hai cái lộ trình rõ ràng. Vậy thì bây giờ, quý vị đã chọn lấy cái lộ trình xuất gia, tu theo Đạo Phật để đến cái cuối cùng...cái mục đích cuối cùng là sự giải thoát, khỏi, chấm dứt luân hồi, sanh tử và đau khổ.
Vậy thì, muốn mà chọn lấy đường mà xuất gia thì quý vị phải học 250 giới chớ không phải Thập Giới Sa Di. 250 giới sẽ giúp cho quý vị thấy được một cái nền tảng vững chắc, mỗi cái lỗi lầm của quý vị, quý vị sẽ thấy rõ, mà quý vị sẽ tránh, không có được lỗi lầm, mỗi cái lỗi nhỏ đó.
Trong giáo án của Đức Phật, giai đoạn thứ hai, là lộ trình thứ hai đó, khi quý vị đã chấp nhận đời sống xuất gia tu hành, quý vị phải học thuộc 250 giới tỳ kheo. Còn bên nữ, quý vị phải học thuộc 348 giới. Khi quý vị tiếp nhận một đời sống tu sĩ, thì đương nhiên quý vị phải được từ Giới Luật sinh ra với thân huệ mãn. Ấy vậy mà không mấy ai lấy làm quan trọng sự được sinh ra ấy. Nghĩa là trong cái chỗ này, quý vị khi tiếp nhận, qua cái đời sống xuất gia, thì quý vị phải thấy rằng cái thân mạng của quý vị, do từ Giới sanh ra, chớ không phải do cha mẹ sanh ra nữa, không phải do cái tâm ham muốn sanh ra nữa mà phải do từ Giới Luật sanh ra mình. Cho nên Giới Luật rất là quan trọng, đương nhiên coi quý vị bước chân vào Đạo, quý vị xuất gia, quý vị được xem mình là phải do từ Giới Luật sanh ra, từ Giới Luật sanh ra quý vị, chớ không phải do cha mẹ sanh ra quý vị nữa. Mặc dù thân xác của quý vị hiện có, là cái thân ngũ uẩn này được cha mẹ sanh ra, nhưng tâm hồn của quý vị bắt đầu không còn ở trong trạng thái của cái thân ngũ uẩn, trong cái cuộc sống thế gian nữa. Tâm hồn của quý vị phải được Giới sanh ra, làm cho quý vị sống trong Giới Luật của Đạo Phật, của Đức Phật.
Giới Luật của Phật chia ra làm tám loại từ nặng tới nhẹ. Bây giờ quý vị đã hiểu được rằng quý vị đi vào con đường xuất gia, là từ Giới Luật sanh ra quý vị. Vậy thì Giới Luật là cha mẹ của quý vị, vậy quý vị phải hiểu nó như thế nào? Cho nên, ở đây, Phật chia ra làm tám loại từ nặng tới nhẹ. Cho nên chúng ta phải hiểu biết cha mẹ sanh mình ra trong Giới Luật này thì phải biết nó có tám loại, chớ không thể thiếu sự hiểu biết này được.
Một, Ba-la-di có bốn giới.
Hai, Tăng tàn có mười ba giới.
Ba, Bất định có hai giới.
Bốn, Xả đoạ có ba chục giới.
Năm, Đơn đoạ có chín mươi giới.
Sáu, Hướng bỉ hối có bốn giới.
Bảy, Chúng học có một trăm giới.
Tám, Diệt tránh có bảy giới.
Nghĩa của mỗi giới, ở đây Thầy sẽ giải thích cho quý thầy hiểu những cái danh từ mà người ta dịch âm ra bằng tiếng Phạn, như Ba-la-di, thì Thầy sẽ giải nghĩa để quý vị hiểu cái danh từ đó nó có những nghĩa gì qua tiếng Việt của chúng ta.
Ba-la-di có sáu nghĩa. Một là bị đuổi ra khỏi chúng, hai là Tha thắng, là bị cảnh lôi cuốn, ba là vô dư - không còn phương pháp nào cứu chữa được, bốn là cực ác - rất là xấu - tội rất nặng, năm là đoạn đầu - là đứt đầu, sáu là đoạ phú xứ, đoạ vào ba đường ác. Nghĩa là cái giới Ba-la-di, ai mà phạm vào thì đoạ vào địa ngục, coi đương nhiên đối với Đạo Phật là sự tu tập đã chấm dứt, đứt đầu. Mà cái tội Ba-la-di là cái tộ rất nặng, rất xấu. Cái tội đó không có phương pháp nào cứu chữa, không có sám hối hoặc là làm cái gì cứu chữa được hết. Cái người mà phạm tội Ba-la-di này là bị cảnh trần lôi cuốn, không còn có thể trở lại được, cũng như bị dòng nước, xói, mà cuốn chúng ta trôi đi, mà không cách nào cứu chữa được. Và cái tội Ba-la-di này là tội bị đuổi ra khỏi chúng, không còn sống ở trong đại chúng được nữa. Đó là cái giới mà bị đuổi, không còn có thể nào còn chấp ở trong chúng tu tập được nữa.
Tăng tàn là cái giới biệt trụ. Nghĩa là cái người mà phạm cái giới Tăng tàn này, thì khi phạm giới, thì người ta bắt người đó cấm phòng, không có cho ra, hoặc là biệt trú cho người đó vào một trụ xứ nào, mà không có được sống ở trong chúng. Mất quyền của một vị tăng, nghĩa là cái người đó không còn làm cái quyền gì ở trong tăng hết, không có làm trụ trì, không có đi thuyết giảng, không có làm mọi vật gì hêt, thì cái giới Tăng tàn mà một vị tu sĩ mà phạm phải thì bị phạt như vậy đó.
Cái giới Bất định còn có cái tên là Thâu-lang-giá, tức là dịch âm của tiếng Phạn ra. Cái giới Bất định này nó không phạm vào cái giới Ba-la-di, mà cũng chưa phạm vào cái giới Tăng tàn, cho nên nó gọi là cái giới Bất định. Vì vậy mà khi xét cái giới này, mà để xử phạt cái người mà phạm cái giới này thì xét cho rõ, nếu nó phạm vào cái giới Ba-la-di thì phạt theo giới luật Ba-la-di, mà nó phạm vào cái giới Tăng tàn thì phạt nó vào cái giới Tăng tàn. Cho nên giới Bất định này thì nó xử phạt theo hai giới kia. Nếu mà nó đã nặng ở bên nào thì chúng ta sẽ xử phạt nó theo bên nấy.
Xả đoạ, cái giới Xả đoạ còn có cái tên là Ni-tắc-kỳ hoặc là Ba-dật-đề, Ni-tắc-kỳ Ba-dật-đề nó có cái tên tiếng Phạn là ... dịch nghĩa nó ra là Xả đoạ. Nghĩa là cái tội này, thì chỉ xin sám hối và xả bỏ những cái vật sở hữu mà mình cất giữ không đúng, gọi là Xả đoạ. Sám hối rồi giao những cái vật, vật dụng mà mình nhận, mình cất giữ không đúng cách của một tu sĩ, thì giao trả lại cho Tăng đoàn, cho Giáo hội, thì người này chỉ sám hối là xong chớ không có gì hết.
Đơn đoạ, là Ba-dật-đề, cái tên dịch âm của tiếng Phạn là Ba-dật-đề, dịch nghĩa của nó ra là Đơn đoạ. Cái người mà phạm phải cái giới này thì phát lồ sám hối, rồi ăn năn chừa bỏ không có phạm nữa, thì đương nhiên là sám hối thì sẽ hết.
Cái giới Hướng bỉ hối còn có cái tên là Ba-la-đề-xá-ni, tức là dịch âm tiếng Phạn ra. Cái giới này khi mà phạm phải thì mình phát lồ nói rõ những sự lỗi lầm đã phạm rồi xin sám hối, thì cố chừa bỏ, không có phạm phải nữa, thì cái giới này được thanh tịnh trở lại.
Pháp chúng học, còn có cái tên Đột-kiết-la hay là Thức-xoa-ca-la-ni, đó là những cái tên mà dịch âm trong tiếng Phạn. Đây là những cái lỗi nhẹ nhưng rất khó giữ gìn, khi đã phạm phải, phải đối thú, sám hối. Nghĩa là những cái lỗi này, chúng ta phải học, nhưng mà những cái lỗi rất nhẹ, cho nên chúng ta vô tình mà chúng ta phạm phải 100 giới này, tức là 100 giới chúng học này rất dễ phạm phải. Vì vậy, khi mà phạm thì chúng ta hãy đến xin sám hối, phát lồ rồi xin sám hối những cái lỗi lầm đó để mà cố gắng khắc phục, đừng cho phạm phải nữa.
Cái giới Diệt tránh là cái giới ..., bảy cái giới này để biết cách phân xử, làm cho có những cái lợi ích của người phạm giới cũng như người không phạm giới, hoặc là phân xử để cho các tu sĩ không tranh luận với nhau, không cãi cọ với nhau, làm cho được hoà hợp, thì bảy cái giới này giúp cho làm những pháp yết ma, để giải quyết mọi điều, để làm cho Tăng đoàn hoà hợp chớ không có gì cả.
Đó là tóm lại, tám cái giới, tám cái loại giới mà chúng ta phải học.
Tóm lại, tám loại tội pháp kể trên, gồm chung là 250 giới điều, là những Pháp môn căn bản của người tu sĩ, để tịnh thân, tịnh hoá thân tâm nơi mình và giúp cho đời sống Tăng đoàn được hoà đồng, an lạc. Quý vị thọ giới và chưa thọ giới Cụ túc hãy lấy nó, thận trọng trong việc tu tập và thường xuyên lấy Giới Pháp kiểm tra ba nghiệp Thân - Khẩu - Ý của mình. Mỗi người, trước hết phải tự mình thanh tịnh trong Giới Bổn thì Tăng đoàn tự nhiên được tôn kính, an hoà, và vui sống một cuộc sống - một cuộc đời cao thượng. Có như vậy, Phật Pháp mới được trường tồn - vĩnh cửu.
Thầy xin thuật lại một cái câu chuyện ở trong luật Mục-đắc-sa dạy, để chúng ta biết, để mà sau này chúng ta đứng ở trong cái Giới Luật mà chúng ta biết phân, phạt cho nó đúng cách. Chớ nếu mà Thầy không đem cái ví dụ này, thì chúng ta sau này mà làm một vị tu sĩ hướng dẫn một Tăng đoàn mà chúng ta không có biết cách để mà phân xử thì khó mà giúp cho cái Tăng đoàn đó tiến tu và sống hoà hợp nhau được. Đây là câu chuyện để chúng ta thấy được cái sự phân xử cho nghiêm minh trong Giới Luật của Phật.
Có hai vị tỳ kheo họ luôn luôn chê bai lẫn nhau - Đây là đem một cái ví dụ - cái tội của hai người này là họ luôn luôn, họ hay kích bác nhau, người này chê người kia cái này, người kia chê người nọ cái khác. Trong hai ông, ta nên tin cái người nào mà xử họ rằng đúng, thì trong hai ông này ta tin cái ông nào mà trì giới, cái ông mà trì giới đó, thấy cái ông đó giữ gìn giới hạnh hơn cái ông kia thì ta nên tin cái ông đó, mà khuyên cái ông nọ không nên tranh luận, không nên cãi cọ đối với cái người người ta trì giới. Đó là cách thức mình khuyên, làm cho người ta hoà với nhau, nhưng mình khuyên như thế nào đúng, vì xét hai người, cái người trì giới thì nó phải hơn cái người mà không trì giới. Cho nên mình nên khuyên cái người mà không trì giới đó, nên hãy nhịn, hoặc là nhẫn, hoặc là đối xử với cái người trì giới là mình hãy theo cái gương của người trì giới mà mình tu học, chớ không được chê bai ông ta.
Nếu cả hai đều là trì giới, thì mình tin ông nào? Nếu hai người, người nào cũng trì giới, giữ gìn giới nghiêm túc, không có vi phạm, thì bây giờ mình tin ông nào đây? Thì mình chọn lấy cái ông đa văn, cái ông mà thông suốt cái giáo lý, hiểu biết, nhanh nhẹ hơn. Còn cái ông mà thiếu đa văn thì chúng ta khuyên ông ta nên nhân nhượng ông đa văn và noi theo gương của ông đa văn mà tu tập. Nếu hai ông đều đa văn hết, thì chúng ta biết ông nào mà xử lý đây? Thì chúng ta hãy tìm cái ông nào mà thiểu dục, ít muốn. Cái ông mà không ham muốn. tức là cái đời sống ông ta rất là giản dị, không có đồ đạc nhiều. Còn cái ông khác thì có nhiều hơn, dù là một cái y, dù là một cái y thôi, thì chúng ta cũng vẫn thấy cái ông mà ít hơn một cái y thì cái ông đó là thiểu dục hơn ông kia, thì chúng ta sẽ khuyên ông nọ nên nhẫn, và nên nương vào cái ông mà thiểu dục hơn mình, lấy cái chỗ thiểu dục của ông ta, để cho mình làm gương mà mình tu tập.
Nếu hai ông đều thiểu dục, thì chúng ta phân xử làm sao? Thì bây giờ chúng ta sẽ phân xử cái ông nào mà cực thiểu dục, hai ông đều thiểu dục, nhưng mà một ông thiểu dục hơn nữa, thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ chọn lấy cái ông cực thiểu dục mà làm cái gương cho cái ông mà thiểu dục kia, để mà theo đó mà hoà hợp nhau mà tu tập. Nếu hai ông đều cực thiểu dục, nếu hai ông đều là ... ông nào cũng cực thiểu dục hết thì chúng ta phân xử sao? Điều đó không bao giờ có. Nghĩa là cuối cùng thì chúng ta sẽ xét thấy rằng .. chúng ta sẽ xét thấy rằng không thể nào có hai ông cực thiểu dục một lượt được. Cho nên chúng ta có cái chỗ để mà chúng ta phân xử cho họ hoà hợp nhau trong những cái đời sống Giới Luật của Phật.
Đến đây thì cái câu chuyện chấm dứt, để quý vị biết rằng cái lỗi tuần tự từng những cái phạm lỗi đó, mà chúng ta gia giảm, nặng nhẹ của họ, để mà chúng ta phân xử cho đúng, không khéo thì nó có sự oan ức ở trong đó, không khéo thì nó có sự khổ tâm cho những người mà không phạm phải lỗi.
Đó là hôm nay, đến đây thì quý vị đã thấy được cái giai đoạn đầu của cái giáo án Đức Phật là chúng ta phải hiểu biết những cái giới như vậy, nhưng rồi quý vị sẽ học, học Giới từng Giới một, chớ đâu phải nói vậy rồi không biết cái giới nào hết. Đây là giáo đầu, bắt đầu của sự hiểu biết về Giới để rồi chúng ta mới đi sâu vào Giới.
(BBT:CĐ,02B,E00:37:06)
(BBT:CĐ,02B,B00:37:07)Xưa Phật thuyết pháp 49 năm, hơn 300 hội, không lường diệu nghĩa nhưng không ngoài Giới Định Huệ. Vì có giữ Giới tâm mới Định, tâm có Định mới phát sanh trí Huệ. Như thế, Giới là căn bản thành Phật, tác Tổ. Nghĩa là, Giới là căn bản làm cho chúng ta thành được Phật và làm được Tổ sau này. Giới có công năng như chiếc bè báu đưa người qua biển khổ. Ở đây người ta ví dụ Giới luật như là chiếc bè mà đưa chúng ta qua biển khổ(BBT:BN,01,E01:33:39). (BBT:BN,02,00:00:21)Nhưng theo Thầy thiết nghĩ, ở đây Giới luật là hàng rào đầu tiên để ngăn, làm cho chúng ta không vượt qua hàng rào của Giới này để cho chúng ta không có phạm phải những cái ác pháp. Đó là phải hiểu cái giai đoạn đầu. Và giai đoạn kế khi mà chúng ta đã đắc được Giới, đã thành tựu được Giới, đã chứng lý được Giới thì đó là công năng như chiếc bè báu đưa người qua biển khổ.
Giới là cửa ngõ vào Niết bàn, tức là người nào muốn vào cảnh giới được giải thoát hoàn toàn thì phải lấy Giới, phải đi ngang qua cửa ngõ Giới. Mà cái người nào mà muốn vào được cảnh giới được giải thoát hoàn toàn mà không có đi ngang qua cửa ngõ Giới thì không bao giờ mà vào được cảnh giới Niết bàn. Cho nên ở đây ví nó Giới là cửa ngõ vào Niết bàn. Cho nên quý vị đến với đạo Phật là đi tìm cái sự giải thoát chớ không phải đi tìm danh, tìm lợi trong đó. Mà tìm giải thoát tức là Niết bàn. Mà muốn tìm giải thoát thì dù muốn dù không quý vị cũng phải đi vào cửa ngõ này. Nếu quý vị không đi vào cửa ngõ này thì quý vị sẽ không đi vào Niết bàn được, dù là quý vị có lý luận, có những cái cao siêu hơn, lý luận siêu việt hơn nhưng quý vị không đi vào cửa ngõ này thì chắc chắn là quý vị không được giải thoát, không có Niết bàn trong tâm của quý vị được.
Vì Giới là biệt giải thoát, nghĩa là riêng ta giữ một giới nào cũng đều được giải thoát cả. Khi chúng ta đến với Giới dù chúng ta tu tập hay là lấy một cái Giới đó mà chúng ta giữ gìn thân và tâm của mình không cho phạm vào giới đó thì chúng ta được giải thoát ngay liền chứ không phải đợi đến thời gian nào cả. Cho nên Giới đem lại sự giải thoát cho quý vị, rất là cụ thể, hơn tất cả. Thí dụ như bây giờ quý vị giữ gìn cái giới sát sanh, quý vị không có giết hại chúng sanh thì ngay đó quý vị thấy tâm hồn của mình không có làm đau khổ người khác nên quý vị không sợ sự đau khổ nơi chính bản thân của quý vị. Đó là một sự giải thoát thật sự và cụ thể.
Giới luật còn là Đạo pháp còn. Giới luật mà còn hiện tiền thì đạo Phật sẽ còn, mà Giới luật mất, nghĩa là nhìn chung tu sĩ mà phạm giới thì đương nhiên chúng ta xem như là đạo Phật mất. Chứ không phải thấy sắc áo của những tu sĩ còn mà cho rằng đạo Phật còn đâu, mà đạo Phật đã mất rồi. Còn mỗi vị tu sĩ đều giữ gìn giới luật nghiêm túc thì đạo Phật hưng thịnh, đạo Phật còn mãi với thế gian. Còn nếu tu sĩ mà chỉ còn 1, 2 người tu sĩ giữ gìn giới thì đạo Phật còn duy trì chứ chưa có phát triển cao được. Ngày nào chư tăng còn Bố tát tụng giới là đạo Pháp còn thịnh, cho nên mỗi tháng 2 kỳ Bố tát là ngày rằm và 30, nếu tháng thiếu thì 29 để nhắc lại giới mình đã lãnh thọ.
Thường xuyên trong hàng tu sĩ phải tụng giới, nhưng hầu hết là người ta tụng để mà tụng chứ sống thì người ta không sống. Do tụng giới mà không sống thì không đúng, mà tụng giới là để nhắc nhở chúng ta mà thôi, chứ không phải tụng giới để mà có hình thức tụng. Hầu hết giờ chúng ta nhìn lại, tụng giới thì có mà phạm giới thì không có ai nghĩ đến cái chỗ phạm giới, mà họ chỉ nghĩ đến đời sống thế gian cho nên toàn bộ giới tụng là có tụng chứ không sống đúng Giới luật của Đức Phật. Vì tụng giới là để kiểm điểm lại nửa tháng vừa qua mình có phạm phải một điều nào hay không? Để làm gì? Để xin ăn năn sám hối cho thanh tịnh.
Lẽ ra thì chiều 14 và 29 phải sám hối trước một vị tỳ kheo thượng thủ, tức là một vị tỳ kheo đắc giới thanh tịnh, thì mỗi vị đều phải đến với 1 vị tỳ kheo giới luật thanh tịnh và đắc giới đó mình phải xin phát lồ sám hối với vị đó trước, rồi sau đó thì tới ngày rằm, ngày 30 tụng giới thì mới đúng nghĩa. Còn ngày rằm và ngày 30 mà tụng giới là để nhắc nhở mình mà thôi. Còn sám hối là vị nào thấy mình trong nửa tháng có bị lầm lỗi với phạm một lỗi nhỏ nào đó, thì ngày 14 và ngày 29 chứ không phải là mình phạm lỗi rồi mình chạy lại mình xin sám hối liền đâu. Mình để suốt trong cái thời gian phạm lỗi đó mình ăn năn, mình suy tư, mình quán xét để cho mình cố gắng, mình khắc phục để không cho phạm cái lỗi đó nữa. Và đến ngày 14, ngày 29 mỗi tháng mình sẽ đến cái vị giới luật thanh tịnh, mình quỳ xuống, mình phát lồ, tức là mình khai ra những cái lỗi của mình cho vị ấy nghe, rồi mình xin với vị đó, mình hứa khả mình sẽ cố gắng khắc phục không cho phạm phải lỗi ấy nữa. Thì vị tỳ kheo mà giới luật thanh tịnh này hoan hỷ chấp nhận và hứa khả cho mình được sám hối ăn năn cái lỗi đó. Và vị khuyên mình những lời khuyên giúp cho mình càng ngày càng tiến tu hơn, càng giữ gìn giới luật nghiêm túc hơn. Những vị tỳ kheo giới luật thanh tịnh này có đầy đủ uy lực của họ trong giới luật cho nên lời khuyên của họ làm chúng ta không bao giờ còn phạm phải cái lỗi đó nữa. Còn nếu mà không được bậc tỳ kheo thanh tịnh giới như vậy thì chúng ta khó mà khắc phục được những lỗi nhỏ trong giới luật của Phật.
Ngày xưa người ta tụng giới bằng chữ Tàu, tức là tiếng Hán đó, vì lúc bấy giờ tu sĩ của chúng ta thời trước thì họ giỏi tiếng Hán. Còn bây giờ mà đọc tụng bằng tiếng Hán thì tu sĩ của chúng ta không có hiểu, do vì vậy mà các bậc tiền bối của chúng ta, tức là các bậc hòa thượng của chúng ta cũng hiểu biết chỗ đó cho nên họ dịch ra tiếng Việt để khi tụng chúng ta hiểu ngay liền cái nghĩa. Mà không còn phải ngồi đó mà không hiểu, thì tức là nghe tụng giới mà không hiểu thì chúng ta sẽ ngủ gục đi. Khi mà ngồi nghe giới không có nghĩa là ngồi đó mà nhiếp tâm ở trong thiền định, hoặc là nhiếp tâm ở trong câu niệm Phật, mà phải nghe, nghe và hiểu rất rõ những giới luật của Phật để xem coi mình có phạm cái tội nào trong giới luật đó. Chớ không phải ngồi khi mà nghe người ta đọc giới mà mình ngồi đó mình nghe với cái tâm nhiếp không cho nó ra khỏi hơi thở, cũng không cho tâm hiểu biết cái gì mà giới luật hết, luôn luôn hoặc là niệm Phật, hoặc là lần chuỗi thì cái điều đó là điều sai, không đúng. Vì trong giờ tụng giới để mà chúng ta nghe từng giới coi chúng ta có phạm phải những lỗi nào, và đồng thời càng nghe nhiều giới chúng ta mới thấm nhuần được cái giới luật của Phật.
Vì sao Phật chế Giới?(BBT:BN,02,E00:09:09)(BBT:CĐ,02B,E00:46:38)
1.(BBT:CĐ,02A,B00:00:00) (BBT:BN,02,B00:09:12)Vì các Thánh Tăng sợ về sau chư tăng sanh tội lỗi.
Nghĩa là trong thời của đức Phật, có một thời tất cả chư Tăng không có phạm Giới. Sau này thì chư Tăng phạm Giới do đó Phật mới chế Giới. Mà nếu không có Giới thì không có sự kềm thúc cho nên họ dễ bị phạm giới.
2. Vì các Tỳ kheo bị phạm tội nên Phật tùy cơ mà chế Giới.
Mỗi khi muốn kiết một Giới nào, trước hết Ngài quở trách người phạm giới rằng: Việc ông làm là quấy, không phải oai nghi, không phải sa môn, không phải tịnh hạnh, không phải hạnh tùy thuận, ông không nên làm như thế. Từ nay về sau các Tỳ kheo kiết giới gồm đủ 10 nghĩa như sau. Nghĩa là cái sự kiết giới đó nó giúp cho giáo đoàn như thế nào thì nó có 10 điều kiện của nó như thế này:
1. là chỉnh đốn chư Tăng.
2. khiến cho chư Tăng hoan hỷ.
3. khiến cho chư Tăng an lạc.
4. khiến cho người chưa tin sanh lòng tin ở Giới.
5. người đã tin khiến cho tăng trưởng lòng tin hơn thêm.
6. điều phục người khó điều phục.
Nghĩa là lấy giới mà điều phục người, tức là cái người mà hay còn phạm giới, tâm còn phóng dật, lăng xăng theo dục lạc thế gian, khi mà được kiết giới thì điều phục được họ, họ bỏ những cái tâm phóng dật đó.
7. người biết xấu hổ được an lạc.
Nghĩa là giúp cho cái người chưa biết xấu hổ, chưa biết tàm quý đó, chưa biết sợ hãi lỗi nhỏ họ sẽ biết sợ hãi và biết xấu hổ. Cho nên từ đó họ sẽ được an lạc.
8. đoạn nghiệp hữu lậu đời hiện tại
Nghĩa là cái người biết giữ gìn giới luật là họ đã đoạn dứt được cái nghiệp hữu lậu ngay trong cuộc sống của họ hiện tại. Nghĩa là cái người giữ gìn giới luật thì trong hiện tại họ không tạo ra lậu hoặc mới. Cho nên họ sống được yên ổn, được thanh tịnh.
9. đoạn nghiệp hữu lậu đời vị lai
Nghĩa là cái người giữ gìn giới luật nghiêm túc không bị vi phạm, thì cái lậu hoặc của đời vị lai, tức là đời kế tới không còn có nữa. Gọi là đoạn dứt cái nghiệp hữu lậu đó.
10. khiến chánh pháp được cửu trụ
Nếu mà 10 điều này mà người tu sĩ giữ gìn trọn vẹn thì Phật pháp sẽ mãi mãi trường tồn, cửu trụ, không có bao giờ mà mất.
Giới tướng của Tỳ kheo có 250 điều, Tỳ kheo ni có 348 điều. Bắt đầu từ vườn Lộc Uyển cho đến cuối cùng nơi Hạc Thọ, Phật đã từ kim khẩu, tức là cái miệng của Phật nói ra, trong trạng thái tịch tĩnh, thấy xa ba đời, cùng vô biên hữu tình xoay quay 3 cõi, với lòng từ bi vô lượng, Ngài đã xây dựng nền tảng giáo pháp rất kiên cố. Nghĩa là Ngài đặt ra 250 giới, 348 giới, là nền tảng Giới luật rất kiên cố cho tu sĩ của chúng ta đời sau. Dù trải qua bao thời gian vô cùng, không gian vô tận, Giới pháp này vẫn có giá trị tối thượng và dẫn đầu cho các hành giả tiến bước vững chắc trên giác lộ giải thoát. Đó là các nhân duyên. (...)
Bây giờ phần mà kiết giới Baladi
Quý vị nhớ ghi kỹ đây là cái phần mà đức Phật đã kiết cái giới. Bắt đầu cái giới thứ nhất, quý vị nhớ cái giới thứ nhất, giới thứ nhất là giới hạnh bất tịnh.
Nghĩa là cái hành động làm cho không thanh tịnh. Vậy thì cái hành động làm cho không thanh tịnh này như thế nào? Đây Phật sẽ giải thích cho chúng ta thấy, và cái trường hợp nó xảy ra như thế nào mà Đức Phật chế cái giới này. Vì sao Phật kiết giới này? Vì khi Phật thành đạo, giáo hóa trong 12 năm đầu chúng tăng đều thanh tịnh. Nghĩa là 12 năm đầu đức Phật không có kiết giới, là vì những người tu trong 12 năm đầu đó là những người rất là thanh tịnh, họ không phạm những lỗi lầm, họ luôn luôn dùng thánh phòng hộ 6 căn của họ. Mắt họ, mũi họ, tai họ, tất cả 6 cái căn đó họ đều phòng hộ rất là nghiêm túc. Cho nên họ không phạm phải một cái lỗi nào cả. Vì vậy mà Phật không chế giới. Cho nên Phật cùng vô sự tăng. Đến năm thứ 13 trở đi, các pháp hữu lậu, phiền não lậu hoặc sanh khởi dần dần nơi chúng tăng nên Ngài mới tùy theo chỗ vi phạm mà kiết giới. Bởi vì 12 năm đầu là tất cả những bậc tu hành trong rừng trong núi, họ xả bỏ cái tâm thế gian của họ, họ xả thật sạch, không phải như chúng ta vừa tu mà đời thì chưa chịu bỏ, mà đạo thì muốn tu thêm. Cho nên chúng ta xét thấy qua đến năm thứ 13 đó thì người ta thấy đạo Phật rất là vi diệu, cho nên người ta có theo đạo Phật tu rất nhiều trong năm thứ 13. Do sự tu tập quá nhiều này, cho nên có những người chưa có hiểu biết sâu sắc, chưa có bỏ sạch cuộc đời, cho nên đời vẫn còn mà đạo thì muốn thêm. Vì vậy mà họ bị phạm phải những lỗi lầm, sai phạm làm mất thân tâm thanh tịnh. Do cái chỗ đó mà Phật mới kiết giới.
Ngài Anan bạch hỏi: Tại sao 12 năm đầu Phật không kiết giới, đến năm thứ 13 Ngài mới kiết giới?
Phật bảo: 12 năm đầu Ta không kiết giới, vì chúng tăng còn thanh tịnh, ví như cái áo còn lành lẽ. Nhưng qua năm thứ 13 trở đi Ta mới kiết giới là vì chúng tăng vọng động, thường sanh tội lỗi ví như cái áo bị rách cần phải vá cho lành.
Không phải chư Tăng theo đức Phật một thời gian tu tập rồi nó sanh vọng động, không phải đâu. Cái lý do, cái chỗ mà người viết bài này chắc có lẽ là chưa hiểu. Theo Thầy hiểu là vì sau 13 năm đó, là cái số tu sĩ mà xa lìa tâm thế gian thì nó không còn nữa. Bởi vì các bậc đó người ta đã quy tụ với đức Phật người ta tu, cho nên người ta được thanh tịnh tâm, từ đó người ta tu nhanh chóng, người ta nhập định rất dễ dàng. Sau 13 năm này thì người ta thấy đạo Phật phát triển, ai cũng tôn trọng, tôn kính đạo Phật cho nên có một số người ham tu theo đạo Phật nhưng họ không ý thức được do cái chỗ tu tập đó họ chưa có lìa bỏ cái giai đoạn thứ nhất như Thầy đã thấy trong giáo án. Vì thế mà Phật ghi cái giáo án này rất kỹ lưỡng, rất là rõ ràng qua những bài kinh mà Thầy thấy tuyệt diệu.
Có hiểu được như vậy chúng ta mới thấy 13 năm sau này có một số người theo Phật tu hành mà đời thì chưa bỏ, mà đạo thì muốn thêm, cho nên nó mới có những sự xảy ra phạm Giới. Vì vậy mà bắt đầu Phật mới chế giới. Khi bấy giờ có ông Tu Đề Na, con ông trưởng giả Hảo Tâm xuất gia, bà mẹ muốn cho có cháu nối dòng, bảo ông Tu Đề Na trở về với vợ 3 hôm. Ông Tu Đề Na không dám cãi lời mẹ, trở về nhà, làm như lời mẹ dạy. Khi đó lại có người con ông Bạc Xà, dục tâm bồng bột lén về nhà ở với vợ. Các tỳ kheo hay biết bạch Phật. Phật kêu cả 2 đến quở trách nói rằng: thà để nam căn vào miệng rắn độc mà chết chớ không nên phạm bất tịnh hạnh như vậy. Người nào theo đạo giải thoát của Ta phải luôn luôn nghĩ dục như là xương khô, nghĩa là cái xương khô mà con chó gặm, nước miếng nó chảy ra mà nó cho đó là ngon, chớ không có cái gì là ngon cả. Nếu có tỳ kheo nào không giữ tịnh hạnh nữa được ta cho xả giới về nhà, chừng nào muốn xuất gia tu tịnh hạnh ta sẽ cho thọ giới lại.
Đó là lời đức Phật dạy 2 tỳ kheo phạm giới. Một người thì do cái tâm còn dục mà về nhà lén ở với vợ con, một người thì do mẹ ép bảo là phải sinh con nối dòng rồi mới được đi tu. Thì 2 người đều không được đức Phật chấp nhận, đều cho sai hết. Chớ không phải do cái chỗ cho rằng bà mẹ bắt buộc mà cho cái chỗ đó đúng. Cho nên trong giới luật này, những câu chuyện như vậy chúng ta cần phải hiểu cho rõ, để chúng ta biết được cái chỗ chúng ta có làm chủ hay không?
Một vị thì không làm chủ trở về làm cái hạnh bất tịnh. Còn một người thì có cái sức làm chủ, nhưng vì không dám cãi lời mẹ, gọi là hiếu hạnh để nối dõi tông đường của mình, đối với đạo Phật thì điều đó là điều sai. Nhưng đối với một tôn giáo khác thì đó là hiếu hạnh, nhưng đối với đạo Phật thì đó không phải là hiếu hạnh. Cho nên ở đây Phật mới quở hai vị đó, chứ mà nếu vị kia mà đã hiếu hạnh mà đức Phật cho đúng thì chắc chắn là không quở. Nhưng đằng này Phật quở hai vị cả hết.
Trong giới này có câu: cho đến cùng súc sanh, có nhân duyên như thế này: khi bấy giờ có các tỳ kheo khất thực đi ngang qua cụm rừng, gặp một con khỉ cái to, nó ra dáng khiêu chọc. Tỳ kheo nhận biết rằng trước chắc có 1 tỳ kheo nào chung cùng giao thông với nó. Nên các thầy tỳ kheo về bạch Phật, Phật cho họp chúng và kiết giới này. Cho nên trong luật Phật cấm tỳ kheo không được ở chung nhau trong 1 nhà, ở chung với 1 người nữ, không hạn già hay là bé nhỏ, hay là một con súc cái, 1 con vật cái. Nghĩa là một vị tu sĩ không được ở chung một người nam với một người nam, cũng như một người nữ với một người nam, cũng như không có phân biệt người đó già tôi còn nhỏ hay người đó còn bé mà tôi là già thì không được, Đức Phật cấm. Bởi vì già vẫn còn bất tịnh hạnh, mà trẻ cũng bất tịnh hạnh. Và ở chung với một con súc vật cái nó cũng khởi sanh tâm dâm dục. Cho nên Đức Phật cấm không được ở chung với con vật cái, không được ở chung với người nữ, không được ở chung với người già nữ, không được ở chung với người gái bé nhỏ nữ. Đó là giới luật của đức Phật cấm như vậy, vì nó có những trường hợp xảy ra mà chúng tỳ kheo đã trình cho Phật, do đó Phật mới chế cái giới như vậy.
Tỳ kheo ở chỗ vắng một mình cũng dễ phạm giới. Trong khi chúng ta thường thường là những vị tỳ kheo ngày xưa hay ở trong rừng núi, những chỗ thanh vắng một mình mà nhất là ở chỗ thanh vắng một mình mà không có một vài vị cùng ở với nhau thì chúng ta dễ phạm giới này lắm. Cho nên đối với một tỳ kheo tăng cũng như một tỳ kheo ni, nói chung là một vị tu sĩ nữ và một vị tu sĩ nam đều là phải có ở chung nhau nhưng không được ở chung nhau trong một nhà. Mà ở riêng ra, ở chung nhau ít ra cũng có từ 2 người chứ không thể nào ở một mình. Vì ở một mình dễ phạm phải giới dâm này.
Xưa có một vị tỳ kheo tu trong núi, lúc ngồi nhập định, ma hiện một người nữ đẹp đến gần bên tỳ kheo ấy, tỳ kheo liền xuất định đứng dậy, người nữ dang ra đi, nàng đi mau dần thì tỳ kheo cũng đi mau dần, nàng chạy tỳ kheo cũng chạy theo. Người nữ hóa ra con ngựa cái nằm chết, tỳ kheo ấy không ngăn lòng dục, bị phạm giới. Cho nên tu ở chỗ vắng cần phải 2 người nhắc bảo nhau mới được.
Cho nên đời sống của quý vị, giới luật mà được đặt ra, thì quý vị phải hiểu rằng cái người cất thất ở một mình dễ dàng tu hành chứ thật ra rất là nguy hiểm. Vì ở một mình tu hành thì mình khó mà có thể ngăn ngừa được cái phạm giới bất tịnh hạnh này. Nhưng tu hai người cũng chưa chắc, còn có khi còn phạm giới. Như xưa có 2 vị tỳ kheo tu trong núi, 1 vị nằm ngủ trưa, một vị ra ngoài rừng. Một vị ngủ trưa vì ngủ mê, tiều nữ lén làm bậy, tiều nữ tức là người nữ đi chặt đốn củi. Vị ra ngoài về thấy liền đuổi đi, tiều nữ hoảng chạy mà bị rơi xuống hố mà chết. Ngài Upali cứ theo luật mà kết tội, một vị phạm giới dâm, một vị phạm giới sát. Ở đây câu chuyện này ở trong kinh Duy Ma Cật, cho nên câu chuyện này nói như vậy. Theo đúng lẽ thì chúng ta thấy nó không hợp, không đúng, nhưng mà trong kinh giới lại đem cái câu chuyện này ra cho nên buộc lòng Thầy phải giải thích để cho quý thầy hiểu. Khi một vị mà nằm ngủ trưa mà một người tiều nữ đến lén làm cái việc bất tịnh hạnh đó thì chắc chắn là cái ông này phải thức chứ không thể ngủ. Và cái tâm của người tu sĩ này vẫn còn đắm trong cái dục lạc của cái dâm này chứ không phải không. Cho nên 2 người này mới làm bậy. Vì vậy vị đi ra rừng (như đi kinh hành) về mới gặp thấy thì cô này cô hoảng sợ cô chạy đi, vì quá sợ mà rớt hố mà chết. Thì theo cái luật sát sanh thì đâu phải cái vị tu sĩ ở ngoài rừng kia mà đuổi theo cái vị này. Nhưng mà vị này là hoảng sợ chạy và cái vị kia là phải phạm vào cái tội dâm và đồng lõa với tiều nữ đó chứ không phải không đồng lõa. Vì nếu mà ngủ mê làm sao dâm dục được. Cho nên phải có một sự đồng tình ở trong đó mới có làm bậy. Nhưng mà khi làm bậy thì cái vị này, vị đi về, thấy, thì cái cô tiều nữ này phải sợ mà chạy, chạy mà rớt chứ không lý nào mà cái vị tu sĩ này lại đuổi theo cái tiều nữ này, thì cái điều đó là không đúng. Là vì thấy giữa hai người này, cái người tu sĩ này họ vẫn thấy hai người phạm chứ không phải một người. Đó là một cái điều mà trong kinh viết câu chuyện này, theo Thầy thiết nghĩ nó không là một sự thật, chỉ là câu chuyện tưởng tượng nghĩ ra mà thôi. Cho nên ở đây chúng ta phải lấy một cái gì bằng sự thật nói ra, thì cái giới dâm này nếu một người không phạm dâm thì không ai làm gì mình được hết, dù là mình chết thì không ai mà vô tình mà bắt mình làm cái chuyện đó được.
Tại sao tỳ kheo để giới dâm ban đầu còn sa di để giới bất sát trước hết? Chúng ta thấy sa di thập giới, thì giới bất sát là trước hết mà giới dâm thì sau chứ không trước. Mà tại sao khi học về giới của tỳ kheo thì giới dâm lại trước. Ở đây, cái sự giải thích rất là đúng. Tỳ kheo vì tuổi vọng tâm thường phát khởi, tức là tỳ kheo phải 20 tuổi mới thọ giới tỳ kheo, cho nên cái tuổi đó thường là tuổi vọng tâm thường phát khởi, nên cái giới dâm là phải đứng đầu. Còn sa di thì tuổi trẻ ưa thích sát sanh, hay bắt bướm bắt chim, hay giết sâu giết bọ, giết kiến, cho nên giới sát phải để cho tuổi sa di.
Thấy như vậy là chúng ta biết Phật có một cái tâm lý mà chế giới rất cụ thể và rõ ràng chớ không phải như câu chuyện ở trong kinh Duy Ma Cật, mơ hồ, một cách rất là mơ hồ. Một tiều nữ đến hiếp dâm một vị tu sĩ đang ngủ mà vị tu sĩ không biết à? Điều đó là điều không thể nói được. Do tư duy của chúng ta thì chúng ta thấy những câu chuyện như vậy là câu chuyện không đúng sự thật. Còn ở đây Phật chế giới tỳ kheo, giới dâm thì đi đầu, mà cái giới cho sa di là giới sát đi đầu thì chúng ta thấy rất hợp tâm lý của từng người một, như vậy là chúng ta biết Phật có một hiểu biết về tâm lý con người rất là sâu sắc, đó là đúng sự thật.
Vì sao không được ở chung? Vì tỳ kheo phạm giới dâm như người thế tục nên không được ở chung, bị dứt bỏ ngoài bể Phật pháp. Nghĩa là cái người mà phạm cái giới đó rồi thì đương nhiên là phải bị đứt đầu, bị bỏ ra ngoài không có cho tu học nữa được.
Nếu chúng sinh trong 6 đường tâm không dâm thì không theo sinh tử nối nhau. Nếu chúng ta mà tâm không ham dâm thì chắc chắn là sinh tử chúng ta đoạn dứt. Mà vì cái tâm dâm dục đó là con đường sanh tử của con người, của loài chúng sanh. Người tu chánh định muốn ra khỏi trần lao nếu tâm dâm không chừa thì trần lao không thể ra khỏi được. “Dâm tâm bất trừ trần bất khả xuất”. Dù có nhiều trí tuệ thiền định hiện tiền nếu không đoạn dâm quyết lạc đường ma. Thế nên người tu hành muốn chứng thành đạo quả mà không đoạn trừ tâm dâm thì như người lấy cát, sạn mà nấu cơm thì làm sao mà thành cơm được. Dù ra công nấu một trăm năm nấu cũng không thành cơm, cát sạn cũng hoàn cát sạn, vì nhân nào quả nấy. Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy ông Anan: “ Xuất gia giã huyễn đoạn trừ dâm dục, tất sử trừ dâm cơ, thân tâm câu đoạn, đoạn tánh diệt vô, bồ đề diệt khả hy kí”. Nghĩa là người xuất gia phải nguyện đoạn trừ dâm dục ắt phải trừ duyên dâm, thân tâm đều dứt cho đến tánh biết dứt tâm ấy cũng không còn thì quả Phật mới có thể trông mong được.
Thân tâm câu đoạn là sao? Ví như 2 ông già nằm chung 1 giường, không ai chạm ai và cũng không ai động tâm cả. Giới này có đủ 4 duyên mới thành tội.
1. Chơn thật tỳ kheo (theo giới pháp mà đã được đắc thì mới được gọi là chơn thật tỳ kheo).
2. Tình cảm đôi bên còn nguyên vẹn, người và súc sanh còn chưa hư nát.
Nghĩa là cái người tuổi trẻ mà chưa có bất tịnh lần nào đối với người nữ, nó còn nguyên vẹn, thì sự tu hành nó mới tốt. Còn nó chưa nguyên vẹn thì phải cố gắng đừng phạm phải nữa thì nó mới tốt.
3. Để vào nữ căn quá đầu sợi lông.
4. Tâm biết thọ vui như đói gặp thức ăn, như khát gặp nước uống. Trái lại thì như ăn phẩn nhơ, như tắm sắt nóng áp vào mình…
Ở đây 4 cái duyên này nếu mà chúng ta phạm phải một cái. Ví như bây giờ chơn thật tỳ kheo, mà chúng ta chưa phải là chơn thật tỳ kheo thì coi chừng chúng ta sẽ phạm phải cái giới này. Tình cảm đôi bên còn nguyên vẹn, nghĩa là chúng ta chưa có cái gì hết mà chúng ta để cho nó phạm phải thì chúng ta không thể thoát khỏi cái tội Ba la di. Để vào nữ căn quá đầu sợi lông sợi, nghĩa là chúng ta thấy cái cọng lông rất là nhỏ thế mà chúng ta để nam căn vào nữ căn mà chỉ quá cái sợi lông thì chúng ta cũng phạm giới này rồi chứ chưa phải là cái gì. Tâm mà thích thú ở trong cái sự giao hợp đó thì người đó phạm phải giới Ba la di rồi. Nghĩa là nói về cái hành động thì không quá cái đầu sợi lông, mà nói về tâm thì không được vui theo cái dục lạc của cái dâm dục đó thì mới không có phạm tội Ba la di.
Cho nên tâm mà chơn thật mà đắc giới thì không phạm phải cái tội này thì nó không phạm tội Ba la di. Còn tình cảm đôi bên giữ trọn nguyên vẹn thì không phạm cái tội Ba la di. Mà không trọn vẹn trong tình cảm, mới bắt đầu trẻ tuổi cũng như một người mới bước đầu vào đạo tu hành phải giữ trọn vẹn cho bước đường tu hành của mình. Tâm phải nguyên vẹn, khi bắt đầu vào đạo thì không được còn phạm phải cái lỗi đó nữa. Mà nếu còn phạm phải cái lỗi đó thì đương nhiên được xem là phạm vào cái tội Ba la di. Mà cái tội Ba la di là cái tội không thể cứu chữa được vì con đường của đạo Phật là con đường diệt dục. Diệt cái tâm dâm dục chứ không phải là tà dâm đâu. Bởi vì một người tu sĩ mà còn có tâm dâm dục là còn tái sanh luân hồi. Vì con đường sanh tử là con đường dâm dục chứ không phải con đường nào xa lạ. Cho nên người tu sĩ theo đạo Phật rất cẩn thận ở trên con đường dâm dục này. Phải tránh xa, phải lìa nó.
Cho nên, do đó mà ông Anan hỏi Phật: chúng con là những tu sĩ trẻ tuổi đối với giới nữ chúng con phải làm sao?
Thì ông Phật dạy, bảo: đừng gặp.
Quý thầy nhớ: đừng gặp. Nếu mà gặp thì chúng ta nó sẽ có sự cám dỗ chúng ta.
Cho nên trong kinh Tăng Chi, Phật nói: Ta không thấy một pháp nào cám dỗ và lôi cuốn hấp dẫn mạnh bằng cái sắc của người nữ, bằng cái âm thanh, bằng cái tiếng nói, bằng cái miệng cười của người nữ. Nó hấp dẫn, nó lôi cuốn chúng ta rất mạnh. Không có pháp nào mà mạnh hơn.
Cho nên ông Anan hỏi Phật, Phật nói đừng gặp thì ông Anan hỏi thêm Phật. Lỡ gặp rồi thì làm sao?
Phật nói: đừng nhìn.
Lỡ mình đã gặp thì đừng có nhìn nó.
Ông Anan nói: lỡ nhìn thì làm sao?
Phật nói: đừng nói.
Đừng nói chuyện với nó.
Ông Anan nói: lỡ nói chuyện thì làm sao?
Đức Phật nói:Hãy quán nó như là mẹ, là chị, như là những người thân ruột thịt của mình.
Thì vua Ba Tư Nặc nói: như quý thầy thì quán như vậy được, còn chúng con là cư sỹ chúng con có mẹ, có chị, có em chúng con quán làm sao như vậy được. Họ là những người xa lạ.
Cho nên đức Phật nói: quán bất tịnh.
Thì quý thầy phải hiểu rằng cái không gặp nó quý nhất cho quý thầy, chứ cái quý thầy quán mẹ chị em và bất tịnh đó là trễ quá rồi. Bệnh quý vị đã trầm kha rồi, không thể cứu chữa được.
Vậy thì không gặp thì quý vị có nên sống độc cư ở chỗ nào không?
Cho nên quý vị phải sống độc cư.
Vì vậy mà Thầy ở đây có giới luật nòng cốt của Tu viện là sống độc cư. Không cho quý vị đi tới đi lui, không cho quý vị nói chuyện để cho quý vị tránh xa những điều kiện mà quý vị có thể gặp.
Ở đây Tu viện quá là hẹp cho nên Thầy không có những cơ sở riêng tư được, chứ lẽ ra thì Thầy phải thành lập những cơ sở riêng tư. Để làm gì? Để nam theo nam, mà nữ theo nữ.
Vì những hình ảnh của người nữ dễ cám dỗ tâm của quý vị. Mặc dù một người già dù 80 tuổi cái tâm đó vẫn còn chứ không phải nói tui già rồi tui hết. Nó vẫn còn như một người tuổi trẻ. Cơ thể họ có thể suy yếu chớ còn cái tâm họ không suy yếu. Thầy xác định như vậy là qua nhiều kinh nghiệm của kinh sách đã nói đến cái tâm dục của người dù họ già đến mức tuổi nào họ vẫn còn dâm dục.
Nếu người phạm mà có lòng tin giới, sợ hãi, không che dấu, buồn rơi huyết lệ. Nghĩa là người phạm vào giới đó mà buồn khổ mà rơi đến máu, nước mắt mà như máu đó thì cái người này có thể ăn năn, có thể chừa cái lỗi Ba la di này được. Còn cái người mà không thấy buồn khổ, không thấy gì hết, mà che dấu thì cái người này hoàn toàn là phải ra khỏi tăng đoàn, ra khỏi giáo đoàn chứ không thể ở chung chỗ chư Tăng thanh tịnh mà tu hành được.
Cái người mà biết buồn khổ rơi huyết lệ như vậy đó thì có thể trong đại chúng, mới có thể cho vị ấy 3 phen cầu khẩn ai sám (tức là buồn khổ mà sám hối, tha thiết mà sám hối, khóc thương mà sám hối) tăng bạch tứ Yết Ma thì mới có tu tập lại được.
Ở trong các pháp Yết Ma khi cho một người phạm giới này biết ăn năn sám hối chừa bỏ như vậy thì nó phải có 35 việc mà người đó phải chấp nhận:
1. Người đó dù là tu sĩ cho đến suốt đời họ, họ không được trao giới cụ túc cho ai hết.
Nghĩa là họ là một người tu sĩ như quý thầy, bây giờ được nghe Thầy mà nói giới, mà quý thầy không hiểu biết quý thầy phạm là quý thầy tội, là quý thầy chịu. Bởi vì quý thầy đến đây là quý thầy quyết tìm con đường giải thoát. Cho nên Thầy mới đem giới này ra mà Thầy giảng cho quý vị, mặc dù quý vị còn chiếc áo người cư sỹ nhưng quý vị đã quyết tìm đến đây để học đạo. Cho nên Thầy đem những giới luật của Phật ra là làm cho quý vị thanh tịnh thân tâm, để cho quý vị không có phạm phải. Mà nếu quý vị thấy rằng mình không thể thanh tịnh thân tâm mình được thì không nên dự nghe những buổi thuyết giảng này. Tại sao vậy? Tại vì mình chưa phải là người quyết tâm đi con đường của đạo giải thoát. Còn mình quyết tâm đi con đường đạo giải thoát thì ngay giới này là giới hoàn toàn là phải cấm bặt, không có được cho vi phạm. Cho nên quý vị mới được nghe giới này và được giữ gìn giới này. Còn nếu không thì quý vị nghe mà quý vị không làm thì đương nhiên là quý vị phải chịu tội lỗi, quý vị đọa địa ngục. Sau này quý vị trôi lăn mãi trong con đường sanh tử luân hồi và không bao giờ gặp lại Chánh Pháp để tu tập. Bởi vì một người hiểu giới luật mà phạm giới luật là tội nặng hơn. Còn một người không hiểu giới luật mà phạm thì người đó coi như không tội.
2. Không được cho người y chỉ.
Nghĩa là không được cho người nào xin theo mình mà tu tập, không được cho người đó y chỉ theo mình được. Nghĩa là có người đến xin mình làm đệ tử, làm học trò mình. Mà mình là người đã phạm giới, mà đã xin chư tăng cho mình để giữ trọn. Thì người tu sĩ đã phạm giới đó sau này không còn y chỉ cho người nào được hết.
3. Không được nuôi sa di.
Nghĩa là không được nuôi những người tuổi trẻ vào tu.
4. Không được giáo giới tỳ kheo ni.
Nghĩa là không được đem giới luật thuyết giảng cho tỳ kheo ni. Bởi vì thành tích của mình, mình nói ra người ta không tin mặc dù mình sám hối, mình sửa mình, mình thanh tịnh rồi nhưng mà mình vẫn còn cái tỳ vết đó cho nên mình không đủ uy tín, lòng tin của người khác. Cho nên mình giáo giới ra là không được. Tức là người được cho ở lại tu sửa mà ăn năn sám hối thì người đó không được đem giới luật hay giáo pháp Phật mà dạy cho người khác, chỉ có lo tu sửa mình mà thôi.
5. Nếu được sai rồi cũng không được dạy.
Nếu được có người sai bởi thấy mình có khả năng giảng thuyết hay hoặc là nói giới giỏi thì ở trong Tăng nếu có người sai mình đi giáo giới, dạy người ta thì mình cũng từ chối ngay liền, không được dạy nữa. Chứ không phải là không được sai.
6. Không được vì Tăng thuyết giới.
Người tu sĩ phạm giới đó bây giờ ăn năn sám hối rồi, trải qua 5 năm 10 năm 20 năm nhưng họ không được thuyết giới cho Tăng.
7. Không được vấn đáp tỳ ni trong tăng.
Nghĩa là không được hỏi giới luật ở trong chúng tăng.
8. Không được làm người tri sự của Tăng.
9. Không được làm người đoán sự của Tăng.
Nghĩa là mọi việc ở trong Tăng đoàn dự định cái này cái kia thì người này không được có ý kiến gì trong Tăng đoàn hết.
10. Không được làm người sứ mạng cho Tăng.
Nghĩa là mình không được sai đi làm thay mặt cho vị Tăng này, vị tăng kia.
11. Không được vào tụ lạc sớm và về tối.
Nghĩa là người tu sĩ này đúng giờ thì đi xin, mà không đúng giờ thì không được đi ngồi lê ngồi la mà nói chuyện với người này người kia thì không được. Mà xin rồi thì về chớ không được mà về tối.
12. Nên gần gũi các tỳ kheo giới luật thanh tịnh.
Cái vị tu sĩ này mà phạm giới này thì luôn luôn sống sát bên cạnh các vị tỳ kheo giới luật thanh tịnh.
13. Không nên gần gũi bạch y.
Tức là người tu sĩ phạm giới này không được gần gũi cư sỹ.
14. Nên thuận theo pháp tỳ kheo.
Nghĩa là luôn luôn thuận theo giới luật của Phật, của các tỳ kheo.
15. Không được nói chuyện của người đời.
Nghĩa là người tu sĩ phạm giới này không được đem chuyện người đời mà nói với người này người kia, tức là chuyện phiếm đó.
16. Không được trong chúng tụng luật.
Người này không được cầm luật mà tụng.
17. Không được phạm lại giới này.
Nghĩa là người này hoàn toàn không được phạm lại giới dâm này nữa.
18. Không được phạm các tội khác.
Nghĩa là tất cả các tội khác không được vi phạm nữa.
19. Không được ngăn chúng tăng Yết Ma.
Nghĩa là khi chúng tăng hợp nhau làm pháp Yết Ma, thì người này có ý kiến như vầy như vầy thì không được mà ngăn chúng tăng. Người ta làm gì thì mình hoàn toàn không có ý kiến gì hết.
20. Không được chê người làm Yết Ma.
Nghĩa là người làm Yết Ma đó có sai, có trật thì mình cũng không được chê là người đó sai.
21. Không được thọ sự trải tọa cụ cho tỳ kheo thanh tịnh.
Nghĩa là mình không được trải tọa cụ một vị chơn tu.
22. Không được nhận nước rửa tay chân nơi tỳ kheo thanh tịnh.
Nghĩa là một vị tỳ kheo thanh tịnh rửa tay chân rồi, rối mình mới nhận nước đó để rửa tay thì không được.
23. Không được nhận nước uống nơi tỳ kheo thanh tịnh.
Nghĩa là người tỳ kheo thanh tịnh uống xong rồi, nó còn thừa lại thì người kia không được uống nước đó nữa.
24. Không được để tỳ kheo thanh tịnh lau giày guốc.
Nghĩa là cái vị tỳ kheo thanh tịnh giới, mặc dù mình lớn tuổi, mình già nhưng mình có phạm phải lỗi đó, xưa kia mình có phạm phải lỗi đó. Bây giờ có một vị tân tỳ kheo họ mới đến nhưng mà người ta giới luật thanh tịnh, người ta không biết người ta lau giày guốc cho mình, người ta thấy mình già ở trong chúng do đó người ta làm cái công việc đó. Thì ngay đó là mình ngăn không để cho tân tỳ kheo mà chưa bị phạm giới đó lau giày guốc cho mình thì không được.
25. Không được nhận sự thoa chà nơi thân của một tỳ kheo thanh tịnh.
Nghĩa là mình là người già yếu, mình có bệnh đau, mình nhờ người khác cạo gió hoặc chà bóp cho nó bớt đau thì không được nhờ vị tỳ kheo dù vị đó mới vào nhưng mà người ta chưa phạm giới thì mình không được nhờ người đó xoa bóp cho mình.
26. Không được thọ lễ bái của tỳ kheo thanh tịnh.
Nghĩa là mình mặc dù là trưởng lão, mình già cả, nhưng mà vị tỳ kheo thanh tịnh mới vào đó thì mình không có để cho vị đó lễ bái mình.
27. Không được nhận sự đưa đón của tỳ kheo thanh tịnh.
Nghĩa là mình có đi đâu thì mình đi một mình chứ không để các vị tân tỳ kheo nhỏ tuổi đó đưa đón mình hoặc thế này thế khác. Tức là nói chung, vị tỳ kheo này khi phạm giới như vậy không có thị giả, không có người hầu hạ, luôn luôn phải sống một mình.
28. Không được nhận sự xá chào của tỳ kheo thanh tịnh.
Nghĩa là mình luôn luôn từ chối tất cả sự xá chào của người khác khi mình là người phạm tội. Mặc dù mình phạm tội cách đây 2 chục năm hoặc là 3 chục năm.
29. Không được để tỳ kheo thanh tịnh cầm y mình.
Nghĩa là cái y của mình mình mặc chớ bây giờ có 1 con kiến hay một con gì đó, mình đang vắt cái y của mình như thế này bỗng dưng có con kiến thì mình tháo ra mình nhờ cái vị tỳ kheo kia cầm cái y hộ mình thì không được. Mình để chỗ nào thì tự để chứ không nhờ vị tỳ kheo thanh tịnh cầm y của mình.
30. Không được nhận sự bưng bát của tỳ kheo thanh tịnh.
Nghĩa là mình không để bình bát cho một vị tỳ kheo trẻ tuổi thanh tịnh bưng dùm mình.
31. Không được làm pháp cử tội, làm pháp tự tứ, nói tội của tỳ kheo thanh tịnh.
Nghĩa là mình không có quyền kê tội của người nào. Mình là người có tội rồi, bây giờ dù là những vị tỳ kheo đó có tội mình cũng không được kê cái tội họ ra, nói cái tội họ ra. Để cho những người khác người ta thanh tịnh hơn, người ta tu trước mà thanh tịnh người ta kê, chứ mình không được quyền kê tội người ta ra.
32. Không được làm chứng cho người.
Nghĩa là người mà mà phạm giới này rồi thì mình không được làm chứng cho ai hết. Nghĩa là mình đã phạm rồi thì mình không có những quyền hạn ở trong tăng đoàn đó nữa. Mình chỉ còn được ở lại để mình tu để mình được giải thoát mà thôi.
33. Không được ngăn tỳ kheo thanh tịnh thuyết giới.
Nghĩa là khi một vị tỳ kheo thanh tịnh thuyết giới, mặc dù là người đó có thuyết sai đi nữa mình cũng không được quyền mà ngăn họ. Để cho những người khác người ta hiểu biết người ta ngăn chứ mình không được ngăn nữa.
34. Không được ngăn tỳ kheo thanh tịnh tự tứ.
Nghĩa là mình không có ngăn người khác làm lễ tự tứ.
35. Không được cùng tỳ kheo thanh tịnh cãi lẫy.
Đối với mình thì không được cãi lẫy ai hết.
Nếu tái phạm thì bị tẩn xuất ra khỏi nơi chúng tăng thanh tịnh, bị đuổi vĩnh viễn.
Nếu mà mình còn phạm phải 35 điều này, 35 sự việc này thì người đó bị tẩn xuất ra khỏi tăng đoàn. Cho nên thấy trong 35 điều này một người mà phạm phải lỗi về dâm dục rồi thì Thầy thấy ở trong chúng tăng không còn có cái gì đối với vị tu sĩ nữa hết.
Cho nên ở đây khi mà đã quyết tâm hướng về con đường thứ 2, về lộ trình thứ 2 của đạo Phật rồi thì chúng ta phải coi như giới dâm là một giới rất là vĩ đại cho cuộc đời tu hành của chúng ta. Vì đó là chúng ta đã quyết chấm dứt con đường sanh tử. Và con đường sanh tử tức là ở trong cái đường dâm dục đó chứ không phải ngoài đó, ngoài cái con đường dâm dục đó mà đi tìm con đường sanh tử thì không bao giờ có. Vì cũng sanh từ nơi đó mà cũng vì chết từ nơi đó chớ không phải cái chỗ nào khác hết.
Nếu tỳ kheo ni đồng phạm cũng như vậy. Thức xoa, sa di, sa di ni đồng phạm mắc tội Đột kiết la và cũng bị diệt tẩn. Nghĩa là tội Bất Định, tội Đột kiết la thì cái tội đó người ta vẫn có thể xét qua phạm vào cái tội Ba la di, thì người ta sẽ vẫn có thể đuổi chứ không thể nào mà tha thứ được.
Trường hợp không phạm ban đầu chưa chế giới. Lúc mà đức Phật chưa chế giới thì không có gọi là phạm. Cho nên trường hợp này chúng ta nghĩ rằng cái người mà đã học giới mà phạm, đã nghe được cái giới mà Thầy giảng rồi mà còn phạm phải cái giới đó thì coi như là phạm giới Ba la di. Còn người chưa nghe, chưa có biết giới thì đương nhiên là không có phạm giới. Cho nên ban đầu chưa chế giới thì đương nhiên là không phạm. Mà đã chế giới rồi, sau này tỳ kheo đã được nghe, được hiểu biết giới đó rồi thì đương nhiên người nào mà phạm phải đều là bị phạm hết, còn trước đó chưa chế giới ra thì chúng ta có phạm vẫn chưa phải là tội, cũng chưa phải có tội.
Si cuồng tâm loạn, tâm không thọ lạc vì bị bức ép khốn khổ, ngủ mê không hay biết gì cả.
Si cuồng tâm loạn là không phạm, là tại vì cái tâm điên khùng nó không còn sáng suốt không còn tỉnh táo nữa, như một người điên mà làm cái chuyện dâm dục thì người điên không có phạm.
Trong dâm dục đó mà tâm không thấy cảm giác thọ lạc thì người đó không phạm, còn có cảm giác thọ lạc thì người đó phải phạm.
Ngủ mê không biết thì không phạm, sự thật không có bao giờ có thể ngủ mê trong dâm dục được hết, cho nên cái này thì nó không đúng. Chỉ có chúng ta bị người ta bỏ thuốc mê thì chúng ta mới không hay biết. Còn vấn đề ngủ mê trên cái chuyện dâm dục mà không hay biết thì không thể nào xảy ra cái chuyện đó được.
Đó là cái không đúng, còn tất cả các cái khác thì có thể Thầy chấp nhận rằng đúng. Như ban đầu chưa chế giới thì không ai hiểu biết cái giới đó là phạm cho nên không có tội, còn chế giới ra rồi thì người nào phạm tức là người đó bị tội. Còn người điên khùng tâm loạn, họ không sáng suốt mà họ phạm vào cái dâm thì đó là không phạm. Còn cái tâm đang ở trong sự thọ lạc đó mà không cảm giác thọ lạc thì người đó không phạm, còn nếu có cảm giác thọ lạc trong đó thì người đó bị phạm. Còn cái sự ngủ mê thì không có cho nên ở đây bỏ cái chỗ ngủ mê.(BBT:CĐ,02A,E00:46:26)(BBT:BN,02,E00:54:48)
(BBT:CĐ,02A,B00:46:27)Đó là giới thứ nhất chúng ta đã học xong. Bây giờ chúng ta tìm hiểu thêm 10 điều quan trọng trong khi tu tập giới cụ túc.
1. Nhiếp thủ ư tăng:Nghĩa là những thiện nam, tín nữ trong thế gian có tâm tin Phật, đi xuất gia thọ giới cụ túc ở trong chánh pháp của đức Như Lai được gồm thu vào thành chúng thanh tịnh.
2. Linh tăng hoan hỷ:Nghĩa là ở trong pháp luật chân chánh tu phạm hạnh thanh tịnh khiến việc lành được tăng trưởng nên trong lòng thường vui mừng, hoan hỷ.
3. Linh tăng an lạc:Nghĩa là do vì sự vui mừng hoan hỷ nên mới được cái qủa vui thiền định tịch diệt, cũng nhờ tu phạm hạnh thanh tịnh mới trả được cái nợ áo cơm của đàn na thí chủ, tâm ta mới được an lạc, sung sướng, thanh thản.
4. Linh vị tín giải:Nghĩa là những người chưa được tin Phật, Pháp thấy chư Tăng tu phạm hạnh thanh tịnh mà sinh lòng tịnh tín nơi các vị Thánh tăng.
5. Vĩ tín giả linh tăng trưởng:Nghĩa là vì người đã sanh lòng tin phải khéo giữ cái niềm tin ấy cho được thêm nhiều.
6. Năm điều giả linh điều thuận:Nghĩa là có những người phạm giới, không biết xấu hổ nên dùng giới luật này mà (BBT:CĐ,02A,E00:48:04)...
(BBT:CĐ,03A,B00:00:00)
7. Tàm quý giả đắc an lạc: Nghĩa là, vì khiến những người tu phạm hạnh có biết tàm quý, có biết xấu hổ, khởi đem lòng nghi nan và hết sự tranh luận được yên ổn tu hành cùng nhau.
8. Đoạn hiện tại hữu lậu: Nghĩa là vì hiện tại mắc cái tâm phiền não làm cho không tu hành được tốt.
9. Đoạn vị lai hữu lậu: Nghĩa là những phiền não chưa sanh làm cho, đừng cho nó sanh, và nếu phiền não sanh lỡ ra rồi ta hãy cương quyết đoạn cho tận nguồn gốc.
10. Chánh pháp đắc cửu trụ: Nghĩa là do giữ gìn phạm hạnh, chánh giáo của Phật, Đức Như Lai được còn mãi mãi ở thế gian.
Mười món công đức ở đây trong mỗi giới đều có, cho nên trong mỗi giới đều hay sanh ra mười món công đức, công đức tốt như vậy.
(BBT:CĐ,03A,E00:01:04)
XIN MỜI XEM TIẾP BĂNG SỐ 03
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét