BĂNG SỐ 12
(BBT:CĐ,12B,B00:00:00)(BBT:BN,11,B01:28:56) Cũng như bây giờ đặt ra là 5 giây là nhập nhị thiền, người nào cũng tới 5 giây là nhập nhị thiền. Có người tới 5 giây người ta không nhập được mà người ta 7, 8 giây hay 10 giây. Nhưng mà có người tới 20 giây hay là 30 giây người ta mới nhập tam thiền mà có người mới 6 giây người ta đã nhập tam thiền. Làm sao mà căn cứ mực chỗ nào được mà dạy, đó là cái đặc tướng mà, cho nên Phật dạy nó có 3 cái tướng của nó rõ ràng, riêng biệt: Nhân tướng, hành tướng và đặc tướng. Mỗi cái nó có cái riêng biệt của nó ở trong đó. Cho nên ở đây phải tự người đó phải phát triển theo đặc tướng của mình và ông thầy phải khéo léo và linh động để hướng dẫn theo đặc tướng của người ta thì người ta mới nhập được định. Đó thì ở đây nó khó là khó chỗ đó chứ không thể nào có một cái khuôn sẵn rồi chúng ta vô máy mà chúng ta ép thành hàng loạt hàng trăm cái máy được. Nó không phải như vậy được mà nó phải có một sự uyển chuyển khéo léo.
Vì vậy cho nên nếu mà Thầy nói cần thiết một cá nhân anh hùng thì chắc là thiên hạ này đã biết Thầy từ lâu rồi, Thầy mà háo danh, kêu là đại háo danh thì chắc chắn là khi mà thầy Thanh Từ mà nhận Thầy ở lại thì lúc bấy giờ Thầy chỉ tìm mọi cách mà phô trương cái tu tập của mình. Thầy chỉ cần nói là người ta đem điện tâm đồ người ta đo Thầy trong lúc Thầy nhập tứ thiền, người ta sẽ thấy Thầy hoàn toàn là không thở là người ta đã hoảng kinh rồi chớ chưa nói gì Thầy câu hữu một vài cái sự điều khiển được tâm linh của Thầy rồi thì người ta còn kính phục đến bậc nào nữa. Nếu mà cầu một đại danh thì Thầy sẽ là một anh hùng, một danh nhân trên thế giới chứ không còn ai hơn. Thầy nói thật, đối với việc làm Thầy biết rất rõ. Nhưng mà từ 17 năm trời mà đến bây giờ thì có sự kiện xảy ra thì quý thầy mới nhận biết Thầy được chút ít chứ chả biết gì hết. Người ta đồn Thầy như thế này, người ta đồn Thầy như thế kia, người ta nói Thầy cho bùa để đi bán mua may bán đắt, người ta đồn là Thầy biết quá khứ vị lai, là người kiếp này kiếp kia người ta thêu dệt đủ loại. Người ta nói Thầy đủ thứ hết nhưng Thầy vẫn âm thầm làm, họ nói gì thì nói. Tại vì họ chưa biết mình, họ khen là họ khen cái kiểu của họ, mà họ chê là họ chê cái kiểu của họ, tại họ không biết họ chê, chứ làm sao mà biết mình được. Cho nên đối với Thầy thản nhiên, không có lo lắng gì cái việc khen chê. Chỉ tìm con người tin tưởng mình, dạy họ đâu họ làm đó. Và cũng vì cái sự khen chê đó mà làm cho người ta mất niềm tin ở Thầy rất nhiều, cho nên khi Thầy dạy họ chỉ dựa vào Kinh và những cái lý luận suông người ta nỗ lực tu, người ta không thấy kinh nghiệm bản thân của Thầy. Nhưng Thầy thấy đó cũng là một cái duyên, nếu Thầy lộ ra một cái gì thì chẳng qua Thầy lòe bịp thiên hạ để gạt người ta để thành một cái danh hão, cái danh không thật, cái danh không giải thoát đâu, mà giải thoát thì phải giải thoát cho thật. Đó thì hôm nay Thầy trả lời thầy Thiện Thiền. Biết rằng cái điều thầy Thiện Thiền nghĩ tốt, làm như vậy để cho người ta biết rằng có một người tu như vậy thì Phật giáo nó mới theo đường lối đó mới chấn hưng lại được. Làm cho Phật pháp sáng tỏ lên, cái nghĩ của thầy Thiện Thiền là cái nghĩ tốt chứ không phải là cái nghĩ xấu, nghĩ cầu danh. Cái góc độ của thầy không nghĩ cầu danh(BBT:BN,11,E01:31:29), nhưng mà tự làm cái đó là mình phải hiểu. Một khi mình làm một cái gì, mình phải nghĩ cái quả của nó, cái quả của nó, nó đem đến tâm niệm nào của mình, mình phải xét. Cho nên Thầy làm cái gì Thầy rất suy nghĩ. (BBT:CĐ,12B,E00:03:49)
(BBT:CĐ,12B,B00:03:49)(BBT:BN,12,B00:00:04)
Về cái vấn đề bức thơ thứ 2 thì thầy Thiện Thiền sau khi nghe Trung Tâm An Dưỡng thì thầy cũng có tâm, có tâm nghĩ đến xã hội, nghĩ đến con người, thầy có tâm tốt cho nên thầy mới viết bức thơ này. Thầy xin đọc bức thơ này:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Kính bạch Phương Trượng,
Như lời thuyết giảng sáng hôm qua xong, Phương Trượng có nói lên những tâm tư nguyện vọng của Phương Trượng sau này. Như chiều hôm qua Phương Trượng có nói cho con nghe về Trung tâm an dưỡng ở Phước Hải mà phương án Trung tâm đã dự định từ lâu. Hôm trước con có nghe Phương Trượng nói là khu đất đó, Phương Trượng tính giao cho đạo hữu Tâm Như bán lấy số tiền đó đem làm phước bố thí. Như con thiết nghĩ Phương Trượng làm như vậy cũng là cao quý nhưng chỉ tạm xoa dịu cơn đau trong phút giây ngắn ngủi chớ không trị dứt được cơn đau như ý nghĩ thiển cận của con. Phương Trượng nên hiến dâng cúng dường khu đất đó cho Thành hội rồi giao lại cho Ban hoằng pháp, rồi thượng tọa Trí Quảng sẽ thiết lập Trung tâm an dưỡng như Phương Trượng đã dự định. Thì bên ngoài là hình thức Trung tâm an dưỡng, còn bên trong thành lập 2 dòng tu thể nhập và thể hiện.
Ban hoằng pháp Trung ương sẽ đào tạo, rèn luyện nhóm tân tăng tức là dòng thể hiện. Có vốn liếng kiến thức về Phật pháp cho thông suốt, đầy đủ, đức độ rồi đưa tài năng đức độ đó phục vụ cho giáo hội Phật giáo Việt Nam rồi đem đạo từ bi len lỏi vào nhân gian hay đem đạo Phật vào cuộc đời xoa dịu những tâm hồn đau khổ bơ vơ không nơi nương tựa đúng với tinh thần của lục hòa. Lục tổ nói: Phật pháp bất ly thế gian pháp, thế gian giác hay Phật pháp bất định pháp. Tất cả pháp đều là Phật pháp cho tất cả chúng sanh hiểu và thâm nhập được giáo lý Nhân quả, luân hồi và nghiệp báo của đạo Phật sẽ biến thế gian thành Thiên đàng và Niết bàn hiện tại ngay đây chứ không phải Thiên đàng ở cõi giới đâu đâu hay Niết bàn ở nơi nào xa xôi diệu vợi. Nếu mỗi cá nhân, mỗi con người biết hướng thiện thì ngay đây bây giờ chớ không phải chờ chết. Nếu những Phật tử nào họ có trình độ kiến thức cao, có ngành nghề và nghiệp vụ chuyên môn trong xã hội, khi họ phục vụ cho Phật giáo thì Giáo hội sẽ trả lương cho họ, nếu họ phát tâm phục vụ cho giáo hội thì càng tốt, đồng thời họ sẽ chăm lo đời sống cho dòng thể nhập chuyên tu và họ thay cho những vị này hoằng pháp lợi sanh và mọi sinh hoạt ích lợi chúng sanh xã hội là những người con trung kiên của Giáo hội mà châm ngôn của Phật giáo nói là tốt đạo đẹp đời.
Mà thật vậy, nếu nhóm tân tăng này được ra đời thì những văn hóa đồi trụy và những tệ nạn xã hội sẽ được giảm đi nhiều, đồng thời những nơi dưỡng lão, cô nhi viện, khám đường, nhà giam, khu cải tạo và bao nhiêu sự đau khổ của cõi trần gian đa sự này bớt đi nhiều, bớt đi nhiều khi họ hiểu biết được đạo lý nhân quả của nhà Phật áp dụng dạy trong các trường phổ thông mà Phương Trượng ước mong canh cánh nỗi lòng bấy lâu. Đồng thời Phương Trượng làm cố vấn tối cao, giải quyết những vấn đề khó khăn và đóng góp những ý kiến tốt đẹp cao quý, còn ngoài ra mọi vấn đề sinh hoạt như ngoại giao, kinh tế, tài chánh, tổ chức,... giao hết cho Giáo hội họ đảm đương. Phương Trượng được nghỉ ngơi trong khi sức khỏe của Phương Trượng thì nhà nước cũng không có lý do kêu Phương Trượng ra làm chánh trị được mà Phương Trượng chỉ làm mặt trong mà mặt ngoài lại thành công tốt đẹp. Con ví Phương Trượng như nhà vua giao ngôi cho thái tử, lên làm đức thượng hoàng, chỉ làm cố vấn cho thái tử, còn việc nước việc dân thì thái tử tự lo lấy, nhà vua không còn phải bận tâm nữa. Dù sao tiếng nói của Giáo hội cũng là tiếng nói của cả nước, mặc dù Phương Trượng có đầy đủ đức độ tài năng uy đức như thế nào đi nữa thì cũng không bì được với tiếng nói của cả nước. Cũng như hôm trước Phương Trượng dạy kinh Thập Thiện, ví dụ ông vua chỉ biết lo cho mình thì ngày trước ngày sau, không bao lâu cũng bị phế xuống ngai vàng, còn nếu nhà vua chỉ chăm lo cho dân cho nước, lấy lòng dân làm lòng mình thì ngai vàng mới tồn tại, mình mới ở mãi với ngai vàng. Cho nên kinh nói “đức chúng như hải”, theo con thiết nghĩ cái nhân của Phương Trượng đứng ra lo cho việc này dù cho có thành công cũng ở trong thất bại, có kết quả cũng là sự phá sản về sau, không sao tránh khỏi. Đó là những lời chân thành của con kính trình lên Phương Trượng. Có điều chi sơ sót con cúi xin Phương Trượng từ bi hoan hỷ cho con.
Bây giờ xin trả lời bức thơ này để quý thầy thấy rõ những cái tâm niệm tốt mà quý thầy khi mà nghe Thầy nói đến những sự ích lợi của dân, của nước thì ai cũng canh cánh bên lòng, cũng quyết muốn làm được những điều tốt đó chứ không ai không muốn. Thì một trong những người đó có những ý kiến, đó là thầy Thiện Thiền. Nhưng cách đây 3 năm, sau cái khóa mà dạy tu 3 năm trước thì Thầy ra thất, ra thất thì cái phương án của Thầy thì cách đây 6 năm Thầy đã dự thảo phương án này rồi nhưng vì mắc vào trong thất để tiếp tục hướng dẫn chúng tăng tu tập, cho nên 3 năm giam mình không đi đâu. Sau 3 năm ra thất thì Thầy lại tiếp tục trên con đường đi tìm người có một chí hướng với mình, để lo lắng, để cộng sự cùng nhau lo lắng cái trung tâm này. Nhưng Thầy đi từ chỗ này đến chỗ khác, lúc bấy giờ thì Hòa thượng là một ánh sáng của hào quang không những trong đất nước mà cả thế giới. Thầy tin tưởng Hòa thượng chỉ chấp nhận một chút là đã thành công rồi. Nhưng đến đó Thầy cũng mất hy vọng vì Hòa thượng có nói với Thầy, Hòa thượng chỉ lo cho người chuyên tu, không có lo cho xã hội. Hòa thượng nói như vậy, Thầy đã hiểu biết Hòa thượng ở chỗ nào rồi, Thầy không thể nào mà còn cầu xin gì được nữa. Nhưng Hoàng Tâm thì quỳ xuống xin Hòa thượng hãy vì thương chúng con mà Hòa thượng hãy nhận làm cố vấn ở trong cái Trung tâm này để cho nó có cái uy tín của Hòa thượng mà cái đức độ của Hòa thượng và cái uy tín của Hòa thượng thì có thể mới thành công được. Thì Hòa thượng nhận lời làm cố vấn ở trong Trung tâm đó, chớ còn Hòa thượng thì hoàn toàn là Hòa thượng không có đem cái khả năng của mình cũng như là đem những sự việc này mà đóng góp vào, chỉ làm cố vấn, cái gì mà không đúng hoặc có những ý kiến gì thì đến hỏi Hòa thượng, Hòa thượng chỉ bảo thôi. Đó là cái ý của Hòa thượng như vậy, coi như hòa thượng không có trách nhiệm trong đó mà chỉ có góp ý. Đó là cái ý. Thì đến Thầy và những người khác đến gặp các bậc hòa thượng lớn ở trong giáo hội và đồng thời cũng gặp các vị có uy tín ở trong giáo hội, nhưng đến đâu thì họ cũng có cái khéo léo của họ hết chớ không phải không khéo léo, vì họ nghĩ rằng cái gì mà họ đề ra là họ phải quyết định họ làm cho được thì Thầy đã hiểu nó rõ ràng. Còn cái gì mà Thầy đã đề ra mà họ có làm cho được thì chẳng qua là dồn lại cái danh đó cho Thầy, cho nên họ không muốn chớ không phải gì hết. Vì Thầy biết rằng mỗi con người hiện giờ họ đang ở trong cái anh hùng cá nhân, họ đang muốn làm cho mình nổi bật hơn mọi người, mà bây giờ có một sự hợp tác như vậy là anh hùng cá nhân của họ bị mất mát đi, ít ra nó cũng mất một phần nhỏ nào trong đó, họ thì họ không muốn vậy. Nhưng họ không nghĩ rằng cái chuyện làm việc lớn là phải không có người anh hùng ở trong đó mà chỉ người biết làm, làm vì lợi ích cho mọi người thì mới làm được. Cho nên đi khắp cùng, suốt cái thời gian mà ra thất đó Thầy đem hết cái sức của mình chiều chuộng tất cả mọi người, nghĩa là dâng lên cho họ, miễn là họ làm thôi, cộng tác với mình, những người mà có thế có quyền, họ đứng ra xin phép này kia, hay hoặc là Thầy đứng ra xin phép rồi giao lại tất cả những phương án này, Thầy chỉ kêu gọi Phật tử đóng góp vào một số tiền hoặc là bỏ ra một số tiền nào đó để cho quý thầy thực hiện, để cho giáo hội thực hiện cho được cái lợi ích chung cho Phật giáo và cho dân tộc, và cho con người ở trên thế gian này. Nhưng ai cũng khéo léo một cách từ chối và đồng thời Thầy cũng thui thủi trở về hai bàn tay trắng của mình. Thầy nghĩ rằng cái phương án này chỉ có những người đệ tử của Thầy sau này có thể lần lượt và từ đó họ sẽ khai triển trí tuệ và khả năng của họ vì cái nguyện vọng quá lớn với con người trên thế gian này. Chắc chắn những người đệ tử của Thầy đã tiêm nhiễm được tư tưởng của Thầy, họ mới làm nổi, c̣n những người khác họ chỉ là nghĩ đến cái anh hùng cá nhân của họ thì chắc chắn họ không làm được. Thầy nghĩ rằng bây giờ ở đây chúng ta có những thầy mà các thầy phải hiểu rằng không phải quý thầy ra mà một mình quý thầy sẽ làm hết được cái chương trình này đâu. Quý thầy chỉ làm một phần nào đó thôi rồi quý thầy lại giao cho một người kế tiếp thì người kế tiếp đó lại tiếp tục làm con đường này nữa, cho đến mãi, đến khi mà thành tựu thì chúng ta không biết là bao nhiêu người làm. Và bao nhiêu người làm, tức là bao nhiêu anh hùng của con người, chớ không phải là có một mình Thầy. Cho nên Thầy không giành một mình Thầy được, bây giờ phỏng chừng Thầy làm, Thầy giành cho một mình Thầy như thầy Thiện Thiền nói, cái kết quả đó nó cũng chẳng có gì. Đây Thầy đọc lại chỗ này: “cái thành công ở trong thất bại”, nghĩa là Thầy có thành công đi nữa cũng ở trong thất bại, vì biết bao nhiêu người đang phá, đâu có để cho Thầy tạo thành một cái danh. Các con hiểu điều đó. Nhưng chúng ta lần lượt bước đi từng người này thừa kế đến người kia thừa kế thì không bao giờ ai phá được chúng ta. Cho nên Thầy đã suy nghĩ rất nhiều, cho nên lúc này tuy rằng Thầy cũng còn sức khỏe kéo dài thêm 5-10 năm nữa vẫn có thể được, nhưng phải ẩn bóng để rèn luyện đệ tử của mình trong một cái tinh thần phát triển của nó chớ không thể để nó tựa nương vào Thầy nữa mà nó phải tự phát triển. Phát triển để làm những gì? Làm lợi ích cho chúng sanh. Làm lợi ích gì? Làm lợi ích cho Phật pháp. Còn nếu để nó nương tựa theo Thầy hoài thì tới chừng mà Thầy thị tịch thật sự thì còn ai mà ở sau lưng nó để mà nhắc nhở giúp đỡ nó. Thì do đó rồi nó sẽ tự theo ý của nó thì nó chưa có đủ cái khai triển những cái sáng suốt cho nên nó có thể lầm lạc. Hoặc là nó chỉ thấy Thầy là tuyệt vời rồi cho nên nó giậm tại đó mà nó không chịu khai triển nó ra nữa, thì như vậy con đường mà tiến tới thì nó bị dừng lại rồi, nó thấy Thầy hơn toàn bộ, không còn ai hơn Thầy được, cũng như bây giờ nhìn Hòa thượng mà chúng ta thấy Hòa thượng hơn tuyệt hết rồi thì các đệ tử của Hòa thượng không còn phát triển được nữa.
Cho nên Thầy đã biết lúc nào tấn mà lúc nào thối, lúc nào hiện mà lúc nào ẩn. Mà sự ẩn của Thầy thì các thầy cứ nghĩ rằng Thầy sẽ ẩn bóng mãi chớ không phải Thầy còn lộ diện như các nhà võ công, sau một thời gian ẩn bóng để tu luyện lại những võ công của mình rồi mới tái xuất hiện giang hồ, Thầy thì không tái xuất hiện giang hồ, cho đến khi nào Thầy thị tịch mà thôi, chỉ còn lại những người đệ tử của Thầy hiện nay đã và đang tu tập, thành tựu được Phật pháp thì những người đó phải tự sáng tạo, phải tự khai triển. Những gì mà Thầy chưa khai triển họ sẽ khai triển, họ lấy cả đầu óc họ làm ra thì họ cũng trở thành những anh hùng của những con người khác, chớ không thể Thầy để cho họ dẫm lại cái hiểu biết của Thầy, nhai đi nhai lại cái bã mía này như nhai đờm dãi. Thầy không muốn như vậy. Nghĩa là Thầy hôm nay dạy như vậy, ngày mai các thầy phải triển khai qua kinh nghiệm của mình làm cho người ta tu dễ dàng hơn nữa thì cái đó là cái mong muốn của Thầy chớ không được nhai lại, Thầy nói làm sao nhai lại như vậy điều đó là cái điều sai hết và không đào tạo những con người có những cái thông minh sau này.
Bởi vậy người ta chỉ nhai đi nhai lại những kiến giải của kẻ khác, tưởng đó là hay nhưng mà sự thực ra đó là cái học lóm chớ không có gì mà hay hết. Cho nên các Tổ sư nói đó là đờm dãi của người xưa. Nghĩa là cái người xưa người ta đã đặt ra cái đó rồi, bắt đầu bây giờ mình nhai đi nhai lại cũng bây nhiêu đó thôi, lặp đi lặp lại cũng bây nhiêu đó thôi, không có cái gì khác hơn hết thì tức là mình chẳng có gì. Cho nên những người sau đều lụn bại và Phật pháp suy đồi và Thiền tông suy đồi cũng là điều lặp lại không có phát triển, mà phát triển lại là phát triển không đúng cách, không đúng lối. Phát triển con người phải trở thành những con người đạo đức chơn thật, phát triển đến con người thiếu đạo đức, con người lung tung, hành động thô tháo không còn có chỗ nào mà khen được. Cho nên ở đây cái phát triển phải là phát triển trong khuôn khổ của một con người chơn tu chớ không phải là phát triển trong những con người thiếu tu.
Đến đây Thầy xin chấm dứt. Và chúng ta bây giờ Thầy tiếp tục cái bài học, mình đã học xả tâm vô lượng. Mà thầy đã giải thích xả là gì rồi. Bây giờ nó đã tới cái chỗ mà mình đã xả, kế tiếp đó quý vị phải tiếp tục xả bỏ sáu cái pháp dục lạc của thế gian. Đó là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
Vậy sắc là gì?Sắc là mọi hình ảnh của các pháp có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta làm cho ta ưa thích, gợi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ. Đó là cái sắc. Bởi vì khi mà xả cái tâm vô lượng này, ở chỗ sắc thì chúng ta phải thấy cái đối tượng của nó với cái tâm của chúng ta là gì. Bởi vì cái tâm vô lượng thì phải xả cái hình ảnh sắc trước. Mà xả cái hình ảnh sắc trước, thì đó là cái đối tâm của chúng ta để gợi lên cái sự thích thú, cái sự khả ái khả lạc khả hỷ. Chúng ta thích nó mà chúng ta mới chạy theo nó. Cho nên muốn xả cái tâm vô lượng này thì phải xả như thế nào để chúng ta thấy cái ái đó, cái lạc đó, cái hỷ nó đó đúng hay là không đúng. Đó là cách thức chúng ta phải biết so sánh để mà chúng ta biết nó để mà chúng ta xả. Còn nếu không biết thì chúng ta lấy gì mà chúng ta xả?
Thinh-bởi vì ở đây nó có sáu cái đối tượng để mà chúng ta, sáu cái đối tượng tức là sáu cái pháp lạc của thế gian nó làm cho chúng ta bị say mê ham thích. Cho nên chúng ta phải biết cho rõ sáu cái mặt của pháp này là cái gì. Như hồi nãy thầy nói sắc là những hình ảnh, sắc tướng của các pháp nó có sức cám dỗ và lôi cuốn chúng ta. Bây giờ tới thinh - thinh là gì? Thinh là âm thanh của các pháp có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho ta dễ chịu, ưa thích, gợi lên khả ái, khả lạc, khả hỷ khiến ta thích thú say mê. Đó, thì đó là cái âm thanh.
Hương - hương là gì?Hương là mùi thơm của các pháp có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho ta dễ chịu, ưa thích, gợi lên những khả ái, khả lạc, khả hỷ khiến ta thích thú, say mê.
Vị - vị là gì?Vị là mùi vị ngon ngọt cay đắng, chua mặn của các pháp có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta, làm cho ta dễ chịu, ưa thích, gợi lên những khả ái, khả lạc, khả hỷ khiến ta thích thú, say mê, khó quên.
Xúc - xúc là gì?Xúc là sự va chạm vào các pháp sanh ra cảm thọ êm ấm, nóng, mát, lạnh, đau nhức, nhẹ nhàng, khinh an, hỷ lạc, lâng lâng, say say, cảm giác khoái lạc, cảm giác sung sướng, cảm giác mừng vui, cảm giác buồn khổ… Ở đây vì cái xúc, chúng ta nói đến xúc thì gồm, nó có ba cái cảm giác rất là rõ ràng và cụ thể. Ba cái cảm giác đó thì:
- Thứ nhất Phật gọi là thọ lạc,
- Thứ hai Phật gọi là thọ khổ,
- Thứ ba Phật gọi thọ bất lạc bất khổ.
Đó là, những cái cảm giác đó thì Phật chia làm ba cái phần để chúng ta nhận xét ba cái thọ đó, để chúng ta biết rằng dù chúng ta rơi vào cái thọ lạc thì chúng ta cũng đừng có thích thú. Mà rơi vào cái thọ khổ thì chúng ta cũng đừng có sợ hãi. Mà rơi vào cái thọ bất lạc bất khổ thì cũng đừng cho đó là thanh tịnh hoặc là thiền định. Thì điều đó là cái điều sai hết. Vì còn cảm thọ mà biết nó thọ bất lạc, bất khổ thì đó cũng là một cái trạng thái sai trong cái sự tu hành của chúng ta. Đừng cho đó là Niết bàn, cũng đừng cho đó là một cái gì cả hết, vì đó là thọ bất lạc bất khổ. Hầu hết là số người tu hành mà thiền định mà rơi vào trạng thái này tưởng là mình đã nhập định. Cho nên đó là cái sai phải nhận xét. Vì nói đến xúc - nói đến xúc là sự va chạm mới sinh ra thọ. Mà sanh ra thọ thì chúng ta phải xét qua ba cái trạng thái thọ để mà chúng ta biết cái đúng cái sai. Trên con đường đi, con đường tu tập chúng ta gặp rất nhiều những cái cảm thọ này. Nghĩa là ba cái cảm thọ này chúng ta luôn luôn gặp rất nhiều. Vì vậy mà ở đây phải giảng chỗ này để chúng ta thấy rõ mà chúng ta tránh nó. Vì con đường nhập định của Phật nó không lọt vào ba cái cảm thọ này. Mà còn có ba cảm thọ này thì con đường đó gọi là tà thiền, tà định chứ không phải là chánh định, chánh thánh định của Phật.
Phápở đây chỉ cho tất cả những sự hiểu biết từ kim cổ đến triết học, văn học, sử học, địa lý học, thiên văn học, toán học, các bộ kinh sách của các tôn giáo trên thế gian đều gọi là pháp. Tất cả các pháp đó Phật dạy đó là kiến chấp của thế gian. Nó có sức cám dỗ và lôi cuốn tâm ta làm cho ta ưa thích xem đó là chánh pháp, đúng pháp, ôm chặt khư khư không muốn rời bỏ. Cho đó là khuôn ngọc thước vàng, là mẫu mực cho đời sống thường nhân. Hoặc tu hành các pháp này có sức lôi cuốn tâm ta khiến ta ưa thích, gợi lên sự hiểu biết này, hiểu biết khác, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khiến cho ta dính mắc không buông xả được. Vì thế mới có tranh luận hơn thua. Đó, nó trở thành, vì cái chỗ mà nó gợi cho chúng ta những cái hay cái dở trong đầu chúng ta, cho nó là đúng, cho nó là này kia thì đó là trở thành kiến chấp của chúng ta. Cho nên khó mà có thể bứt rời ra được.
Vì vậy mà một người học nhiều, biết nhiều, hiểu nhiều về kinh sách nhiều thì những người đó là những người bị Sở tri chướng. Và những người đó là những người bị kiến chấp. Một khi bị một kiến chấp rồi mà buông ra là một điều rất khó, chớ không phải dễ. Cho nên khi họ bị kiến chấp rồi mà họ sống lại cái đời sống của phạm hạnh, giới luật thì họ sống không được. Họ cho đó là bị mất tự tại, không còn vô ngại nữa, bị giới luật trói buộc người đó là chấp giới. Chớ họ không thấy rằng cái giới luật của Phật là một ông thầy để dẫn đường cho người đó rèn luyện thân tâm của họ đến cái chỗ giải thoát y như giới luật. Mới đầu người mới tu thì xem như bị ràng buộc, bị trói buộc cho nên họ thấy rằng không có vô ngại được, không có tự tại. Là như vậy là không có giải thoát. Vì cái kiến chấp, vì cái nông cạn mà họ không thấy xa của giới luật nó sẽ giải thoát như thế nào. Vì họ chưa từng sống trong giới luật cho nên họ chưa biết sự giải thoát của giới luật. Vì vậy mà cái kiến chấp đó làm cho họ mê mờ, họ tưởng rằng sống trong giới luật là khổ sở, không có tự tại, không có giải thoát, còn sống rời khỏi giới luật là có tự tại, có giải thoát rõ ràng cụ thể nhưng cuối cùng họ chết chìm ở trong ngũ dục lạc mà họ không hay biết.
Bây giờ quý thầy đã hiểu rõ toàn bộ các pháp ở thế gian là pháp cám dỗ, thu hút lôi cuốn tâm con người đi đến chỗ làm ác, tạo bao cảnh khổ đau cho nhau. Thì các thầy thấy rất rõ là sáu cái pháp ở trên thế gian này. Nó có sức thu hút và lôi cuốn mọi con người, dù con người đó là con người phàm phu vẫn bị lôi cuốn, cho đến những bậc tu hành có hàng giáo phẩm cao siêu nhưng họ vẫn bị lôi cuốn. Mà họ không hay biết, họ tưởng rằng mình tự tại vô ngại. Nhưng cuối cùng họ vẫn bị lôi cuốn ở trong đó mà họ không hay biết. Đó là họ làm cho họ vô minh mê mờ mà họ không thấy. Cái sức lôi cuốn nó làm cho họ nghĩ luận ra là mình không bị lôi cuốn nhưng chính họ đã bị lôi cuốn. Vì cái đời sống của họ, chúng ta đã nhìn thấy rõ ràng là họ đang sống ở trên đó. Nhưng họ nói họ không bị, tức là họ đã bị. Còn đời sống chúng ta trắng bạch như vỏ ốc thì làm sao mà chúng ta bị được? Trái lại đời sống của họ không trắng bạch như vỏ ốc mà họ nói tâm họ trắng bạch như vỏ ốc thì không thể làm sao mà người ta tin được vì lời nói không đi đôi với cách sống của họ. Cho nên chúng ta xét người thì biết được người đó có thực hiện giải thoát hay không. Chớ không phải nghe mà chạy theo họ để rồi tin ở miệng họ. Bởi vậy đạo Phật xét người qua cái đức độ, qua cái giới hạnh. Chứ không thể xét người qua những cái bên ngoài của họ được.
Muốn trau dồi tâm ta, tâm xả vô lượng các pháp thế gian. Ta nên lựa một chỗ thanh vắng tịch mịch như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, bóng mát, dưới tàng cây, ngoài trời hoặc trong chòi lá, sau khi ăn uống xong đợi cơm, thực phẩm tiêu hóa khoảng hai giờ. Ta hãy ngồi kiết già lưng thẳng tại chỗ nói trên và an trú đặt niệm trước mặt. Bây giờ ta đặt niệm gì đây? Đầu tiên chúng ta đối với hình ảnh của các pháp, cho nên chúng ta đặt niệm sắc dục. Nghĩa là đầu thì chúng ta thấy sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu cái đối tượng mà nó cám dỗ chúng ta, thì cái sắc là cái đầu tiên. Vậy thì cái sắc là cái đầu tiên để mà chúng ta tu tập thì chúng ta phải đặt nó ở trước mặt của chúng ta. Khi mà chúng ta đã ngồi thẳng lưng kiết già nơi yên tịnh, chúng ta đặt cái niệm đó trước mặt. Là một niệm trong năm niệm dục lạc của thế gian. Bây giờ thầy dạy quý thầy xả tâm vô lượng sắc dục thế gian phải đặt niệm như thế nào để xả ly cho được. Đó là cách thức mà hành pháp. Hồi nãy ở trên thì Thầy nói về sắc. Đó là lý pháp chớ không phải hành pháp. Còn đến đây khi mà tạo được cái điều kiện như là chúng ta tìm cái chỗ thanh vắng, yên tịch, tịch mịch; bắt đầu ăn cơm xong rồi mới ngồi thẳng lưng. Chớ không phải là muốn ngồi lúc nào thì ngồi, hay hoặc là đặt niệm lúc nào cũng được. Mà phải tìm một cái nơi thanh vắng, yên tịnh, bởi vì người tu mà chứ đâu có phải là người lăng xăng ở thế tục đâu. Cho nên chúng ta phải coi như là cái niệm sắc dục ở trước mặt chúng ta rất là quan trọng. Để chúng ta đập vỡ và phá nó chứ còn chúng ta coi thường nó, thì nó lôi cuốn chúng ta hổng hay đâu. Cho nên chúng ta phải xem cái hành động tu tập của chúng ta rất là quan trọng. Mỗi một ý niệm của chúng ta trong bây giờ là một nhát búa mà đập vào sắc dục. Chứ không phải cái ý niệm chúng ta, cái niệm của chúng ta bây giờ coi nó là thường thì quý thầy sẽ không đập nổi sắc dục đâu. Nó rất khó. Cho nên ở đây mỗi mỗi chúng ta phải có sự rèn luyện và trau dồi mình cho đầy đủ. Chớ còn nếu không luyện tập trau dồi thì rất là khó. Mà Phật đã dạy chúng ta có một cái phương pháp rất là tuyệt diệu. Đó là pháp hướng Như lý tác ý. Vậy thì chúng ta đặt cái niệm đó rồi, niệm sắc dục rồi chúng ta phải theo cái pháp hướng mà như cái lý của nó mà tác ra, tác ý ra.
Vậy thì tác ý như thế nào?
Sắc dục là con đường sanh tử của muôn loài, con đường đầy đau khổ triền miên bất tận kiếp này sang kiếp khác. Ta phải xả bỏ, từ khước thoát ly ra khỏi, từ giã không nên để tâm ta dính mắc nó nữa.
Đó là một cái câu mà đây là trạch pháp cái câu này ra để trở thành một cái pháp hướng như cái lý đó mà tác ý ra. Hàng ngày chúng ta ngồi lại những nơi thanh vắng đó: dưới lùm cây, trong khe suối, nơi yên tịnh trong một cái chòi lá, rồi chúng ta đặt niệm đó. Rồi chúng ta lấy cái niệm đó mà chúng ta nhắc, rồi nhắc đi nhắc lại. Rồi ngồi yên tịnh một hơi, rồi chúng ta lại tiếp tục nhắc nữa. Và cứ như thế chúng ta nhắc mãi cho đến khi mà chúng ta xả thiền đi kinh hành mà thôi. Nghĩa là chúng ta thấy mình ngồi có hơi đau chân hay tê chân là ngay đó quý thầy hãy đứng dậy đi kinh hành. Còn chưa đau chân tê chân thì quý thầy ngồi tiếp tục mà hướng tâm nhắc nữa. Nhắc cho nó thấu cái lý, nhắc cho nó thấm như cái lý chân thật của sắc dục thì chúng ta mới đoạn trừ nó được. Chớ không phải nhắc sơ sơ một hai lần rồi lười biếng rồi bỏ qua. Thì quý thầy tu như vậy Thầy mệt mỏi quá. Không có một việc làm nào mà ngay liền tức khắc mà thành tựu được, mà phải có sự bền chí rèn luyện lâu dài. Không có một công trình nào mà có một ngày mà thành công được mà phải có một thời gian dài mới thành công được. Pháp thì hay mà người có bền chí tu tập hay không? Điều đó là do ở chỗ quý thầy tự thắp đuốc lên mà đi. Tự quý thầy phải nỗ lực, phải siêng năng, phải tu tập. Còn quý thầy không nỗ lực, không siêng năng thì Thầy cũng không thể nào thắp đuốc lên cho quý thầy đi mà được. Chữ thắp đuốc lên ở đây có nghĩa là phải siêng năng, phải nỗ lực. Đuốc này tắt thì phải nối đuốc khác mà đi cho hết quãng đường đen tối trong rừng âm u. Đây là câu trạch pháp để quý thầy dùng nó mà hướng tâm xả bỏ. Hằng ngày quý thầy phải siêng năng tu tập, trau dồi. Câu này để đoạn dứt tâm ái dục.
Đó thì quý thầy phải nghe lời Thầy mà cố gắng. Chỉ có quý thầy mới cứu quý thầy mà thôi. Chỉ có hành động tu quý thầy mới cứu quý thầy thôi. Pháp hành thì quá rõ ràng mà quý thầy không có hành thì làm sao đi tới được? Hoặc là quý thầy hành chơi để cho qua, ngồi đó lấy lệ. Nhắc một câu hai câu rồi không nghiêm chỉnh. Để tâm thả hồn phiêu diêu nơi cực lạc hoặc là để tâm theo hơi thở để mà thọ hưởng hỷ lạc. Thì điều này chắc chắn là không bao giờ tới nơi tới chốn. Khi tu một cái pháp định nào thì phải là cái pháp đó phải thật sự chuyên cần, trau dồi bằng một cái ý thức cụ thể, rõ ràng, tỉnh táo. Chớ không phải đi tìm hỷ lạc, khinh an của pháp này chuyển qua pháp khác. Ngồi một hơi nghe hơi thở nhịp an ổn, thả hồn theo sự an ổn đó mà quên đi những câu hướng tâm này. Thì ngàn đời sắc dục không bao giờ lìa được.
Đó là những lời Thầy nhắc nhở, quý thầy hãy cố gắng mà ghi trong lòng, đừng quên khi không có mặt Thầy ở gần. Có Thầy, Thầy nhắc đi nhắc lại, mà không Thầy thì tự tâm mình nhắc mình. Tự tâm mình phải rèn luyện cho mình thì mình mới cứu lấy mình. Khi có Thầy còn có như ông cha săn sóc, không có Thầy thì quý thầy thấy như mình bơ vơ. Phải tự cứu lấy mình, phải gan dạ, phải lầm lì, phải nỗ lực, phải siêng năng đừng lười biếng. Nếu quý thầy dùng câu trạch pháp này chưa xả được thì quý thầy tiếp tục hướng tâm Như lý tác ý một câu khác nữa. Đây thầy cho thêm một cái câu khác nữa để quý thầy thấy cái câu này nó không phù hợp với đặc tướng của mình, mình nhắc hoài mà sao chưa thấy nó có hiệu quả. Do đó Thầy cũng sợ quý thầy không đủ cái sức của mình để triển khai trạch pháp những cái pháp để trở thành những câu hướng tâm, như một cái lý tác ý cho đúng. Cho nên kế đó để đối trị với cái sắc dục thì quý thầy phải nhắc cái câu này:
Sắc dục là bất tịnh, là uế trược, nhớt nhao, hôi thúi, tanh hôi khó chịu, bẩn thỉu vô cùng, tạo muôn ngàn thứ bệnh tật tai ương và truyền nối nhau nhân quả luân hồi kiếp này đến kiếp khác không bao giờ thôi dứt. Một người để lại muôn người khổ. Khổ khổ nối mãi truyền nhau vô cùng vô tận. Ta phải quyết tâm xả bỏ, xa lìa, viễn ly vĩnh viễn, chẳng dám bén mảng. Xem nó như rắn độc, ung nhọt, nguy hiểm, tai nạn, tai họa to lớn, chỗ ác độc, chỗ bệnh truyền nhiễm nan y không thuốc chữa được.
Đó là một cái câu để mà chúng ta nhớ thuộc làu. Khi mà chúng ta ngồi đặt lưng là chúng ta nhắc toàn bộ câu này ra, rồi chúng ta ngồi đó để lặng tâm. Khi nhắc xong rồi chúng ta ngồi đó lặng tâm giữ tâm thanh thản. Cho đến một lúc nữa chúng ta lại nhắc nữa và cứ như vậy những nhát búa đó mà chúng ta đập vào tâm sắc dục chúng ta. Lần lượt chúng ta sẽ thấm thuần, trau dồi được cái tâm xả, cái sắc dục của chúng ta. Chúng ta xả sạch, xả bỏ không còn có một dính mắc nào. Thấy cái sắc dục là chúng ta đã hoảng sợ không còn có ham thích nữa. Có như vậy thì quý thầy mới chấm dứt được cái tâm sắc dục. Còn không có mà tu tập như vậy thì nó chỉ ẩn núp ở trong tâm quý vị. Rồi quý vị vẫn len lét mà lén mà nhìn, mà ngó chứ chưa phải là quý vị thôi đâu. Còn ở đây khi quý vị tu tập xong rồi thì quý vị không còn có cái ham thích nữa. Từ đó quý vị đã từ giã hẳn hòi cho nên quý vị nhìn cái giới mà khác giới của quý vị, quý vị thấy hoàn toàn là bẩn thỉu và dơ bẩn và độc ác và khổ đau. Chớ không còn có cái hạnh phúc, có cái cảm giác thích thú nữa.
Đó, tóm lại là phải siêng năng, phải tập luyện. Thầy đã trao tất cả những kinh nghiệm để mà quý thầy biết để mà tu hành. Dùng thực nó chớ không phải là sai được. Những cái pháp như vậy mà nó có cái chuyện của Phật, trong kinh điển của Phật dạy Tứ niệm xứ, Ngài cũng bảo trên thân quán thân nhưng những cái pháp dạy trong đó chung chung. Cho nên người mà đọc lại những cái bài kinh này làm cho người ta không biết đâu mà quán. Người ta chỉ quán chung chung bằng cách này bằng cách khác mà thôi. Phật dạy trên thân quán thân, rồi bất tịnh, rồi quán thân để khắc phục tham ưu của mình. Không biết lúc nào mà khắc phục tham ưu, lúc nào mà quán thân bất tịnh. Bởi vì ở đây chúng ta xả cái tâm, cái tâm sắc dục, cái tâm ái. Cho nên chúng ta phải xả nó. Mà phải xả bằng cách nào? Vì vậy mà chúng ta đặt niệm trước mặt. Tức là trên thân của chúng ta quán cái thân. Quán thân mình, quán pháp cho nên do đó mà chúng ta xả. Thì như vậy là chúng ta đi đúng vào cái pháp môn để mà chúng ta thực hiện trong cái hành pháp cho nó đúng.
Còn nói chung chung như trên Tứ niệm xứ - trên thân quán thân như thế này thế khác là nói chung chung chứ chưa phải là đúng nó. Sau khi dạy Tứ niệm xứ Thầy sẽ phân tích tu cái nào ở trên hành tướng nào. Trên thân quán thân mà tu cái hành tướng nào, tu cái nhân tướng nào, tu cái đặc tướng nào. Mà xả ly được cái gì, làm cái việc gì đólà tất cả những cái mà cái câu mà trạch pháp ra nó trở thành một cái niệm. Cái niệm đó để nó phá vỡ đi những cái tâm trạng nào của chúng ta.Phá vỡ đi những cái pháp nào mà chúng ta bị dính mắc.
Đó như vậy, nó phải rõ ràng và cụ thể. Còn nếu mà chung chung như trong kinh sách Phật hiện giờ thì con người đọc kinh sách Phật không biết hành pháp là ở chỗ nào. Rồi lúc tu vầy lúc tu khác, kết quả không đem đến cụ thể cho quý vị, làm cho quý vị càng tu lại càng chán nản cho nên mới đi lạc lầm vào tất cả các pháp khác của ngoại đạo, cứ ngỡ tưởng đó là Phật pháp mà thôi.
Tóm lại muốn xả tâm vô lượng sắc dục thế gian ta hãy siêng năng tu tập trau dồi tâm xả của ta. Hằng ngày không được biếng trễ thì mới xả ly được. Tinh tấn chớ có phóng dật theo nó. Nghĩa là luôn luôn lúc nào chúng ta cũng phải tinh tấn. Nghĩa là chúng ta phải ngăn chận, đừng có thấy nữ sắc mà chúng ta phóng theo, cái tâm chúng ta nhìn theo nó. Lúc bấy giờ mà đang tu thì quý vị phải cắt ly không được nhìn thấy nữ sắc. Đó là một cái điều tiên quyết quan trọng. Lúc bấy giờ cái người mà đang tu những cái pháp mà xả về cái ái dục này thì tức là đừng có nhìn cái sắc dục của người nữ, đừng có nhìn cái tướng tá của người nữ, đừng có nhìn cái làn da, cái môi của người nữ. Cho nên Phật dạy: Ta không thấy một pháp nào mà có thể lôi cuốn người nam bằng cái nụ cười, bằng cái sắc của người nữ, bằng cái miệng của người nữ, bằng cái mắt của người nữ, bằng cái da của người nữ, bằng cái hương thơm của người nữ.
Đó thì các thầy thấy ông Phật ổng xác định như vậy cho nên khi mà chúng ta quyết tâm xả cái tâm này thì chớ có phóng dật theo nó. Nghĩa là đừng có phóng tâm theo nó, đừng có chạy theo nó nữa mà hãy quay trở vào trong mà cố gắng tập luyện trong thời gian một tháng hai tháng thì quý thầy sẽ thấy cái sự tu tập của quý thầy sẽ xa lìa từ bỏ nó rất là tuyệt diệu. Còn nếu quý thầy vừa tu bữa nay, ngồi tu đây quán như vậy, đem cái câu hướng tâm vậy mà ra kia thì tiếp duyên nói chuyện với mấy bà thì thôi thôi một ngàn đời Thầy nói quý thầy cũng không làm được gì hết. Tu như vầy uổng công lắm, thôi đi về cưới vợ đi mà sống. Ngồi tu thì có hình thức, mà ra thì tiếp chuyện với mấy bà nói thôi huyên thuyên không biết bao nhiêu mà kể. Thì cái chuyện đó là cái chuyện không thể tu được, phải tránh xa cái thứ rắn độc đó đi, cái thứ đó là cái thứ đem lại cuộc đời chúng ta đau khổ mà người tu sĩ của đạo Phật phải sợ. Sợ còn hơn là sợ cái gì nữa. Nó đem lại cho chúng ta biết bao nhiêu cái khổ đau mà chúng ta đâu có thấy. Tưởng là cái dục lạc đó nó có một chút xíu thôi mà nó đem muôn ngàn cái sự khổ.
2.4.2 Xả tâm tiền bạc, của báu
Bây giờ đến chúng ta xả cái kế nữa. Bởi vì xả ái dục rồi, xả sắc rồi thì bắt đầu bây giờ chúng ta xả đến tiền bạc của báu. Lợi mà, làm sao mà phải xả chứ còn không xả thì làm sao chúng ta đi tới cái chỗ giải thoát được, nó cám dỗ chúng ta cũng rất mạnh đây. Bây giờ Thầy dạy quý thầy xả tâm vô lượng của báu vàng bạc vật chất thế gian.
Tới cái giai đoạn này thì chúng ta phải biết rằng cái vật chất thế gian, tiền bạc coi vậy chứ khó xả lắm. Một cái bọc cao su nhỏ vầy thôi mà mình cũng chưa dám bỏ trong thùng rác nữa. Thấy nó còn lành lành nhét đó ít bữa để lấy đựng lại, thì thử hỏi cái gì mà dám xả. Muốn vô, đem vật chất vô thêm chớ còn chưa muốn xả đâu. Đó, những cái mà chúng ta phải hiểu biết ở đây là chúng ta xả tâm vô lượng thì phải xả các pháp vô lượng. Mà xả cái đối tượng tiền bạc của chúng ta là một cái điều dục lạc. Năm cái dục lạc rất là khó xả. Vì vậy mà cái xả tâm này phải thấy được, bỏ nó đi, cho nó thực. Và đồng thời phải nhắc đi, nhắc lại nhiều lần mới có thể xả được. Chứ không phải nói ừ tui xả tui bỏ đâu. Nghe cái chuyện mà ông Bàng Uẩn đem của cải, vàng bạc đổ xuống sông, chúng ta nghe thì dễ lắm. Nhưng thử chúng ta đem đổ coi chúng ta có tiếc không? Chắc chắn là chưa dám đâu. Chưa có ai dám làm được điều đó đâu. Đem bố thí để cầu danh chứ còn làm chuyện đó thì đem đổ uổng quá đâu có ai biết mình. Đó là những cái tâm mà chưa xả đó. Rồi chúng ta còn lý luận ông này ngu quá, có tiền bạc đem đổ không cho ai hết. Để cho người ta phải đỡ không. Chết là cái chỗ mà để cho người khác đỡ đã là cái ngu rồi. Đã mình vì tiền bạc của cải mình khổ suốt cái đời của mình rồi. Mình đem cho người ta làm cho người ta đắm mê nữa, là mình đem gieo thêm cái họa cho người ta chớ đâu phải sung sướng gì? Bởi vì ông Bàng Uẩn ổng đã thấy được cái nhân quả. Cho nên nếu đem cái rắn độc này đến nhà người ta thì người ta lại đam mê, người ta bị lôi cuốn ở trong cái đó nữa thì ngýời ta lại khổ. Nhân quả của họ nghèo họ phải trả nhân quả họ, mà họ trả cho trong sạch thì họ mới vượt thoát ra cái nhân quả.
Muốn trau dồi tâm xả tiền bạc, của báu vật chất thế gian ta phải đặt niệm trước mặt. Dùng pháp hướng Như lý tác ý - đây là cái câu đây:
Tiền bạc của cải châu báu là những vật chất cám dỗ lôi cuốn rất mạnh làm cho tâm ta ham mê, say thích mà chạy theo tạo ra biết bao nhiêu điều tội ác.
Đó, mình nhắc nó như vậy đó. Nếu mà muốn có tiền bạc mình phải có làm những điều này điều kia chứ. Một ông nhà nông mà muốn có lúa gạo, có tiền bạc thì ổng phải giết bao nhiêu con vật ở dưới ruộng lúa không, ổng phải cày xới biết bao nhiêu côn trùng chết không. Đó thì chúng ta thấy, đó là cái nghề lương thiện chứ chưa phải là cái nghề cướp giựt ai đó. Nhưng mà còn phải biết bao nhiêu chúng sanh phải chết. Còn tất cả những cái nghề khác nó còn giày xéo lên nhau, lên con người nhau để mà xâu xé từng đồng bạc. Giết nhau từng đồng bạc thì chúng ta thấy nó có tệ hại không? Nên lấy câu này trạch pháp mà nhắc đi nhắc lại trau dồi tâm ta cho thấm nhuần.
Bây giờ Thầy cho thêm một câu nữa để chúng ta có những cái câu, bởi vì chúng ta đã học xả thì chúng ta phải có những cái trạch pháp, những cái câu để chúng ta nhắc cho nhiều, nhắc cho thấm nhuần, nhắc cho tận xương tủy của chúng ta. Từ đó chúng ta mới xa lìa nó được. Đây là một cái câu nữa:(BBT:BN,12,00:41:23)
(BBT:CĐ,12B,E00:45:08).Vì tiền bạc châu báu vật chất thế gian mà con người xâu xé lẫn nhau. Nhà nhà không yên ấm, nước nước mất thái bình. Ta phải từ bỏ tiền bạc của báu vật chất thế gian (BBT:CĐ,13A,B00:00:00)như bỏ đôi giày rách.(BBT:BN,12,00:41:40)(BBT:CĐ,13A,E00:00:09)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét