BĂNG SỐ 60
Xinquý thầy chấp tay
lên niệm hồng danh Đức Bổn Sư để tưởng nhớ công ơn của Người.
Nam mô Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Phật (3 lần).
Quý
thầy đã niệm Phật xong, hãy nghe nối tiếp bài học hôm qua. Bây giờ Thầy đọc lại bài kệ thứ mười tám
để quý thầy và các con nghe và suy ngẫm cho kỹ.
Bài
kệ thứ mười tám:
Đây là một mụtnhọt
Và cũng là tai họa
Mũi tên là tật bệnh
Là sợ hãi cho ta
Thấy sự nguy hiểm này
Do các dục trưởng dưỡng
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Cái bài kệ này đức
Phật xem các pháp, các pháp mà dục của thế gian mà được trưởng dưỡng thì nó như
cái mũi tên mà đâm vào tim của chúng ta và nó là những sự sợ hãi cho ta, nó là
những cái sự nguy hiểm và những cái sự tai họa cho ta chứ không phải. Chúng ta
xem dục, các lòng ham muốn của chúng ta như là cái mụt nhọt, như là cái tai
họa, như là cái bệnh tật, như là cái mũi tên đâm vào tim của chúng ta. Cho nên
cái sự nguy hiểm, cái sự sợ hãi này, đối với các dục trưởng dưỡng này chúng ta
phải sợ hãi. Vì nếu mà chúng ta không sống độc cư, không sống một mình được thì
các dục này nó sẽ bị nuôi lớn. Cho nên cái bài kệ thứ mười bảy thì đức Phật xác
định rằng muốn ly dục, ly ác pháp thì chúng ta hãy sống riêng một mình. Và đức
Phật lại sợ chúng ta chưa thấy cái sự nguy hiểm của các dục cho nên cái bài kệ
thứ mười tám thì Phật cho chúng ta biết thêm các dục nó như là cái mụt nhọt.
Cái mụt nhọt có nghĩa là nó đau, nó nhức, nó khổ sở lắm. Nó là tai họa, các dục
nó là cái tai họa nó sẽ đem đến cho chúng ta cái khổ. Cái lòng ham muốn của
chúng ta nó sẽ đem đến cho chúng ta cái khổ. Nó giống như cái mũi tên nó đâm
suốt vào con tim của chúng ta, nó làm chúng ta đau đớn lắm. Và bệnh tật - nó là
tật bệnh, nghĩa là luôn luôn nó đem đến cái sự đau khổ. Nó là cái sự sợ hãi -
các dục đó nó làm chúng ta sợ hãi cái này sợ hãi cái khác. Nó là cái sự nguy
hiểm nhất cuộc đời của chúng ta. Cho nên nó là nguyên nhân đau khổ như ở trong
Tứ diệu đế (cái Tập đế). Nguyên nhân đau khổ là cái dục, cái lòng ham muốn của
chúng ta.
Như vậy vì muốn mà
khắc phục cái lòng ham muốn này, ức chế được cái lòng ham muốn này chỉ duy nhất
chúng ta phải sống riêng một mình. Mà nếu không sống riêng một mình thì không
bao giờ mà chúng ta hàng phục được cái tâm dục này (cái lòng ham muốn này). Cho
nên cố gắng mà sống riêng được một mình thì chúng ta mới ly được dục, mới ly
được ác pháp.
Đó là cái bài kệ để
xác định cho chúng ta muốn nhập được cái sơ thiền là ly dục ly ác pháp nhập sơ
thiền. Mà muốn sống được mà ly dục ly ác pháp là phải sống độc cư, phải sống
riêng rẻ, phải sống một mình thì mới có ly dục được. Hai cái bài kệ này có một
cái giá trị rất lớn cho chúng ta tu tập thiền định của đạo Phật. Nếu chúng ta
sống không đúng thì chúng ta không bao giờ thực hiện được con đường thiền định
này. Mà chúng ta sống đúng thì tức là chúng ta sẽ thực hiện được con đường
thiền định. Mà sống độc cư không có nghĩa là chúng ta giam mình trong cái thất
gọi là nhập thất rồi nỗ lực tu cái này cái kia đâu. Chúng ta sống ở trong đó,
độc cư một mình mà chúng ta sống biết cách sống chứ không phải là không biết cách
sống. Sống biết cách cho nên cái tâm của chúng ta nó cởi mở, nó vui, nó thích
thú, nó âm thầm, nó lặng lẽ mà nó có một cái niềm hân hoan của cái sự ly dục,
ly bất thiện pháp. Cho nên Phật nói ly dục, ly bất thiện pháp nhập sơ thiền. Do
ly dục sanh hỷ lạc, do cái ly dục đó, do cái sống độc cư đó mà ly được cái dục
rồi thì nó đem đến cho chúng ta một cái sự an lạc, sự hạnh phúc vô cùng, cái sự
thích thú mà liên tục không có phút nào mà ngừng nghỉ cái sự an lạc đó, cái sự
hỷ lạc đó.
Thì bài kệ thứ mười
tám này đức Phật nhắc các dục nó như là cái mụt nhọt, cái mụt đau đớn, nó là
cái tai họa, nó là cái mũi tên độc, nó là cái bệnh tật, nó là cái niềm sợ hãi
của chúng ta và nó cũng là cái sự nguy hiểm nhất cho cái đời sống của con
người, của tất cả con người ở trong cái thế gian này. Nhưng người ta không
biết, người ta chạy theo nó để mà nuôi cái dục, trưởng dưỡng càng ngày càng lớn
thì cái sự đau khổ của họ càng nhiều. Cho nên chúng ta quyết định là ly nó thì
quyết định ly nó thì phải ly bằng cách nào? Tức là chúng ta phải sống độc cư,
phải sống riêng một mình. Mà sống riêng một mình thì mới có ly được nó.
Đó hai bài kệ Đức
Phật xác định cho chúng ta thấy rằng muốn mà sống độc cư, đó là cách thức mà
chúng ta sống để mà chúng ta ly dục ly ác pháp đó. Đó thì từ cái bài kệ này,
hai bài kệ này chúng ta thấy rất rõ là cái lối tu tập của chúng ta mà Thầy
thường nhắc cho quý thầy cũng như các con nghe. Bí quyết thành công của thiền
định là phải sống độc cư. Phải không? Thầy đã nhắc từ lâu mà, đâu phải mới đây.
Cho nên không sống độc cư làm sao ly dục ly ác pháp mà gọi là thiền định. Mọi
người người ta vẫn hô ngồi thiền, nhập định, hít thở; nào sổ tức tùy tức, nào
là tịnh chỉ, nào là thiền Minh sát tuệ, nào là thiền Công án, nào là thiền Tổ
sư thiền, nào là biết vọng liền buông, nào là chẳng niệm thiện niệm ác, nào là
ưng vô sở trụ nhi sanh kì tâm... Người ta nói đủ loại đủ thiền, người ta nói ly
cái này, ly cái kia, ly cái nọ nhưng cuối cùng thì người ta không thấy được cái
mấu chốt, cái bí quyết của sự thành công của thiền định. Cái bí quyết của sự
thành công của thiền định đâu có gì khó hơn là chúng ta sống độc cư, sống một
mình, sống có pháp tu hành, có cách thức tu tập, có cách thức rèn luyện, có
giới luật để phòng hộ sáu căn, có cách thức để mà tạo tu tập, cho nên độc cư mà
chúng ta thấy chúng ta sống một mình mà chúng ta thấy sống rất là an ổn, rất là
giải thoát, rất là an vui. Chớ đâu phải sống không có pháp, chúng ta sống có
cách thức, có đủ cách để mà chúng ta tu hành giải thoát mà.
Như vậy là quý thầy
đã thấy rõ con đường tu tập của đạo Phật đâu có gì mà đức Phật dấu diếm chúng
ta đâu. Chính những cái bí quyết đó mà đức Phật đã nói lên những cái bài kệ
khuyên lơn chúng ta bằng cách này bằng cách khác để chúng ta thực hiện được cái
hạnh độc cư mà chúng ta ly lìa xa tất cả mọi cái dục của thế gian, mọi cái cám
dỗ của thế gian, mọi cái ràng buộc của thế gian làm chúng ta không có thực hiện
được con đường giải thoát, tu tập được con đường giải thoát. Cho nên cái hạnh
độc cư là cái bí quyết mà thành công trên con đường của đạo Phật.
Nhưng phải hiểu hai
chữ độc cư, đừng có hiểu nó bằng một cách cạn cợt mà hiểu nó một cách rộng rãi
và sâu xa. Qua bốn mươi hai bài kệ này rất là cụ thể, rõ ràng để chúng ta biết
được cái hạnh độc cư cao quý và tuyệt vời của con đường tu theo đạo Phật.
Bây giờ Thầy giảng
tiếp, Thầy sẽ đọc cái bài kệ thứ mười tám:
Đây là một mụt nhọt
Và cũng là tai họa
Mũi tên là tật bệnh
Là sợ hãi cho ta
Thấy sự nguy hiểm này
Do các dục trưởng dưỡng
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Ở đây đức Phật xem các
cái dục, xem các lòng ham muốn của mình nó như là cái mụt nhọt, như cái mụt
nhọt đang mưng mũ, đang đau nhức đang làm khổ sở mình và xem nó là những cái
tai họa. Các dục trưởng mà trưởng dưỡng nuôi nó lớn mà chạy theo nó. Như bây
giờ mà chúng ta thấy sống ở trong thất của mình có một mình mình, sống riêng
một mình buồn bã này kia. Đó là cái dục nó muốn chúng ta bỏ để phá độc cư, bỏ
ra đi hoặc là đi đây đi đó để mà cho vui, nó tìm bằng cách này bằng cách khác,
đó là cái dục nó trưởng dưỡng.
Ví dụ như nó sanh ra
những cái bệnh tật, hoặc những cái này cái nọ kia hoặc là cái mục đích của nó
làm cho mất độc cư. Mà tâm của chúng ta bị dao động theo những cái trạng thái
thân nghiệp của nó. Nó bệnh sơ sài, nó bị bệnh vừa thôi mà chúng ta quá là quan
trọng, coi quá quan trọng. Tâm chúng ta bị dao động xem như là chúng ta không
có tu hành được, làm cho chúng ta trở ngại như vậy để mà phá cái hạnh độc cư.
Mà khi mà chúng ta không thấy những cái dục mà nó đã tạo ra những cái cách sợ
hãi, những dao động tâm để làm chúng ta không còn cô đơn nữa, làm chúng ta vui
theo thế gian, trưởng dưỡng theo cái lòng vui của thế gian. Thì lúc bây giờ đó
chúng ta không thấy nó là cái tai họa, nó không phải là một cái mũi tên độc đâm
xuyên vào quả tim của chúng ta, xuyên vào thân của chúng ta. Cho nên phải xem
cái lòng ham muốn của chúng ta là cái tật bệnh muôn đời của con người. Vì thế
mà chúng ta phải sợ hãi, sợ hãi nó, sợ hãi cái lòng ham muốn của nó. Nó đi qua
quốc độ này nó đi qua quốc độ khác để phá cái hạnh độc cư của chúng ta. Cái
hạnh mà có thể chúng ta ly dục ly ác pháp được.
Nếu mà chúng ta
không giữ trọn được cái hạnh độc cư thì khó mà có thể chúng ta đạt được cái kết
quả. Cái kết quả mà chúng ta sẽ thực hiện được cái sự giải thoát bằng cái hạnh
độc cư. Cho nên nếu mà chúng ta thấy nó là sự nguy hiểm, thấy các lòng ham muốn
của chúng ta mà nuôi lớn, trưởng dưỡng nuôi lớn nó lên thì đó là nó nguy hiểm,
rất là nguy hiểm. Thì chúng ta thấy được nguy hiểm thì chúng ta ngăn chặn liền,
quyết tâm ôm chặt, sống hạnh độc cư, hoàn toàn là sống một mình để chúng ta
thực hiện cho được sự giải thoát. Mà sự giải thoát này là cái gì, là cái ly dục
ly ác pháp. Lìa ra, xa nó lìa ra. Mà lìa ra được tức là phải sống một mình,
sống trầm lặng. Còn nếu mà chúng ta lìa xa nó không được thì chúng ta khó; khó
mà sống, khó mà đạt được cái đạo giải thoát của đạo Phật. Bởi vì sống không
được độc cư thì không thể nào mà tu hành cái gì được nữa hết.
Cho nên qua cái bài
kệ thứ mười tám này thì đức Phật nhắc nhở chúng ta phải xem như các cái dục,
các cái lòng ham muốn của chúng ta nó như là cái mụt nhọt, nó đau nhức, nó khổ
sở, nó là cái tai họa mang đến cho chúng ta nhiều cái sự khổ, nó là mũi tên đâm
suốt qua trong ta. Nó là tật bệnh, nó đem đến cho chúng ta nhiều cái đau khổ.
Cho nên xem nó là cái tật bệnh - nghĩa là khi mà thân tâm chúng ta nhức mỏi,
đau chỗ này, đau chỗ kia thì nó cũng làm cho chúng ta dao động và trưởng dưỡng
cái dục của nó. Nó chạy đầu này đầu kia, đi xem bác sĩ hoặc là đi thầy này thầy
kia đều là phá hạnh độc cư của chúng ta. Cho nên đức Phật nói trước cái thọ
chúng ta đừng có dao động tâm, mà hãy xem như chúng ta đã chết đi rồi, chúng ta
quyết tâm, quyết tử ôm chặt thì chắc chắn những cái nghiệp của chúng ta nó
không phải là đến lúc này nó chết đâu. Chưa phải lúc mà nó chết thì nó sẽ thua
chúng ta và nó sẽ bại trận và vì vậy mà chúng ta sẽ giữ gìn trọn vẹn cái hạnh
độc cư. Cho nên cái người tu hành người ta rất sợ hãi các đối tượng dục trong
đó có cái thọ nó câu hữu với các cái khác mà nó làm chúng ta mất cái hạnh sống
riêng một mình, mất cái hạnh độc cư. Cho nên ở đây quý thầy và các con phải
thông suốt được cái lý của cuộc sống của chúng ta hàng ngày trên cái bước đường
tu tập để chúng ta giữ cho trọn vẹn cái độc cư thì chúng ta mới có thể mang đến
cái kết quả của cái sự tu tập. Nếu mà không có thực hiện được như vậy đó thì
khó mà thành tựu được cái hạnh độc cư.
Cho nên cái bài kệ
mười tám này đức Phật bảo chúng ta phải xem nó rất là nguy hiểm, phải xem nó là
tai họa, phải xem nó là bệnh tật, phải xem nó là mũi tên độc, luôn lúc nào tâm
chúng ta cũng sợ hãi nó, xem nó như là cái mụt nhọt đau làm cho chúng ta đau
nhức từng phút từng giây. Thì chúng ta mới sống được cái hạnh độc cư. Còn nếu
không thì khó mà chúng ta sống hạnh độc cư.
Thì nhớ Thầy đọc lại
cái bài kệ này để cho quý thầy suy ngẫm lời của Phật dạy. Xem các dục trưởng
dưỡng của chúng ta, hay lòng ham muốn của chúng ta rất là nguy hiểm. Nó làm cho
chúng ta sống không có trọn vẹn được cái hạnh độc cư. Nó làm chúng ta sống
không trọn vẹn được cái tâm hợp nhất, nó làm cho cái tâm của chúng ta bị phân
tán, chia ra khó mà thực hiện con đường thiền định (bốn thiền định) của Phật.
Đây Thầy đọc lại cho
quý thầy nghe một lần nữa:
Đây là một mụt nhọt
Và cũng là tai họa
Mũi tên là tật bệnh
Là sợ hãi cho ta
Thấy sự nguy hiểm này
Do các dục trưởng dưỡng
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Nghĩa là chúng ta
hãy sống một mình, đừng có sợ hãi đối với các dục, đối với bệnh tật, đối với
tai họa, đối với cái mụt nhọt đang nung mũ đang nhức nhối, đang khổ sở. Chúng
ta đừng dao động mà hãy sống một mình, đừng có nương tựa vào ai hết, đừng có
nương tựa vào cái sự kiện nào hết để cho chúng ta được sống độc cư, được thực
hiện được sự giải thoát, chấm dứt được sự tái sanh luân hồi. Đó là bài kệ thứ
mười tám.
Bây
giờ Thầy sẽ đọc tiếp Bài kệ thứ mười chín:
Lạnh lẽo và nóng bức
Đói bụng và khát nước
Gió thổi, nóng mặt trời
Muỗi lằng và rắn rít
Tất cả xúc chạm này
Chịu đựng hãy vượt qua
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng
Bây giờ đức Phật nói
về thời tiết, rồi nói về cái sự không có cơm ăn, không có nước uống, rồi nói về
cái sự gió thổi ầm ầm, nói về cái nóng bức của mặt trời; rồi muỗi lằng, rồi rắn
rết, tất cả những cái loài súc vật dữ, độc. Tất cả những cái sự xúc chạm này nó
làm cho tâm chúng ta sợ hãi, làm cho tâm chúng ta dao động khó mà sống một mình
được. Đây đức Phật đầu tiên nói cho chúng ta thấy rõ ràng. Sự lạnh lẽo và sự
nóng bức cũng làm cho chúng ta không thể nào mà sống độc cư được. Chúng ta phải
chạy đi tìm cái này cái nọ cái kia để rồi bị dao động tâm. Rồi đói bụng, rồi
khát nước nó cũng đều làm cho chúng ta có cái sự dao động mà không sống được
hạnh độc cư. Ở cái chỗ gió thổi dữ tợn ầm ầm, rồi mặt trời thì nóng gay gắt
chịu không nổi thì đó là những cái khiến cho ta không thể nào mà sống một mình
được, sống độc cư được. Muỗi lằng và rắn rít cũng là những cái loài làm cho
chúng ta sợ hãi mà chúng ta không dám sống một mình mà phải đi tìm sống với
người này hoặc người kia để đừng có sợ hãi. Thì tất cả những cái này nó cũng
đều làm chúng ta mất cái sự độc cư.
Bởi
vì những cái sự xúc chạm như xúc chạm lạnh lẽo, nóng bức nè, đói bụng nè, gió
thổi ầm ầm nè, mặt trời nóng nè, muỗi lằng, rắn rít trước mặt chúng ta thấy
những cái loài vật hung dữ này chúng ta quá sợ hãi cho nên không thể nào mà
sống một mình. Ở đây đức Phật nói “Tất cả xúc chạm này, Chịu đựng hãy vượt qua” - chúng ta phải cố gắng mà chịu đựng
để vượt qua những cái khó khăn này để sống một mình cho đúng, như
con tê ngưu một sừng.
Đó thì ở cái bài kệ
này đức Phật đem lại cho chúng ta thấy thời tiết rồi cái sự đói khát, rồi những
cái sự rắn rít độc đem đến cho chúng ta có những bệnh tật, những cái này cái
kia. Làm cho chúng ta có những cái sự sợ hãi mà không thể nào sống độc cư được.
Mà muốn được vậy thì chúng ta phải gan dạ, phải đủ nghị lực, phải chiến đấu lại
trước cái nghịch cảnh đó, trước cái thời tiết lạnh lẽo và nóng bức. Cho nên
chúng ta phải chiến đấu, chiến đấu tận cùng để chúng ta vượt qua, vượt qua cho
được nhất định chúng ta phải sống cho được độc cư.
Vì tất cả những cái
này đều là cái môi trường, cái đối tượng tạo cho cái tâm sợ hãi của chúng ta để
mà nuôi lớn tâm dục của chúng ta. Cái tâm, cái lòng ham muốn của chúng ta. Muốn
gì? Muốn đừng có lạnh lẽo, muốn đừng có nóng bức, muốn đừng có đói bụng, muốn
đừng có khát nước, muốn đừng có gió thổi ầm ầm dữ tợn, muốn cái chỗ nào mà nó
không có sợ, muốn cho mặt trời không có nóng bức nực nội nè, muốn cho chỗ đó
không có rắn rít, không có những cái loài thú vật độc. Chúng ta muốn những cái
đó để chúng ta được yên ổn tu hành chứ gì. Nhưng sự thật ra khi mà cái muốn này
để mà tránh né nó thì chúng ta khó mà có thể độc cư được, khó có thể sống một
mình được. Vì cái tâm dao động, cái tâm sợ hãi này là cái tâm không thể nào
sống riêng một mình được. Nó phải tìm có bạn có bè, có người này người kia. Vì
chính những cái đối tượng này, cái hoàn cảnh này, cái thời tiết này nó làm cho
chúng ta sợ hãi, làm chúng ta phải đi tìm có những người sống để nương tựa với
nhau, sống bên nhau.
Cho nên cái người mà
sống một mình là cái người phải đầy đủ nghị lực gan dạ. Hầu hết con người đều
là cái tâm hồn đều là sợ hãi cho nên họ phải tập trung nhau để thành những cái
bộ lạc, để thành những cái xóm, cái ấp, cái làng để sống nương tựa vào nhau có
người này người kia mà không có sợ. Do chỗ đó đó mà con người không còn có cái
sự tự do nữa, không còn có cái sự sống riêng một mình được. Vì thế mà nó mới
sống tập thể với nhau, sống chung nhau thì nó có sự trộm cắp, tham lam, đánh
lộn, chửi lộn, mắng lộn, nó tạo ra muôn vàn thứ đau khổ. Còn cái một người mà
sống một mình ở trong rừng trong núi trong non không có ai thì làm sao có mắng
lộn, chửi lộn, có lấy của ai đâu.
Còn sống gần bên
nhau, nương tựa với nhau để đỡ sợ hãi những cái sự thời tiết hay là thú dữ,
hoặc là đói khát hoặc là ruồi lằng, hoặc là những cái bệnh tật này bệnh tật kia
sảy ra. Một mình thì sợ chết cho nên vì vậy phải sống gần nhiều người, có người
này người kia để khi tối lửa tắt đèn có nhau nhưng trái lại nó lại đưa chúng ta
đi đến những cái khổ đau, cái khổ đau vô cùng là có nhiều người xảy ra nhiều
thứ chuyện trộm cắp, mắng chửi, đánh lộn đánh lạo đủ thứ.
Do có cái xã hội, có
cái tập thể, có cái xã hội, có một nước non rồi phải có một cái luật cho nên
người ta mới có thể giữ gìn trật tự an ninh được. Còn nếu mà không có pháp
luật, không có cái giữ gìn an ninh trật tự thì người này giết người kia, người
kia giết người nọ vì cướp của với nhau thì ai mà cư xử cho được. Cho nên đất
nước phải có vua chúa, phải có chính phủ, phải có công an, cảnh sát để giữ gìn
trật tự an ninh. Vì đối với cái tập thể này để không khéo nó sẽ chà đạp lên
nhau và làm cho nhiều cái đau khổ.
Trái lại, người tu
chúng ta sống riêng lẻ một mình, sống độc cư cho nên chúng ta thoát ra khỏi
được cái cảnh mà gần gũi với mọi người. Mà gần gũi với mọi người thì chúng ta
biết rõ mà đâu có một cái gì mà an ổn được. Người thì ý dì kẻ thì ý khác, mọi
mặt đưa đến chúng ta rất là đau khổ. Nhưng mà vì chúng ta là người không có
nghị lực, không có gan dạ, không có bền chí cho nên chúng ta trước những
cái thời tiết lạnh lẽo, nóng bức, trước những thú vật hung dữ, trước những cái
đói bụng đói khát này chúng ta không có thể nào mà làm chủ được mình. Do vì vậy
mà chúng ta phải sống tìm lại, nương tựa với nhau sống có tập thể để không có
sợ hãi trước những cái thời tiết, trước những cái thú dữ, trước những cái bệnh
tật, tai họa đem đến cho chúng ta thình lình khi mà sống một mình.
Đó thì cái bài kệ
thứ mười chín thì đức Phật nêu lên để chúng ta thấy được cái thời tiết, rồi cái
sự đói khát, rồi cái sự gió bão, rồi cái nóng bức của mặt trời, rồi cái muỗi
lằn, rắn độc, rít, tất cả những cái loài thú dữ nè. Đó là những cái điều mà đức
Phật nêu lên để thấy rằng nếu mà chúng ta không có gan dạ, không có cái bền
chí, không có cái nghị lực thì chắc chắn chúng ta sẽ không sống độc cư được. Mà
không sống độc cư được thì chúng ta khó mà ly dục ly ác pháp. Mà khó ly dục ly
ác pháp thì không bao giờ mà có thể giải thoát được sanh tử luân hồi.
Cho
nên ở đây phải thấy là cái dục nó tùy theo những cái hoàn cảnh, những cái thời
tiết, những cái đối tượng mà nó khởi lên những cái lòng trưởng dưỡng, cái lòng
dục của chúng ta. Trước những cái sợ hãi, lo lắng cũng do cái lòng ham muốn của
chúng ta. Muốn gì? Muốn sống sợ chết. Do cái sự muốn sống sợ chết này nó
trước những cái tai họa, những cái khó chịu, cái sợ những vật độc hung dữ thì
làm chúng ta sợ hãi, từ đó chúng ta sống một mình không dám. Do vì vậy mà chúng
ta chạy theo cái sự sợ hãi đó mà chúng ta sống với tập thể. Mà sống trong tập
thể thì chúng ta làm sao mà giải thoát được cái tâm ly dục ly ác pháp này. Đó
là cái bài kệ thứ mười chín.
Cho nên một cái người
nào tu theo đạo Phật thì phải có nghị lực, phải có gan dạ, chịu đựng thì nó sẽ
vượt qua tất cả những khó khăn này. Mà khi vượt qua những khó khăn này thì
chúng ta sống riêng một mình như con tê ngưu một sừng.
Bây giờ Thầy đọc lại
cái bài kệ thứ mười chín để các thầy và các con chiêm nghiệm lại lời của Phật
dạy ở trong cái bài kệ này:
Lạnh lẽo và nóng bức
Đói bụng và khát nước
Gió thổi, nóng mặt trời
Muỗi lằng và rắn rít
Tất cả xúc chạm này
Chịu đựng hãy vượt qua
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Bây
giờ Thầysẽ giảng tiếp cái Bài kệ thứ hai mươi để thấy đức Phật khuyên chúng ta giữ
gìn cái hạnh độc cư như thế nào.
Thầy
xin đọc cái Bài kệ thứ hai mươi:
Như con voi to lớn
Từ bỏ cả bầy đàn
Thân thể được sanh ra
To lớn tựa hoa sen
Tùy theo sự thích
thú
Sống tại chỗ rừng núi
Phải sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Đây,
bây giờ đức Phật khuyên chúng ta “Như một con voi to lớn” - nghĩa là chúng ta như một con voi to
lớn, chúng ta chẳng có sợ gì. Một người tu theo đạo Phật mà không xem mình to
lớn thì không bao giờ có thể thực hiện được con đường này. Phải xem mình là cái
người vĩ đại, cái người to lớn. Vượt qua tất cả những cái khó khăn, những cái
sự ràng buộc để thực hiện được hạnh độc cư, cái sự sống một mình. Cho nên đức
Phật ví mình như con voi to lớn, từ bỏ cả bầy đàn. Đó là chúng ta
lìa khỏi cái xã hội loài người, lìa khỏi mọi người, lìa khỏi những người thân
yêu của chúng ta. Chúng ta không sợ hãi, chúng ta đầy đủ những nghị lực để
chiến đấu chống lại sống một mình mình, chúng ta thực hiện được độc cư. Cho nên “Như
con voi to lớn” -
chúng ta “từ bỏ cả bầy đàn”.
Thân thể được sinh ra.
To lớn tựa hoa sen
Thân
thể chúng ta được sanh ra như vậy thì chúng ta phải thực hiện cái sự to lớn của
nó, mà trong sạch của nó như một cái hoa sen, chẳng có sợ một cái gì cả hết. Ở
đây Phật ví thân thể được sanh ra - to lớn như hoa sen. Nghĩa là
thân thể của chúng ta được sanh ra làm người thì chúng ta phải biết nó, phải
bảo nó, bảo nó cho nó thoát ly ra được, sống độc cư được để cho nó thoát ly, ly
dục ly ác pháp, thoát ly ra cái bầy đàn, cái tập thể của nó để cho nó to lớn và
thanh tịnh, trong sạch như hoa sen.
Còn nếu mà nó sống ở
trong cái tập thể cái xã hội, thì cái xã hội là cái xã hội ô nhiễm, cái xã hội
dục lạc, cái xã hội độc ác, cái xã hội ác pháp thì không thể nào như cái hoa
sen được. Cho nên từ ở trong những cái bùn nhơ cũng như chúng ta sống ở trong
cái xã hội đầy bao nhiêu sự dẫy đầy bất công, bao nhiêu sự đau khổ, bao nhiêu
ác pháp ở trong đó. Thế mà chúng ta vượt ra sống độc cư một mình thì đó là tựa
như hoa sen.
Thân
thể chúng ta sinh ra trong một cái tập thể nhưng chúng ta vượt ra cái tập thể ô
nhiễm, cái tập thể uế trượt, cái tập thể ác độc, cái tập thể ác pháp. Thì lúc
bấy giờ chúng ta như là một cái hoa sen vượt lên trên mặt nước, vượt lên trên
bùn hôi thúi của nó. Vì khi mà vượt ra được như vậy thì chúng ta mới sống cái
hạnh độc cư. Mà sống cái hạnh độc cư thì chúng ta nỗ lực thực hiện tu tập các
pháp môn Phật đã dạy tu tập. Thì đó là tùy theo sự thích thú. Bây giờ mình muốn, trên cái
muốn của mình mình muốn giải thoát cho nên mình tùy theo cái sự tu tập của mình
nó tạo cho mình có những sự an lạc, vui thú của cái sự độc cư. Còn nếu mà chúng
ta không thấy được cái sự an lạc, vui thú trong hạnh độc cư thì khó mà chúng ta
ly dục ly ác pháp; chúng ta trở về cái dục lạc của thế gian.
“Sống
tại chỗ rừng núi”- nghĩa là chúng ta sống ở chỗ nào yên ổn, độc cư tu một mình;
không có sống ở trong cái thành phố hay cái chòm cái xã cái ấp có nhiều người
như vậy không có đúng cái hạnh độc cư, sống đúng cái hạnh độc cư. Mà muốn sống
đúng cái hạnh độc cư thì như con voi sống ở chỗ rừng núi xa vắng nào đó, rồi
tùy theo các pháp mà nỗ lực tu hành thì nó đem lại cái sự trầm lặng, cái sự an
vui, cái sự ly hỷ, ly các trạng thái dục, ly các ác pháp được rồi thì nó có cái
hỷ lạc do cái sự ly dục này mà nó sanh ra. Làm chúng ta thấy thích thú, an lạc
trong cái độc cư của chúng ta. Cho nên ở đây Phật khuyên chúng ta thì hãy
sống riêng một mình, như tê ngưu một sừng.
Thầy
xin nhắc lại bài kệ này “Như con voi to lớn. Từ bỏ cả bầy đàn” - như chúng ta từ bỏ cái xã hội của
chúng ta. Xã hội loài người ô nhiềm, uế trượt, hung dữ, hung ác. Thân thể được
sanh ra to lớn tựa hoa sen - thân thể của chúng ta được sanh ra trong cái nhân
quả đầy những ác trược, đầy những cái hôi thúi, đầy những cái bẩn thỉu mà chúng
ta vượt ra cho được thì như là cái hoa sen to lớn, rất là thanh tịnh. Rồi tùy ở
nơi trong rừng yên lặng, nơi cái chỗ mà độc cư một mình đó, tùy theo những cái
sở thích của chúng ta mà chúng ta thực hiện con đường tu tập. Hãy sống riêng
một mình như tê ngưu một sừng.
Đó thì quý thầy đã
thấy, các con đã thấy được cái lời của Phật dạy trong bài kệ hai mươi này.
Chúng ta vượt ra khỏi bầy đàn. Tức là chúng ta vượt ra khỏi xã hội, của sự trói
buộc của gia đình, của xã hội, của mọi người để chúng ta thực hiện cái sự sống
độc cư, cái sự sống riêng một mình để chúng ta thực hiện con đường giải thoát
của đạo Phật ly dục, ly ác pháp. Đó là cái bài kệ hai mươi.
Bài
kệ hai mươi mốt, Thầy xin đọc Bài kệ hai mươi mốt:
Ai ưa thích hội chúng
Người ấy khó tu hành
Làm sao chứng Niết bàn
Giải trừ các cảm thọ
Cân nhắc lời giảng dạy
Từ bỏ nơi đông đảo
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Bài
hai mươi mốt này đức Phật xác định rất rõ ràng để cho thấy cái người tu theo
đạo Phật phải thực hiện cho bằng được cái hạnh độc cư. Nếu mà cái người ưa
thích vui ở trong những các hội chúng, sống ở trong cái tập thể của xã hội có
nhiều người thì người ấy khó mà tu hành con đường giải thoát. Đọc đức Phật đã
xác định như vậy. Nè, đây Thầy đọc hai câu kệ đầu. “Ai
ưa thích hội chúng” -
tức là hội họp, thích coi hát, thích chơi, thích bạn bè, thích nói chuyện này
kia, chuyện kia với người này người nọ người kia, “Người
ấy khó tu hành”. Người ấy không tu hành được, nói khó có nghĩa là
tu không có được. Cho nên cái người mà thích sống một mình, thích trầm lặng là
cái người tu được. Mà cái người thích vui, thích hội chúng, thích hội họp,
thích đi chơi chỗ này chỗ kia; ngồi tu vài bữa thích đi chỗ này chỗ kia cho nó
thoải mái đó, cái người đó tu không được. Phải nói rằng cái người đó không có
duyên tu với đạo Phật.
Cho nên khi mà chúng
ta biết được tâm trạng chúng ta mà thích thú vui chơi như vậy thì chúng ta đừng
có tu theo đạo Phật làm chi. Vì chúng ta có tu cũng chẳng tới đâu hết. Mất thì
giờ vô ích, bỏ cuộc đời chúng ta cũng chẳng ra gì hết. Cho nên người mà thích
vui là cái người thích hội họp, thích nói chuyện, thích đi chỗ này chỗ kia thì
những người đó là người không thể theo con đường của đạo Phật được.
Cho
nên đức Phật xác định làm sao chứng niết bàn, giải trừ các cảm thọ. Nghĩa là làm sao mà chúng ta chứng
được cái chỗ giải thoát đâu, làm sao mà chúng ta giải trừ các cảm thọ chúng ta
được. Các cảm thọ: thọ lạc, thọ khổ, thọ bất lạc bất khổ thì tất là những cảm
thọ này nó làm chúng ta đau khổ, ham thích. Tất cả những cái này đem đến cho
chúng ta bao nhiêu là sự đau khổ. Mà nếu mà chúng ta thích hội họp như vậy thì
chúng ta không thể nào mà giải trừ được cái cảm thọ, các cái đau khổ này. Cho
nên chúng ta không thể nào mà đi vào con đường giải thoát được.
Cân nhắc lời giảng dạy.
Từ bỏ nơi đông đảo
Nghĩa là qua cái bài
kệ của Phật chúng ta phải cân nhắc cho kỹ lưỡng những cái lời giảng dạy này,
những cái lời mà giảng dạy của Phật, những bài kệ của Phật nhắc đi nhắc lại,
cân nhắc cho kỹ. Nếu mà chúng ta đã quyết tâm theo con đường của đạo Phật để tu
hành giải thoát thì chúng ta phải từ bỏ những cái nơi đông đảo, từ bỏ hội họp,
từ bỏ nói chuyện, từ bỏ tất cả mọi cái vui của thế gian. Thì chúng ta mới có thể
thực hiện được con đường tu hành giải thoát của đạo Phật. Nghĩa là chúng ta có
sống độc cư thì chúng ta mới có ly dục ly ác pháp được; mà không có sống độc cư
được thì không bao giờ ly dục ly ác pháp được. Mà không ly dục ly ác pháp được
thì không bao giờ mà chúng ta đạt được cái mục đích của đạo Phật được.
Đó thì cái bài kệ
thứ hai mươi mốt thì Phật khuyên chúng ta:
Ai ưa thích hội chúng
Người ấy khó tu hành
Làm sao chứng Niết bàn
Giải trừ các cảm thọ
Cân nhắc lời giảng dạy
Từ bỏ nơi đông đảo
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Quý thầy và các con
nghe chỗ này mà cố gắng, cố gắng thực hiện đừng có lơ lỏng, đừng có dễ vui với
mình mà uổng một cuộc đời, uổng thân làm người. Được thân là khó, được Phật
pháp còn khó hơn. Biết được như vậy chúng ta phải khắc phục mình, đem đầy đủ
nghị lực chiến đấu để sống độc cư, đừng có sống vui theo thế gian. Vì có sống
độc cư chúng ta mới thực hiện được sự giải thoát thân tâm mình. Đây là lời Thầy
nhắc lại lần nữa.
Bài
kệ thứ hai mươi hai:
Muốn giải thoát vượt khỏi
Các tri kiến hý luận
Phải quyết định độc cư
Chứng đắc được con đường
Nơi đây trí được sanh
Không cần nhờ người khác
Phải sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Bài kệ thứ hai mươi
hai này các thầy và các con thấy đức Phật khuyên chúng ta:
Muốn
giải thoát vượt khỏi.
Các
tri kiến lý luận
Nghĩa là chúng ta
muốn mà được giải thoát thì chúng ta phải ra khỏi các tri kiến hý luận, cái
chuyện nói luận cái này bàn cái kia, vui chơi thỏa thích thì hầu hết con người
phải nói chuyện cho nó vui vẻ thích bằng cách này hoặc bằng cách khác cho nên
đức Phật gọi đó là những tri kiến hý luận. Nói chuyện đông chuyện tây, nói
chuyện chính trị, nói chuyện làm ăn, nói chuyện thời tiết, nói chuyện thiên văn
địa lý, nói chuyện khoa học, nói cái này cái kia… đều là những cái hý luận, nó
không có lợi ích thiết thực cho chúng ta. Những cái hý luận này nó chỉ đem lại
cho chúng ta những cái tâm trưởng dưỡng những cái dục, cái lòng ham muốn của
chúng ta hơn lên. Nó không có lợi ích thiết thực. Vì thế mà chúng ta phải khắc
phục mình, phải nỗ lực thực sự để mà tiêu diệt các tri kiến hý luận này.
Nghĩa
là từ đây chúng ta sống độc cư thì chúng ta đâu còn hý luận với ai. Cho nên
chúng ta phải quyết định độc cư. Ở đây câu kệ thứ ba trong bài kệ hai hai này
thì đức Phật dạy phải quyết định độc cư. Nghĩa là chỉ có độc cư thì mới
giải trừ được các tri kiến hý luận, mới vượt khỏi cái tri kiến hý luận. Còn nếu
không thì cái bản chất, tánh nào tật náy của chúng ta nó quen đi. Gặp ai thì
chúng ta cũng nói chuyện này, chuyện kia chuyện nọ để vui chơi thì đó là những
cái hý luận. Bàn thiền, luận đạo, nói kinh cũng đều là những cái hý luận chứ
không phải là không có hý luận. Vì chúng ta có sống độc cư thì chúng ta mới
không có hý luận. Mà không sống độc cư thì dù bây giờ chúng ta có nói kinh nói
sách gì đúng đắn đi cho mấy cũng là thuộc về loại hý luận.
Bởi vì sống độc cư
thì đâu còn ai mà chúng ta nói chuyện. Mà không còn ai nói chuyện thì chúng ta
mới thực hiện được con đường giải thoát. Còn nếu mà không có sống độc cư được
thì chúng ta phải có người này có người kia, có bầu có bạn, rồi có nói chuyện
này chuyện kia. Do đó những cái nói chuyện đó đức Phật gọi là hý luận, cho nên
không có thể nào mà chứng đắc được con đường giải thoát.
Phải quyết định độc cư,
Chứng đắc được con đường.
Nghĩa
là chúng ta phải quyết định độc cư thì chúng ta mới có thể đạt được con đường
giải thoát của đạo Phật. Từ cái chỗ mà chúng ta sống độc cư đó cái trí tuệ
chúng ta, cái tri kiến giải thoát của chúng ta mới được quét sạch. Cái trí tuệ
chúng ta mới được quét sạch. Nếu mà chúng ta không sống độc cư thì cái tri kiến hý luận nó tràn
đầy, nó tích tập những sự hiểu biết của chúng ta bằng cái vay mượn của kẻ khác,
bằng cái đờm dãi của người khác. Còn
chúng ta sống độc cư thì do đó chúng ta mới có cái tâm thanh tịnh, yên lặng, nó
mới có tâm định tĩnh. Từ cái định tĩnh đó trí tuệ chúng ta nó mới được phát
sanh, nó mới triển khai ra. Từ đó chúng ta mới thấy cái tri kiến giải thoát đưa
đến chúng ta sống trong một cuộc đời không còn ham muốn cái gì nữa hết, buông
xả hết không còn một vật gì còn ràng buộc, trói buộc chúng ta.
Cho
nên khi mà chúng ta sống độc cư thì chúng ta chẳng cần một người nào khác nữa
hết, không có cần cái người nào dạy chúng ta tu hành. Chỉ cần sống độc cư là
chúng ta có thể từ đó chúng ta có thể thấy được cái tri kiến của chúng ta phát
sanh, thấy được con đường tu hành của chúng ta. Chúng ta sống độc cư trong một
năm hai năm cho đến mười năm không có tiếp duyên với ai cả thì từ đó chúng ta
mới thấy được cái trí tuệ phát sanh của chúng ta vô cùng vô lượng. Nó nhắm vào
cái tâm hồn của chúng ta để đưa chúng ta đến cái chỗ giải thoát hoàn toàn,
chứng đắc trên con đường của đạo Phật. Dù thiền định nào cũng đều thông suốt.
Cho nên đức Phật khuyên chúng ta: hãy sống riêng một mình, như tê ngưu một sừng.
Đây Thầy đọc lại bài
kệ thứ hai mươi hai để cho quý thầy thấy cái lời của Phật dạy rất là thấm thía:
Muốn giải thoát vượt khỏi.
Các tri kiến lý luận
Phải quyết định độc cư.
Ba câu kệ này thì
đức Phật đã quyết định cho chúng ta muốn mà thoát khỏi những cái tri kiến vay
mượn, cái tri kiến lý luận suông, cái lời nói vui theo dục lạc của thế gian thì
phải quyết định là phải độc cư. Mà khi độc cư được thì mới chứng đắc được con
đường giải thoát.
Đây:
Chứng đắc được con đường
Nơi đây trí được sanh.
Đức
Phật xác định chỉ có độc cư thì mới chứng đắc được con đường giải thoát, nơi
chỗ đó trí tuệ mới được sanh. Không cần nhờ người khác - Nghĩa là không cần ai
khai ngộ chúng ta, chỉ chúng ta sống đúng độc cư là tự nó nó đã có những trí
tuệ phát sanh. Cho nên đâu cần người nào khai ngộ đâu, mình cũng được giải
thoát như thường. Cho nên phải sống riêng một mình, như tê ngưu một sừng.
Bây
giờ Thầy xin đọc tiếp cái Bài kệ thứ hai mươi ba:
Không tham không lừa đảo
Không khát vọng dèm pha
Mọi si mê ác trược
Được gạn sạch quét sạch
Trong tất cả các pháp
Không tham ái ước mong
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Nghĩa
là chúng ta sống riêng một mình, sống độc cư, sống trầm lặng một mình thì chúng
ta mới không có tâm tham, mới không có sự lừa đảo, mới không có khát vọng, mới
không có dèm pha.“Mọi si mê ác trược” - thì mọi si mê nó mới phá sạch, nó
không còn những cái ác trược nữa. Và nhờ sống độc cư đó mà nó được gạn sạch,
quét sạch.
Trong tất cả các pháp
Không tham ái ước mong
Nghĩa là tất cả
những cái pháp thế gian nó đều gạn lọc và quét sạch là nhờ sống độc cư. Nếu
chúng ta không sống độc cư thì khó mà có thể gạn lọc được những cái tâm tham
ái, cái tâm lừa đảo, cái tâm khát vọng, cái tâm dèm pha, cái tâm ác trược, cái
tâm si mê. Cho nên tất cả những cái tâm này mà nó được quét sạch đều do nhờ cái
sống độc cư hết, sống một mình hết. Mà nếu không sống một mình thì chắc chắn
không bao giờ mà quét sạch những tâm này ra được. Mà không quét sạch những tâm
này ra được thì khó mà có thể tìm thấy con đường giải thoát của đạo Phật được.
Quý thầy hiểu chưa?
Cho nên bài kệ thứ hai mươi ba này đức Phật xác định chỉ có sống độc cư mới
quét sạch được cái tâm thế gian, cái tâm khát vọng, cái tâm dèm pha, các tâm
lừa đảo, cái tâm ham muốn, cái tâm si mê, cái tâm ác trượt. Nếu mà không sống
độc cư thì không thể nào được hết.
Thầy xin đọc bài kệ
thứ hai mươi ba để cho quý thầy hiểu cho rõ ràng:
Không tham không lừa đảo
Không khát vọng dèm pha
Mọi si mê ác trược
Được gạn sạch quét sạch
Trong tất cả các pháp
Không tham ái ước mong
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Chỉ có sống riêng
một mình thì mới quét sạch được cái đó. Muốn được mà quét sạch cái này thì
chúng ta phải sống riêng một mình, cố gắng sống một mình thì nó sẽ quét sạch.
Đó là bài kệ thứ hai mươi ba.
Bài
kệ thứ hai mươi bốn:
Với bạn bè độc ác
Hãy từ bỏ lánh xa
Kẻ không thấy mục đích
Quen nếp sống thế gian
Chớ tự mình thân cận
Kẻ đam mê phóng dật
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Nghĩa là đức Phật
khuyên chúng ta với những người bạn bè mà độc ác thì chúng ta phải lánh xa họ,
không được sống với họ. Bởi vì họ là những kẻ không có thấy cái mục đích giải
thoát cho nên họ còn đam mê, phóng dật ở trong cái tham dục, cái dục lạc của
thế gian. Qua cái nếp sống thế gian thì mình đã hiểu biết họ như thế nào. Chứ
bây giờ là hầu hết mọi người là người ta đang chạy theo cái dục lạc thế gian.
Thì đó là những người bạn bè mà gọi là họ đã chạy theo dục lạc thế gian thì họ
là những người bạn xấu, chớ sao bạn bè tốt được - họ là những bạn bè độc ác. Họ
thương mình đó mà mai mốt có cái gì thì họ trở thành những cái người bạn xấu,
họ sẽ hại mình một cách rất dễ dàng, chưa chắc đâu - đó là cái sự thương đâu.
Cho nên toàn bộ con người hiện giờ dưới con mắt của người tu sĩ là thấy rằng
con người đang chạy theo những dục lạc của thế gian. Mà đang chạy theo dục lạc
thế gian thì phải có ác pháp, không thể nào mà thiếu ác pháp được. Cho nên
chúng ta là những người tu hành phải sống một mình, phải tránh xa mọi người. Vì
mọi người không thể nào đem lại sự giải thoát cho chúng ta được mà chính chúng
ta phải sống một mình. Từ đó chúng ta mới không bị những người bạn bè, những
con người độc ác này mà làm động tâm chúng ta, làm cho tâm chúng ta dao động
liên tục. Vì vậy mà chúng ta không có ra khỏi cái cuộc đời đầy luân hồi, đầy
đau khổ này.
Cho nên ở đây cái
bài kệ thứ hai mươi bốn này đức Phật khuyên chúng ta phải lánh xa hết mọi
người. Vì mọi người đều là những kẻ đam mê phóng dật, đang chạy theo những cái
ham muốn của thế gian. Cho nên muốn mà tu thành theo đạo Phật thì chúng ta thấy
đời phải ra đời, đạo phải ra đạo. Cái người tu mà còn chạy theo đam mê phóng
dật của thế gian thì cái người đó chúng ta coi như là ác tri thức chứ không
phải thiện hữu tri thức mà ác tri thức. Chúng ta phải tránh xa đừng có gần
người đó. Vì những người đó không bao giờ sống một mình được. Cho nên chúng ta
chỉ biết còn có con đường của đạo Phật là sống một mình để thực hiện sự ly dục
ly ác pháp. Để được giải thoát, để chấm dứt được sự sanh tử luân hồi thì chỉ có
con đường duy nhất là pháp môn độc cư. Mới cứu chúng ta ra khỏi con đường đầy
đau khổ của cuộc đời, của kiếp người.
Bài
kệ thứ hai mươi lăm.Thầy xin đọc Bài kệ thứ hai mươi lăm để cho quý thầy và
các con suy ngẫm cái lời của Phật dạy qua cái bài kệ này:
Bậc nghe nhiều trìpháp
Hãy gần gũi người ấy
Người ấy tâm rộng lớn
Thông minh và biện tài
Biết điều không nên làm
Thì nhiếp phục mê hoặc
Noi theo hạnh người này
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Bài kệ này, chúng ta
hãy noi theo cái gương của những người mà chúng ta thấy những cái người mà
thiện hữu tri thức họ đều là những cái bậc nghe nhiều, nghe pháp mà Phật đã dạy
và họ thường hằng ngày họ trì những cái pháp họ đã được nghe. Thì chúng ta chọn
ở trong các huynh đệ của chúng ta và ai là cái người nghe nhiều và trì pháp thì
chúng ta noi theo cái gương của người đó mà chúng ta sống độc cư. Sống độc cư
để chi, để làm gì? Để chúng ta trì các pháp mà chúng ta đã được nghe nhiều. Và
chúng ta gần gũi nghĩa là chúng ta tìm cái người đó. Họ sống họ cũng độc cư, họ
không nói chuyện với mình nhưng cái gương hạnh của họ đó nó làm cho chúng ta
bắt chước, làm chúng ta noi theo. Cho nên con đường tu của chúng ta dễ tiến bộ
là nhờ chúng ta có thiện hữu tri thức. Không có nghĩa thiện hữu tri thức là
những cái người thường nói pháp, nói chuyện này chuyện kia chúng ta nhiều mà
chính cái hành động sống của họ đã làm cho chúng ta sống theo hạnh độc cư của
họ. Và họ làm cái gì thì chúng ta bắt chước làm theo cái ấy. Vì họ là những
người mà tâm họ rộng lớn, họ thông minh và họ đầy đủ biện tài. Những cái biện
tài họ không để mà nói chuyện với chúng ta. Chúng ta biết họ, họ không nói
thôi, mà họ nói cái gì họ cũng thông suốt. Không có cái gì có thể làm chướng
ngại họ được, họ trả lời tất cả những cái gì, câu hỏi rất là khó khăn. Cho nên
họ có những cái biện tài và trí óc thông minh. Những điều họ chưa có học mà
người ta hỏi họ đều biết, thì đó là cái trí óc thông minh của họ.
Cho nên biết điều
không nên làm và những người đó họ không nên làm những điều mà họ biết điều họ
không nên làm. Và chúng ta mà sống gần như vậy chúng ta bắt chước chúng ta
biết. Có những cái điều ác chúng ta đâu có nên làm, nhưng có những điều thiện
thì chúng ta nên làm. Và những người mà nghe nhiều và trì pháp thì họ sẽ làm
những điều mà họ biết đó là điều thiện. Mà những cái điều ác thì chắc chắn họ
sẽ không làm cho nên họ không làm những cái điều mà họ không nên làm. Họ thường
nhiếp phục tâm nghi hoặc, nghi người này nghi người kia; không có để cho tâm
mình nghi ai xấu hết. Mọi người ai sao kệ họ, chẳng nghi ngờ họ gì hết. Thì đó
là những người đó là những người bạn tốt, những người thiện hữu tri thức của
mình. Họ sống họ không nói chuyện với mình nhưng mà hành động sống của họ là
cái gương hạnh để cho mình tu tập mình sống một mình. Cho nên họ thường nhiếp
phục không có nghi ngờ người nào hết, họ không có nghi ngờ cái người đó xấu,
người đó như thế này thế nọ thế khác.
Noi theo hạnh người này.
Hãy sống riêng một mình.
Thì mình lấy gương
hạnh của cái người thiện hữu tri thức họ đang sống, đang tu hoặc họ đã tu xong,
họ sống mà không nói chuyện với ai. Do đó mình bắt đầu mình sống cũng theo
gương hạnh của họ và đồng thời những cái điều mà họ không nên làm thì mình cũng
bắt chước mình không nên làm. Cho nên ở đây đức Phật dạy cái bài kệ thứ hai
mươi lăm này là chúng ta nên chọn cái người bạn tốt, cái người sống độc cư, cái
người mà không nói chuyện, mà luôn luôn lúc nào có những hành động mà chúng ta
để ý để mà chúng ta theo dõi cái gương hạnh đó mà chúng ta tu tập, để chúng ta
sống độc cư cho đúng cách.
Còn nếu mà chúng ta
chọn không được cái người bạn mà tốt như vậy thì chúng ta sẽ bị ảnh hưởng như
bạn xấu. Họ nói chuyện này chuyện kia làm cho chúng ta động tâm, làm chúng ta
riết rồi chúng ta cũng điên theo, chạy theo những dục lạc, lòng ham muốn của
chúng ta ở thế gian, cuối cùng thì chúng ta tu suốt cuộc đời chúng ta mà rất
uổng. Nó không có những gương hạnh tốt để chúng ta thực hiện theo cái gương
hạnh tốt đó để mà chúng ta được giải thoát. Quý thầy và các con thấy rõ chưa?
Cho nên có được mà
những bậc thiện hữu tri thức như vậy, có những gương hạnh mà tu tốt như vậy, họ
là những người biết nghe nhiều pháp, biết trì các pháp mà họ đã được nghe. Thì
đó là những người mà chúng ta gần gũi để lấy họ làm cái gương tốt để cho mình
thực hiện theo cái gương tốt đó mà mình cũng được giải thoát như họ.
Còn nếu không có thì
chúng ta cũng phải đành sống riêng một mình, không phải có nghĩa là chúng ta có
người bạn hữu thiện hữu tri thức hằng ngày chúng ta phải tiếp duyên nói chuyện
này chuyên kia. Không, không phải vậy đâu, đừng hiểu như vậy mà chính người
thiện hữu tri thức họ đang sống độc cư đó, họ đang sống trong thầm lặng đó, họ
đang sống ở trong một mình họ đó. Đó là những cái gương mà chúng ta noi theo đó
mà chúng ta vượt qua những khó khăn chứ không phải sống độc cư mà dễ dàng, có
nhiều cái khó khăn lắm. Nhờ cái gương đó mà chúng ta noi theo chúng ta mới sống
được. Phải hiểu, hiểu như vậy thì chúng ta mới thấy được con đường tu tập của
chúng ta. Những người đó trước những cơn bệnh cơn đau họ không làm tâm họ dao
động, họ không có chạy bác sĩ hoặc là chạy thầy chạy thang thuốc gì hết. Họ tự
cứu chữa họ bằng pháp hướng hoặc là có những cái duyên.
Ví dụ như chẳng hạn
Thầy thấy họ bệnh ho hoặc cảm hay gì đó Thầy đem thuốc thầy cho họ uống, rồi họ
dùng pháp hướng quét sạch ra những cái thân nghiệp của họ để rồi họ thực hiện
giữ đúng hạnh độc cư. Họ không phải vì một chút đau bệnh nhức, nhức tay nhức
chân hoặc nhức đầu nhức cổ gì đó mà họ chạy đi tùm lum bác sĩ này bác sĩ kia,
thì tức là họ bị động mất rồi. Nhìn cái gương của họ, họ đâu phải là con người
bằng đá, bằng cây, bằng gạch, bằng ngói, bằng sắt, bằng đồng?Họ cũng là con
người bằng xương bằng thịt; mình đau họ cũng đau, mình nhức họ cũng nhức mà tại
sao họ chẳng có dao động tâm, họ chẳng hề sợ những cái thọ. Còn mình hễ hơi hơi
là mình đã chạy tùm lum tà la hết, mình phá mất cái hạnh độc cư, làm sao mà
mình tu cho tới nơi tới chốn được. Hơi có sổ mũi, nhức đầu chút ít gì đó, nóng
lạnh tí chút sơ sơ đã là chạy tùm lum tà la thì muôn đời chúng ta làm sao mà tu
tập được giải thoát, uổng cái đời chúng ta tu hành.
Muốn giải thoát,
chúng ta xem thường những cái loại thân nghiệp này.Nó không phải là những cái
điều mà có thể làm trở ngại con đường tu tập của chúng ta, phá cái hạnh độc cư.
Chúng ta chẳng hề sợ cái thọ, vì cái thọ chúng ta đã hiểu biết nó là vô thường,
nó không thường hằng thì tại sao chúng ta lại sợ nó. Cho nên chúng ta không bao
giờ sợ nó thì chúng ta không có ngại gì cả; chúng ta quyết định, quyết định là chúng
ta sẽ không có sợ cái thọ. Cho nên tất cả những cái này trong những cái bài kệ
trước đức Phật cũng đã nhắc nhở chúng ta nhiều,trước thời tiết, trước cái bệnh
tật, trước những cái đau khổ của thân chúng ta đừng có dao động, đừng có phá
hạnh độc cư, hãy cố gắng giữ hạnh độc cư. Và vì vậy có được người thiện hữu tri
thức, những người bạn tốt họ đang sống độc cư, đang sống trầm lặng, họ chẳng hề
rung sợ trước những cái thọ của họ thì chúng ta noi gương họ mà chúng ta bắt
chước.
Ở
đây đức Phật, bài kệ thứ hai mươi lăm này đức Phật nhắc là chúng ta có những
người bạn đó chúng ta noi theo gương. Cho nên cuối cùng thì đức Phật dạy - hãy
sống riêng một mình. Thấy gương hạnh của người đó như vậy thì chúng
ta nỗ lực, chúng ta thực hiện gương hạnh sống một mình như con tê ngưu một
sừng.
Như vậy là quý thầy
đã thấy rõ được cái con đường tu tập của đạo Phật là cái bí quyết cái mục đích
để mà chúng ta đạt được cái con đường giải thoát chính là cái độc cư, cái sống
trầm lặng, cái sống riêng một mình. Sống riêng một mình nhưng luôn luôn lúc nào
chúng ta cũng noi gương những người bạn tốt, những Thánh nhân, những bậc chơn
nhân, những bậc mà người ta thực hiện được những gương hạnh độc cư, người ta ly
được dục ly ác pháp thì những bậc đó là những bậc để chúng ta thực hiện hạnh
độc cư ly dục ly ác pháp như các vị đó.
Bây
giờ Thầy đọc Bài kệ thứ hai mươi sáu, Phật khuyên chúng ta:
Mọi du hí vui đùa
Và dục lạc thế gian
Không trang điểm làm đẹp
Không ước vọng mong cầu
Từ bỏ mọi hào nhoáng
Nói lên lời chân thật
Sáu câu kệ này đức Phật
nói mọi du hí vui đùa. Du hí là đi chỗ này chỗ kia cho nó vui, nó thích, đi xem
cảnh xem hoa, đi xem sông xem núi, đi xem những danh lam thắng cảnh, những nơi
di tích lịch sử hoặc là chỗ này chỗ kia, những cái nơi mà hội họp, những nơi
chợ búa, những nơi đô thị, có những cái sự vui đùa. Mọi du hí vui đùa như vậy,
đó là những cái mà đưa đến chúng ta động tâm, đưa đến chúng ta không có độc cư
được.
Và những cái dục lạc
thế gian, những cái làm chúng ta thích thú cái này cái nọ cái kia, ham muốn cái
này cái nọ cái kia, đó là những dục lạc thế gian khiến cho chúng ta thích trang
điểm làm đẹp. Cho nên người tu sĩ chúng ta không có trang điểm làm đẹp, không
có ước vọng mong cầu. Nghĩa là không mong cầu cái này không có mong cầu cái
kia. Tu là tu, sống là sống cho đúng hạnh không có cầu mong cái này cái kia.
Ví dụ bữa nay y áo
của mình rách mình mong cầu chi có Phật tử cúng dường cho mình bộ y áo mới. Như
vậy đó là chúng ta còn mong cầu. Chúng ta chẳng mong cầu gì hết. Chẳng hạn bây
giờ chúng ta đang đau bệnh chúng ta nói phải chi mà Phật tử cúng dường thuốc
ho, thuốc cảm thuốc này kia, khi mà có đau bệnh mình uống nó sẽ bớt đau bệnh
hơn. Thì còn cái mong cầu, mong cầu nhỏ nhưng cũng còn cái mong cầu; cho nên
chúng ta chẳng còn mong cầu cái đó. Chúng ta hiện bây giờ có thuốc thì chúng ta
uống thuốc mà không thuốc thì chúng ta dùng pháp hướng quét sạch cái thọ của
chúng ta, đuổi nó ra khỏi cái thân của chúng ta làm chúng ta giảm đi cái đau
đi.
Chúng ta đừng sợ
hãi, chúng ta tin tưởng ở Phật pháp, như cái lý tác ý để chúng ta cứu lấy mình.
Nhờ đó mà tâm của chúng ta nó không có dao động. Như vậy là các thầy và các con
cũng nên nhớ rằng chỉ chúng ta tin tưởng ở Phật pháp, chúng ta dùng cái pháp
hướng để đối trị với cái thọ của chúng ta vì chúng ta biết cái thọ là vô thường
mà nó xảy ra cho thân chúng ta bệnh này bệnh kia bệnh nọ. Đó là cái nghiệp thân
của chúng ta, chúng ta đừng có để tâm chúng ta dao động mà chúng ta hãy dùng
pháp hướng như Phật đã dạy như cái lý mà tác ý nó ra để đuổi cái thọ ra khỏi
cái thân nghiệp của chúng ta làm cho thân chúng ta không còn động, không còn sợ
mà chúng ta giữ trọn được cái hạnh độc cư. Nhờ giữ trọn được cái hạnh độc cư
đó, bởi vì cái thọ nó câu hữu với các pháp khác, nó làm chúng ta phải phá đi
cái hạnh độc cư. Mà phá hạnh độc cư thì chúng ta không bao giờ mà chúng ta ly
dục, ly ác pháp được. Mà không ly dục ly ác pháp làm sao mà chúng ta được giải
thoát.Cho nên chúng ta phải thấy được cái độc cư là cái quý báu nhất, cái cuộc
sống riêng một mình là pháp môn rất là quý báu để chúng ta thực hiện con đường
ly dục ly ác pháp, làm cho tâm của chúng ta được giải thoát hoàn toàn và chấm
dứt được sanh tử luân hồi. Nếu mà chúng ta cứ bị cái thọ mà câu hữu với các
điều khác, câu hữu với cái xác thân của chúng ta, rồi câu hữu với cái tưởng của
chúng ta làm chúng ta dao động tâm rồi chúng ta phá đi cái hạnh độc cư. Và phá
đi hạnh độc cư thì ngàn đời, muôn đời chúng ta tu cũng vô ích mà thôi.
Vì chúng ta biết
rằng mỗi con người có thân đều là phải có cái nghiệp. Có nghiệp thì tức là phải
có cái thọ khổ của nó, thì nó phải bệnh này bệnh nọ bệnh kia. Mặc nó, người tu
hành mà còn sợ bệnh đau là cái gì, chết chúng ta còn chả sợ, bỏ hết cuộc đời mà
còn sợ cái thọ, cái bệnh là cái gì. Cho nên chúng ta phải mạnh dạn đừng có sợ
hãi.
Ở đây, bài kệ thứ
hai mươi sáu này, đức Phật khuyên chúng ta, những cái vui đùa của cái du hí mà
đi chỗ này chỗ kia mà đi vui đùa của thế gian thì chúng ta bỏ, và tất cả các
dục lạc của thế gian chúng ta cũng bỏ. Mọi sự trang điểm làm cho đẹp vì thân
chúng ta bất tịnh mà, mỗi mỗi nó đều hôi thúi mà có gì đâu, nó bất tịnh, nó dơ
bẩn vô cùng. Thế mà chúng ta làm cái lớp trang điểm ở ngoài đẹp đẽ làm gì. Thân
chúng ta xấu xí đâu có bằng những người mà sanh hóa thân. Sanh ra từ cái chỗ
nhơ bẩn cho nên thân chúng ta nó quá bất tịnh, nó hôi thúi, nó bẩn thỉu. Ba
ngày không tắm đã là không chịu nổi rồi, đi ra thì người ta đã bịt mũi bịt
miệng, người ta không dám hít cái mùi hôi của chúng ta.
Đó thì các con cũng
như quý thầy đã thấy sự bất tịnh của cái thân rồi thì còn ham gì trang điểm, áo
quần lụa là cho đẹp, cần gì phải trang điểm nào là lược dắt trâm cài, đeo vòng
đeo vàng cho nó đẹp. Có gì mà đẹp, một cái đống thịt hôi thúi, một cái đống
xương trắng ghê gớm, một cái đống gân cốt đờm nhớt, rất là bẩn thỉu có gì mà
đẹp đẽ đâu. Cho nên trong cái khi đó mà chúng ta đã thấy được cái điều này thì
chúng ta hãy mau mau mà xa lìa nó đi. Đừng có để cho chúng ta chấp cái ngã rồi
chúng ta sẽ ước mong cái này cái nọ, cầu mong cái này cái nọ.
Chúng ta nhìn cái
hào nhoáng ở bên ngoài của mỗi con người chúng ta tưởng là sang là đẹp. Sự thật
đó là đau khổ, những cái mà đem đi đến cuộc đời luôn luôn mãi tiếp diễn trong
luân hồi sanh tử. Từ cái nhà cửa, từ cái áo quần, từ cái trang điểm hào nhoáng
bên ngoài nó chứng tỏ là những người đó là những người vô minh, chạy theo những
con đường dục lạc của thế gian, tạo muôn vàn thứ đau khổ và tiếp diễn trong cái
sự luân hồi sanh tử, mãi mãi muôn đời không bao giờ dứt. Nhìn cái nhà lầu, cái
biệt thự, cái vila hào nhoáng, nhìn cái xe hào nhoáng của họ lướt qua thì biết
rằng họ là những con người đang đắm đuối ở trong vũng bùn nhơ hôi thúi của thế
tục chớ đâu phải là giải thoát. Chúng ta sống trầm lặng, sống một mình, sống cô
đơn, nỗ lực thực hiện những lời Phật đã dạy, những pháp Phật đã dạy thì chúng
ta mới thấy được sự giải thoát chơn thật, làm chúng ta ra khỏi những cái sự cám
dỗ của những dục lạc của thế gian.
Cho nên ở cái bài kệ
thứ hai mươi sáu Phật dạy chúng ta phải từ bỏ mọi hào nhoáng, những cái trang
điểm, những cái hoa mỹ, những cái đẹp đẽ mà làm chúng ta thích thú đó là chúng
ta phải từ bỏ. Muốn mà được như vậy thì chúng ta hãy cố gắng, hãy xa lìa, hãy
lánh bỏ mà sống riêng một mình.
Thầy xin đọc lại
toàn bộ bài kệ để cho quý thầy và các con suy ngẫm mà nỗ lực thực hiện tu hành
cho đạt được cái kết quả, làm thân con người quá khổ.
Mọi du hí vui đùa
Và dục lạc thế gian
Không trang điểm làm đẹp
Không ước vọng mong cầu
Từ bỏ mọi hào nhoáng
Nói lên lời chân thật
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Những cái lời mà
Thầy dạy nãy giờ là những cái lời nói chân thật của Phật pháp, lời nói chân
thật của một người đã giải thoát. Họ không còn ham thích một cái gì hết. Cho
nên qua cái bài kệ này chúng ta phải suy ngẫm để nói lên lời chân thật, để
chúng ta biết đâu là đúng, đâu là sai, đâu là khổ, đâu là giải thoát. Thì chúng
ta mới lập được cái hạnh độc cư trọn vẹn mà không bị dao động tâm, không phá vỡ
cái hạnh độc cư.
Bây
giờ Thầy đọc đến Bài kệ thứ hai mươi bảy:
Với con và với vợ
Với cha và với mẹ
Tài sản cùng lúa gạo
Bà con là trói buộc
Hãy từ bỏ buộc ràng
Đó là dục như vậy
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Đây, đức Phật chỉ
cái dục, đối tượng của những cái dục làm chúng ta không xa lìa được những cái
lòng ham muốn của chúng ta. Đối với vợ, với con là cái dục; đối với cha với mẹ
là cái dục; tài sản cùng lúa gạo tức là cùng những thực phẩm, cái sống đó đều
là cái dục; bà con thân bằng quyến thuộc đều là cái dục nó trói buộc chúng ta.
Cho nên Phật khuyên hãy từ bỏ những cái sự ràng buộc này. Đó là những cái mà
làm chúng ta không có dứt trừ, không có ly được cái lòng ham muốn, ly được dục,
ly các ác pháp được. Đó là những đối tượng, những cái đối tượng làm cho cái tâm
dục trưởng dưỡng càng ngày nó càng lớn lên, ham muốn cái này ham muốn cái kia.
Đây là những đối tượng, những đối tượng này nó làm cho cái tâm dục của chúng ta
trưởng dưỡng càng lúc càng lớn càng mạnh càng nhiều và chúng ta càng khổ đau,
và càng trôi lăn ở trong sáu nẻo luân hồi của kiếp người từ kiếp này sang kiếp
khác.
Đó, cho nên Phật
khuyên hãy từ bỏ nó đi mà sống riêng một mình như tê ngưu một sừng.
Các
thầy thấy chưa? Bài kệ thứ hai mươi bảy Phật chỉ cho chúng ta những cái đối
tượng, những đối tượng đó mà nó trưởng dưỡng những cái dục, cái lòng ham muốn
của chúng ta lớn dần theo những cái đối tượng đó. Từ những cái đối tượng đó mà
đoạn dứt được thì cái dục nó mới có ly mà ly được thì cái hạnh sống độc cư đó
là một cái bí quyết để mà chúng ta lìa xa nó. Còn nếu mà chúng ta sống riêng
một mình không được thì làm sao mà chúng ta xa lìa: con, vợ, cha, mẹ, tài sản
của cải, bà con ruột thịt, bạn bè. Cho nên chỉ có cái hạnh độc cư nó mới có xa
lìa được, nó mới ly được. Cho nên phải thấy được bí quyết thành công của sự tu
tập theo đạo Phật đó là hạnh độc cư. Mà
Thầy thường nhắc đi nhắc lại với quý thầy rất nhiều, với các con rất nhiều
nhưng có ai, mấy ai mà đã sống được độc cư?
Mười năm trong thất
Thầy đã sống độc cư, Thầy mới biết được cái bí quyết thành công của nó. Còn bây
giờ đem ra nói với quý thầy, quý thầy có tin đâu, các con có tin đâu. Cho nên
cứ lăng xăng chạy qua chạy lại, nói chuyện này chuyện kia đủ thứ làm cho tâm
động, làm sao mà ly, lìa xa được những cái này. Thì dù bây giờ có nói nhập Nhị
thiền, Tam thiền cũng chỉ là lời nói suông chứ chả có Tam thiền Nhị thiền gì
cả. Sơ thiền ly dục ly ác pháp còn chưa được thì làm gì đến Nhị thiền, Tam
thiền, Tứ thiền. Cũng như vừa rồi thì các con đã thấy rằng có nhiều người đã tự
xưng mình, ở trong mùa hạ năm nay có nhiều người tự xét mình, nghĩ rằng mình
nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền. Rồi có người bảo Thầy, hỏi Thầy coi phải
có vậy không. Thiệt ra thì Thầy làm thinh chứ không bao giờ Thầy xác định rằng
có hay không. Một người mà chưa có ly dục ly ác pháp thì làm sao gọi là Sơ
thiền, Nhị thiền. Họ có ba y một bát chưa, họ có ly chưa, họ còn có những người
ly nhữngngười thân chưa? Họ còn có những người này người kia, người thân này
người thân kia. Họ chưa có ly được cái nơi sống mà họ gọi là đầy đủ. Họ có sống
trong rừng họ ăn lá cây được chưa, họ có sống ở trong những cái hang cái hóc mà
khổ sở, toàn ăn rễ cây rừng mà sống, lượm trái cây rừng mà sống mà không cần,
không sợ hãi trước những cái sự rắn độc, rít độc hay hoặc là những cái loài có
thể giết hại họ chết trong cấp thời, hoặc là những bệnh đau xảy ra có thể đem
đến cho họ có thể chết ngay tức khắc. Thế mà họ chưa có ly được những cái này
thì thử hỏi làm sao gọi là Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Làm sao mà Thầy dám
xác nhận là rằng họ nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền được?
Nhìn qua đời sống
xét thấy cái chỗ mà họ sống chưa được độc cư. Sống được một hai ngày, năm ba
ngày thì lại có chuyện, nói chuyện này chuyện kia. Nếu một người biết sống độc
cư, ít ra mà để thực hiện con đường ly dục ly ác pháp thì ít ra họ phải sống
một mình họ phải đôi ba năm, năm năm, mười năm độc cư như vậy, mà biết họ có ly
dục ly ác pháp được chưa. Nếu họ sống được một năm, hai năm, ba năm chắc chắn
là họ sẽ hoàn tất con đường đi ly dục ly ác pháp. Còn đằng này họ chưa sống
được một ngày ly dục ly ác pháp nữa, ngồi đó ở trong thất mà tâm tư nghĩ lăng
xăng đủ thứ chuyện ở ngoài thì làm sao mà gọi là ly dục. Hễ thân mà hơi có bệnh
đau là nhảy lăng xăng như cá mà bị vào lưới. Thì thử hỏi làm sao là ly dục ly
ác pháp.
Người ly dục ly ác
pháp trước những cảnh nào người ta cũng thản nhiên,bình thản. Thân đau như
buốt, nhức nhối vô cùng người ta cũng thản nhiên, người ta không có hề động
chạm đến phá cái hạnh độc cư, không bao giờ nhảy khỏi cái hàng rào của độc cư.
Do vì vậy người ta mới ly dục ly ác pháp. Còn cái này chạy tùm lum tà la, hễ
động một chút là nhảy tới nhảy lui lăng xăng. Nhất là bệnh đau mà Thầy đã xét
thấy qua các thầy, ai nấy cũng đều là động tâm trước các cảm thọ, họ không hề
dạn dĩ, gan lỳ chịu đựng những cơn đau của họ, họ sợ chết. Tu hành mà còn sợ
chết thì thử hỏi tu hành cái gì. Tu hành thì không sợ chết mới tu hành được.
Cho nên vì vậy mà các cảm thọ, nhất là thọ khổ không làm cho họ dao động tâm họ
thì họ mới sống độc cư trọn vẹn.
Đây là Thầy nói về
cái thọ, còn về biết bao nhiêu thứ chuyện mà họ không thể buông xả được. Như
quý thầy thấy rằng ít hôm thì có vợ có con, ít hôm thì có cha có mẹ, hôm thì
bạn bè đến thăm viếng tùm lum tà la. Rồi ít hôm thì có Phật tử này, Phật tử nọ
đi đến thăm thầy mình này kia nọ thì các thầy nghĩ như thế nào, các con nghĩ
như thế nào? Có độc cư được không? Độc cư gì như vậy mà sao gọi độc cư được, vì
vậy mà sao gọi là ly dục ly ác pháp được.
Đó là những cái khó
của đạo Phật mà phải thực hiện sống cho đúng thì cái khó đó nó trở thành cái
dễ.
Bây giờ Thầy đọc lại
cái bài kệ thứ hai mươi bảy để cho các thầy và các con suy ngẫm qua cái sự độc
cư ở cái bài kệ này:
Với con và với vợ
Với cha và với mẹ
Tài sản cùng lúa gạo
Bà con là trói buộc
Hãy từ bỏ buộc ràng
Đó là dục như vậy
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Các con suy ngẫm đi,
thử coi có phải đó là những buộc ràng không. Xa lìa đi để cứu lấy mình, chỉ có
mình cứu lấy mình mà thôi, không ai cứu mình được trên con đường tu hành giải
thoát này.
Bài
kệ thứ hai mươi tám, Thầy xin đọc cái bài kệ này:
Tất cả là trói buộc
Ở trong thế gian này
Lạc thú thật nhỏ bé
Vị ngọt thật ít ỏi
Khổ đau lại nhiều hơn
Chúng đều là câu móc
Người tu biết như vậy
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Đức Phật thấy những
cái điều mà trói buộc của thế gian, những cái lạc thú của thế gian nó nhỏ bé,
nó ít ỏi; nó ngọt ngào ít ỏi lắm nhưng nó đau khổ nhiều lắm, đừng có ham, đừng
có ham nó. Thấy vị ngọt của nó tuy ít ỏi nhưng chúng ta cứ tham đắm hoài. Những
lạc thú thì quá nhỏ bé, có gì thú vui của thế gian đâu, toàn là thứ đau khổ.
Cho nên tất cả những cái sự này là sự trói buộc ở trong thế gian này, nó ràng
buộc rất là chặt chẽ. Chúng - những cái lạc thú, những cái vị ngọt này nó là
những miếng mồi của cái lưỡi câu móc, nó câu chúng ta, nó làm chúng ta tưởng đó
là hạnh phúc. Vì vậy mà chúng ta phải chết điêuchết đứng với nó. Khi một người
mà đã bị mắc cái lưỡi câu này rồi khó mà gỡ ra. Chúng ta là những con người,
những con vật, những con cá đã mắc câu; mắc câu của lạc thú ở đời; mắc câu vợ,
con, cha, mẹ, tài sản của cải, bà con ruột thịt. Chúng ta đã mắc cái lưỡi câu
này.
Rồi những cái thú
vui nhỏ nhỏ như ăn thì thấy ngon, như nằm thấy êm ấm rồi thích những cái dục
lạc này, dục lạc kia. Tất cả những cái này là chúng ta đã bị câu móc của nó hết
rồi. Chúng ta bị móc, móc ở trong họng của chúng ta rồi cho nên hiện giờ chúng
muốn kéo lôi chúng ta chỗ nào cũng được. Cho nên đến khi mà cái câu móc cuối
cùng là bệnh tật của thân chúng ta, chúng ta cũng bị những cái câu móc đó.
“Chúng
đều là câu móc”,ở đây đức Phật xác định chúng đều là những câu móc, nó móc chúng
ta đó. Cho nên khi mới nhức đầu hay nóng lạnh sơ sơ, nó đã móc chúng ta nhảy tứ
tung hết, phá độc cư rồi. Chúng ta thấy rõ chứ, thấy rõ như vậy thì chúng ta
biết rằng chúng ta có sợ nó nữa không?Chúng ta sẽ bứt cái lưỡi câu móc này ra,
không để cho nó móc trong họng của chúng ta nữa. Từ đó chúng ta mới có được sự
giải thoát.
“Người
tu biết như vậy”- biết rõ như vậy, biết rõ từng cái như vậy. Từ cái thọ lạc, thọ
khổ, thọ bất lạc bất khổ, từ cái bà con ruột thịt, con cái vợ chồng, anh em cha
mẹ, bầu bạn đều là những câu móc móc trong họng của chúng ta làm chúng ta sống
độc cư không có được, làm chúng ta sống hạnh tu hành không có xong. Cho nên
cuối cùng chúng ta bị trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi mà không thấy, cứ mải mê
tưởng là chúng ta tu như vậy là được. Tu như vậy chưa được vì sống chưa đúng
làm sao tu được thiền định. Thiền định phải chứng minh trên cái nền tảng hạnh
sống của một người tu. Người tu đúng hạnh thì tức là thiền định mới đúng. Mà
người sống không đúng hạnh thì tu hành đều là sai hết, không có tu đúng, đều là
tà thiền, tà đạo, đều là những cái pháp tà. Mà người sống đúng hạnh độc cư,
sống đúng giới luật của Phật là người tu sẽ đúng chánh pháp. Mà người tu mà
sống không đúng giới luật của Phật, sống không đúng cái hạnh độc cư, sống không
riêng một mình thì người đó dù có tu như thế nào cũng đều là tà pháp ngoại đạo
mà thôi. Không chính xác đâu.
Đến
đây, Thầy sẽ đọcBài kệ thứ hai mươi chín để cho quý thầy nghe và các con suy
ngẫm cái bài kệ mà Phật khuyên chúng ta như thế nào:
Hãy chặt đứt bẻ gãy
Các kiết sử trói buộc
Như các loài thủy tộc
Phá hoại các mạng lưới
Như lửa đã cháy xong
Không còn trở lui lại
Người tu cần phải biết
Chỉ sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Bây
giờ Thầy sẽ giải thích để các con hiểu cho rõ. Cái câu đầu của bài kệ thứ hai
mươi chín Phật dạy“Hãy chặt đứt bẽ gãy”.
Đức Phật bảo chúng ta hãy chặt đứt bẻ gãy - chặt đứt bẻ gãy là cái gì? “Các
kiết sử trói buộc” -
như vậy chúng ta biết rằng phải chặt đứt các sợi dây trói buộc đó, những sợi
dây đó là những cái sợi dây gì. Ở đây thì nó có bảy cái kiết sử tức là thất
kiết sử đó. Thầy giải thích cho quý thầy rõ bảy sợi dây này có những cái tên
gì.
-
Cái kiết sử đầu tiên gọi là Ái kiết sử.
-
Cái kiết sử thứ hai gọi là Sân kiết sử.
-
Cái kiết sử thứ ba gọi là Kiến kiết sử.
-
Cái kiết sử thứ tư gọi là Nghi kiết sử.
-
Cái kiết sử thứ năm gọi là Mạn kiết sử.
-
Cái kiết sử thứ sáu gọi là Hữu tham kiết sử.
-
Cái kiết sử thứ bảy là Vô minh kiết sử.
Đây là nó có bảy cái
kiết sử. Thì Phật khuyên chúng ta nên chặt đứt bảy kiết sử này, giống như cái
loài mà thủy tộc nó phá hoại các mạng lưới, như vậy nó mới có thể sống độc cư
được. Nếu mà còn kiết sử thì chúng ta khó sống độc cư lắm.
Ái kiết sử có nghĩa
là sợi dây yêu thương, sợi dây mà thương yêu nó trói buộc chúng ta đối với vợ
con, anh em, cha mẹ, dòng họ, bạn bè thân thuộc nó làm chúng ta thương mến. Và
sự thương mến đó nó trói buộc chúng ta rất chặt.
Sân kiết sử có nghĩa
là sân, hận, phiền não, giận hờn, tức tối; những cái mà thù hận thì nó gọi là
sân kiết sử. Cái này cũng trói buộc chúng ta rất chặt.
Kiến kiết sử là
những cái sự mà hiểu biết của chúng ta, những cái tri kiến mà chúng ta hiểu
biết, nó chấp chặt những cái tri kiến đó. Cũng như bây giờ người ta nói “Trong
mọi chúng sanh đều có Phật tánh” thì ai cũng hiểu như vậy rồi cũng chấp cái đó
gọi là kiến kiết sử. Bởi vì con đường của Đạo Phật mà còn cái kiến chấp nào thì
cái đó nó đâu có được. Cho nên trong kinh nói, nếu mà chúng ta chứng Alahán mà
chúng ta còn thấy chứng quả Alahán thì chúng ta chưa chứng quả Alahán. Cho nên
có nhiều thầy nói là tui nhập Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thì
những người đó chưa có chứng gì hết, chưa có biết. Đạo Phật mà chúng ta mở
miệng ra một cái, cho mình được cái đó tức là cái kiến kiết sử, cái hiểu biết
cái đó nó thành ra cái tri kiến. Cái tri kiến đó nó gọi là kiến kiết sử. Cho
nên người tu hành mà còn bị dính mắc một cái kiến nào đó thì cái đó nó trói
buộc chúng ta. Do vì vậy mà chúng ta hay tranh luận hơn thua với họ để cho
mình, cái lý luận của mình, cái kiến của mình - cái ý kiến, cái của mình hiểu
biết nó đúng còn của người khác sai cho nên mình phải tranh luận với họ, mình
bài bác họ thế này thế kia đó là kiến kiết sử.
Nghi kiết sử là nghi
ngờ cái này kia, nghi cái này không phải là pháp chánh tri, cái này là tà pháp;
nghi ngờ cái này cái kia, nghi ngờ người này nghi ngờ người kia, đủ thứ loại
nghi. Thì cái nghi ngờ đó, đó là nghi kiết sử nó làm chúng ta, buộc chặt chúng
ta khó mà chúng ta vượt thoát ra. Đó là nghi kiết sử.
Mạn kiết sử là ngã
mạn. Khi mình hiểu biết một vài điều gì đó ở trong kinh hoặc luận, hoặc là có
sự học hỏi. Có nghĩa là mình có cấp bằng cử nhân tiến sĩ rồi mình chấp vào
những cái cấp bằng đó rồi cái ngã mạn của mình theo đó mà lớn lên, cái kiêu
ngạo, cái tâm tự kiêu tự đại mình nó lớn lên ở trong cái chỗ đó. Mà chính cái
kiêu mạn này nó cũng trói chặt chúng ta. Có một chút gì danh là nó đã ngã mạn
rồi. Thấy mình tu hơn người ta là nó đã ngã mạn rồi. Cho nên nó trói chặt mình
lại, vì vậy mà cái người tu chúng ta phải bứt chặt, bẻ gãy nó đi. Ở đây phải bẻ
gãy nó. Mà chỉ có cái người mà sống độc cư thì mới bẻ gãy nó được chứ cái người
mà không sống độc cư thì không bẻ gãy nó được.
Hữu tham kiết sử
nghĩa là có cái lòng mà ham muốn cái này cái kia, ham muốn cái này cái kia cái
nọ đó thì cái đó nó trói buộc chúng ta. Thấy cái gì chúng ta cũng thích, thấy
cái gì chúng ta cũng ham thì đó là cái muốn của chúng ta. Đó là hữu tham kiết
sử.
Vô minh kiết sử là
cái không hiểu của chúng ta. Hiểu mà không đúng thì đó là cái không hiểu. Một
người mà học tiến sĩ họ học rất giỏi, họ hiểu biết rất giỏi nhưng mà họ hiểu ở
trong cái dính mắc của dục lạc thế gian, họ chạy theo những cái dục lạc thế
gian. Thí dụ như một ông bác sĩ ổng nói ở bây giờ ăn như vậy mới đủ chất, hoặc
ăn ngày một bữa thì thiếu chất. Đó là cái vô minh của ông ta. Ổng đâu biết rằng
chúng ta ăn ngày một bữa là đủ sống, nó không thừa. Còn ổng ăn dư đi nữa tới
chừng đó cũng chết chứ ổng có sống đâu. Phải chi mà ăn mà nó đầy đủ dưỡng chất
này kia nọ mà kéo dài người ta một trăm, hai trăm tuổi, một ngàn tuổi thì như
vậy là cái đúng - là ông bác sĩ nói đúng. Còn bây giờ ổng ăn có đầy đủ đi nữa
thì bảy tám chục tuổi, một trăm tuổi ổng cũng chết queo hà. Có ông bác sĩ nào
mà ổng lý luận như vậy mà có cái ông vua nào mà ăn đầy đủ chất bổ dưỡng mà ổng
sống lâu đâu. Càng ăn bổ dưỡng chừng nào lại càng mau chết chừng nấy. Cho nên
cái lý luận đó là cái lý luận sai, cái lý luận của kẻ vô minh, nó không thấy.
Còn chúng ta ăn ngày một bữa vừa đủ sống thì không sanh dục. Mà không sanh dục
tức là tâm hồn chúng ta ly các pháp ác rồi, nó không còn khổ đau. Và không còn
khổ đau thì chúng ta thanh thản, cho nên tuổi thọ chúng ta sống kéo dài ra
được. Còn họ ăn nhiều họ sanh dục; từ cái sanh dục này đến sanh dục kia, họ làm
cho tâm hồn họ đau khổ, tuổi thọ họ càng ngày càng kém chứ chưa phải là kéo dài
cái tuổi thọ họ đâu.
Cho nên từ cái chỗ
hiểu sai lệch, cái chỗ mà hiểu không đúng như vậy đó gọi là vô minh chớ không
phải họ không hiểu. Họ hiểu không đúng, không đúng cái đường lối giải thoát,
không đúng cái tâm trạng giải thoát mà hiểu một cách dính mắc rồi chạy theo cái
ăn uống, tức là chạy theo cái dục lạc. Ăn cho nhiều để cho nó bổ, ăn cho nhiều
tức là chạy theo cái dục, rồi ăn nhiều nó sanh dục. Đó là những cái hiểu lầm
lạc mà gọi là vô minh kiết sử. Cái này nó cũng trói buộc. Cho nên có một lúc
người ta cũng nói: ăn cơm gạo lút muối mè trị bệnh này bệnh kia, người ta cũng
chấp vào cái chỗ đó, cho như vậy đó là đúng, đó cũng là cái vô minh. Có người
nói nhịn đói nó sẽ trị bệnh, có nhiều người nghĩ rằng tiết thực trị bệnh, nghĩ
cái này nghĩ cái kia. Có nhiều người nghĩ uống nước tiểu nước đái là hết bệnh.
Ôi nó đủ thứ vô minh. Cái đời sao mà nó đủ thứ vô minh vô cùng, nó không hiểu
được cái gì hết. Cho nên càng thấy cái cuộc đời nó càng đủ loại, nó chế biến đủ
loại để mà nó vô minh đủ cách ở trong đó. Nó không có thấy cái lối giải thoát.
Cuộc đời này, cái thân này là thân bất tịnh, hôi thúi, bẩn thỉu; cái thân này
là cái thân không có thể trường thọ, thân nhân quả, cái thân vô thường, nó sống
bữa nay ngày mai nó chết, nó liên tục có sự thay đổi trong thân của nó, nó cằn cỗi,
càng ngày càng tiêu, càng hoại diệt. Nó đâu có trường tồn thế mà người ta cứ
chấp chặt nó, nuôi dưỡng nó bằng cách này bằng cách khác để cho nó bồi bổ để
cho nó bồi dưỡng. Hễ ra chút là thiếu chất thiếu này kia, sanh cái tâm lo lắng,
dao động tất cả mọi cái. Hơi nhức cái đầu, hơi đau cái chân một chút đã là băn
khoăn đã là lo lắng. Cái tâm dao động như vậy cái tâm đó là cái tâm bệnh tật,
cái tâm không sáng suốt, cái tâm vô minh. Cho nên do vì vậy mà luôn lúc nào
cũng trong cái đau khổ chớ không bao giờ được giải thoát.
Cho nên ở đây Phật
dạy chúng ta phải bẻ gãy, phải bứt bảy cái sợi dây kiết sử này thì như vậy
chúng ta mới có được sự giải thoát.
Phật ví như các loài
thủy tộc (tức là loài cá ở dưới biển, sông) bị người ta bao cái lưới rồi người
ta bắt lên để người ta làm thịt thì các loài thủy tộc này phải phá tất cả các
mạng lưới để mà đi ra. Thì chúng ta đang bị những kiết sử, bảy kiết sử này trói
buộc chúng ta cũng như đang bị ở trong một cái lưới cho nên chúng ta phải chặt
đứt và bẻ gãy nó đi. Nếu mà chúng ta không có chịu mà dứt bỏ nó, không có chịu
chặt đứt nó thì chúng ta khó có thể mà thoát ra khỏi cái con đường sanh tử luân
hồi. Cho nên chúng ta phải chặt đứt nó, phải chặt cho thật đứt đoạn, phải làm
cho mạng lưới phải rách nát để mà loài thủy tộc thoát ra khỏi những cái đau khổ
cũng như là chúng ta bẻ gãy tất cả các kiết sử vậy.
Đức
Phật còn ví dụ thêm, trong bài kệ này còn ví dụ thêm cho chúng ta thấy “Như
lửa đã cháy xong”- nó cháy qua rồi nó không cháy lui trở lạinữa,
bởi vì đâu có chà bổinữa, cho nên nó đốt sạch. Chúng ta đoạn dứt các kiết sử
cũng như là lửa cháy, lửa cháy cho sạch không còn có một cái sự gì trói buộc
chúng ta được. Thì như vậy người mà tu hành mà hiểu biết mà rõ được như vậy thì
chúng ta phải làm gì mà chúng ta cắt được nó?Chỉ có sống độc cư mới cắt được
bảy kiết sử này thôi.
Cho nên cái hạnh độc
cư rất là tuyệt vời. Nếu chúng ta biết cách sống riêng một mình thì các kiết sử
này chúng ta đều bứt hết, bẻ gãy hết. Nếu mà chúng ta không sống được độc cư
thì khó mà bẻ gãy thất kiết sử này. Bảy cái kiết sử này không có thể nào bứt ra
được hết, thì muôn đời chúng ta đều bị ở trong cái mạng lưới của bảy kiết sử
này trói buộc đời này sang đời khác không bao giờ mà thoát ra được.
Cho nên cái bài kệ
thứ hai mươi chín Phật khuyên chúng ta phải sống độc cư thì mới bẻ gãy, mới
chặt đứt tất cả các kiết sử.
Vậy thì Thầy đọc lại
để cho quý thầy suy ngẫm lại cái bài kệ đức Phật dạy có đúng hay không.
Hãy chặt đứt bẻ gãy
Các kiết sử trói buộc
Như các loài thủy tộc
Phá hoại các mạng lưới
Như lửa đã cháy xong
Không còn trở lui lại
Người tu cần phải biết
Chỉ sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Đó là bài kệ mà
chúng ta dùng cái hạnh độc cư mà bẻ gãy và chặt đứt tất cả những sợi dây ràng
buộc của kiết sử. Như vậy chúng ta mới trọn vẹn được con đường tu tập theo đạo
Phật.
Bây
giờ Thầy tiếp tục Bài thứ kệ thứ ba mươi:
Với mắt cúi nhìn xuống
Chân đi không lưu luyến
Các căn được hộ trì
Tâm ý khéo chế ngự
Không đầy ứ rỉ chảy
Không cháy đỏ bừng lên
Người tu cần phải biết
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Đây, bài kệ này đức
Phật muốn chúng ta sống một mình, sống riêng một mình mà sống trong cái sự
phòng hộ của sáu căn. Khi đi ra mà sống một mình, sống độc cư khi đi ra đường
thì như thế nào? Nếu một người sống độc cư thì đi ra đường, dù đi nơi đâu chứ
không phải là giam mình ở trong nhà mà gọi là độc cư. Cũng có đi ra đường, cũng
có đi chỗ này chỗ kia nhưng cái đi của chúng ta như thế nào để đúng là hạnh độc
cư.
Với
mắt cúi nhìn xuống - con mắt nhìn xuống
dì chứ không có ngó qua ngó lại, đó là phòng hộ nhãn căn, phòng hộ mắt để cho
mắt không có dính mọi vật tức là giữ gìn mắt như vậy gọi là sống độc cư.
Chân
đi không lưu luyến– cái chân chúng ta bước đi ở trên bước đường mà chúng ta đi ra
khỏi cái thất của chúng ta rồi, cái vị trí của chúng ta rồi. Nhưng chúng ta
đừng có để cái sự lưu luyến của chúng ta ở chỗ này chỗ kia chỗ nọ. Cho nên đó
là độc cư đó. Cho nên vì vậy mà hôm nay chúng ta học cái bài này chúng ta biết
được cái độc cư không có nghĩa là chúng ta khép chặt mình ở trong một khuôn viên
nào đó mà chúng ta đi tới đi lui nhưng phải có sự phòng hộ. Mắt mình nhìn
xuống, chân đi không lưu luyến thì đó là độc cư đó. Cho nên chúng ta thấy rằng
chúng ta đi ra mà chúng ta giữ gìn được trọn vẹn như vậy thì gọi là độc cư. Còn
nếu mà giữ gìn không được trọn vẹn như vậy thì không nên đi ra.
Các
căn được hộ trìthì mắt tai mũi miệng thân ý của mình đều được giữ gìn không có
cho nó dính mắc vào các trần, các pháptrần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp
đừng có cho nó dính mắc vào. Vì vậy mà chúng ta luôn luôn phải hộ trì các căn.
Mà khi hộ trì các căn như vậy tức là chúng ta đã sống độc cư đó.
Tâm
ý khéo chế ngự– cái tâm với cái ý của chúng ta luôn luôn lúc nào cũng chế ngự,
không có cho nó khởi lên sự ham muốn cái này cái nọ cái kia. Đó là chúng ta
khéo mà chế ngự được tâm mình như vậy, đó là mình sống độc cư đó.
Không đầy ứ rĩ chảy
Không cháy đỏ bừng lên
Nghĩa là nó không có
chảy ra, nó không có đổ ra, nó không có khởi ra, nó không nghĩ ra cái ham muốn,
cái này cái kia, thì đó là những cái lậu hoặc nó không có rỉ ra được. Mà không
có rỉ chảy ra được thì tâm chúng ta rất là thanh thản. Cho nên nó không có khởi
ra vì tâm ý mình khéo chế ngự cho nên nó không có khởi nghĩ ra cho nên nó không
có bị chất chứa, nó không có bị ức chế, mình chế ngự nó. Mình không làm cho nó
dính mắc trong những cái đối tượng của hiện tại đối với nó. Và tâm của chúng ta
khéo tu định Vô lậu, xả trừ những cái lậu hoặc cho nên vì vậy mà nó không có
đầy ứ mà rỉ chảy ra. Vì vậy mà tâm ý chúng ta nó không có phiền não, không có
đau khổ, nó không có sân hận cho nên không cháy đỏ bừng lên - tức là không có
sân hận, không có giận dữ nữa, nó thanh thản, nó nhẹ nhàng, nó an ổn. Đó là
những cái điều kiện như vậy là những cái điều kiện sống độc cư, sống cô đơn,
sống một mình.
Người
tu cần phải biết- người tu sĩ chúng ta cần phải hiểu biết như vậy. Đó là cái lối
sống một mình đó, giống như con tê ngưu một sừng. Bởi vì, khi mà chúng ta đi
ra, hoặc đi tới đi lui ở trong thất của chúng ta cũng vậy, chúng ta nhìn xuống
giữ gìn mắt của mình (cúi nhìn xuống); chân đi thì không lưu luyến - không lưu
luyến một cái chỗ nào cả hết. Các căn thì luôn luôn lúc nào cũng hộ trì, tâm ý
thì khéo chế ngự không để cho lậu hoặc rỉ chảy ra, không sân hận bừng cháy lên
thì đó là chúng ta đã sống hạnh độc cư, đã sống đúng người độc cư.
Mà nếu mà chúng ta
không có giữ gìn được, không có giữ gìn cái chỗ tu hành được như vậy thì tức là
chúng ta không phải là người sống độc cư. Cho nên sống độc cư thế nào các thầy
thấy: khi đi chúng ta nhìn xuống chân rồi tu tập định Chánh niệm tỉnh thức
trong cái hành động của mình cho nên Chánh niệm tỉnh thức thì trong chánh niệm
thì có lưu luyến gì nữa không. Đâu có lưu luyến gì, luôn luôn lúc nào cũng
phòng hộ sáu căn, không có được để cho nó duyên theo các trần làm cho nó bị
dính mắc cho nên các căn chúng ta thanh tịnh, tâm ý thì khéo chế ngự, làm cho
nó không có rỉ chảy ra những cái lậu hoặc, không có sân hận không có giận dữ,
không có làm những cái điều ác. Đó là những cái mà hành động đó là những hành
động sống độc cư, sống cô đơn, sống một mình giống như con tê ngưu một sừng.
Đây Thầy đọc lại bài
kệ ba mươi này để cho quý thầy và các con suy ngẫm, cố gắng giữ gìn trên bước
đường tu tập mà Thầy đã dạy các con có những cái định: định Chánh niệm tỉnh
thức, định Sáng suốt - tu cái tâm thanh thản, định Vô lậu - thì ở chỗ này đó là
chúng ta phòng hộ sáu căn, đều là do cái sự tu tập tỉnh thức của chúng ta.
Với mắt cúi nhìn xuống.
Chân đi không lưu luyến
Các căn được hộ trì
Tâm ý khéo chế ngự
Không đầy ứ rỉ chảy
Không cháy đỏ bừng lên
Người tu cần phải biết
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Đó
là bài kệ thứ ba mươi. Bây giờ Thầy tiếp tục bài kệ thứ Ba
mươi mốt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét