BĂNG SỐ 55
Vì vậy mà mỗi một
người tu sĩ của đạo Phật mà giữ gìn giới hạnh nghiêm túc để tu tập thì chúng ta
có những cái phần đóng góp rất lớn cho cái đại gia đình của Phật giáo của chúng
ta. Làm cho nó càng ngày càng phong phú, càng ngày càng có nhiều cái kinh
nghiệm tu hành, chứ không phải đóng góp như theo con đường của Thiền Tông cũng
như là Đại Thừa. Đóng góp cái kiến giải, đóng góp những tưởng pháp làm cho càng
lúc thì con đường tu theo đạo Phật thì càng lúc Giới luật nó càng bị phá Giới
luật, cái phạm hạnh thì người tu sĩ nó càng lúc càng mất đi. Và con đường Thiền
định mà gọi là từ Sơ thiền tới Tứ thiền đó thì chẳng có còn cái kinh nghiệm nào
mà biết tu tập nữa hết. Thậm chí như nói đến Tứ Như Ý Túc, thì người ta cũng
chẳng biết như thế nào gọi là Như Ý Túc.
Do đó, Thầy thiết
nghĩ rằng, cái sự đóng góp mà sự tu hành của các con sau này cũng như quý thầy
đều là có sự đóng góp rất lớn cho cái đại gia đình của Phật giáo là khi chúng
ta biết rõ con đường đi này. Biết rõ cái cách thức giữ gìn giới hạnh và tu tập
Thiền định thì cái sự đóng góp của các con cũng như là quý thầy sẽ làm giàu cho
Phật giáo. Cái bước đường tu tập cho cái người sau sẽ dễ dàng hơn. Và cũng là
cái sự đóng góp cho cái đường đi đạo đức của nhân quả càng lúc càng rõ nét hơn
để cho mọi người, người ta chấp nhận cái nhân quả là một cái bằng chứng cụ thể
nhân nào quả nấy mà không có sai. Đó là những cái điều mà Thầy mong ước ở sau
này của các con cũng như quý thầy.
Về phần hôm nay hiện
giờ thì Thầy trả lời qua cái sự tu tập của các con có cái sai và cái đúng. Cho
nên ở đây trước tiên cái tập này là của Từ Đức gởi Thầy rất lâu. Là vì bận công
việc cho nên Từ Đức không có ở nhà phải đi về dưới quê, rồi nuôi một đứa con
bệnh. Do đó hôm nay được trở về. Vì vậy nhân cái dịp Thầy cũng trả lời chung
cho các con để mà biết cách thức tu tập.
Về
phần hơi thở khi xả thì phải cho thật sạch, nghĩa là phải trở về với trạng thái
của hơi thở bình thường. Đó thì các con lưu ý khi mà chúng ta thở chậm, thở nhẹ
như thế nào không biết, nhưng mà khi mà chúng ta muốn xả ra nghỉ, thì chúng ta
phải thở trở lại cái hơi thở bình thường. Cho trở về cái trạng thái rất là bình
thường, rồi chúng ta mới xả ra đi kinh hành hoặc là ngồi nghỉ. Chứ
đừng có xả chưa được bình thường mà ngồi nghỉ thì không tốt. Khi xả
ra đi kinh hành là lúc này đi kinh hành thư giãn, không được tập trung vào đâu
hết, như một cái người đi mà vô sự. Các thầy các con nên lưu ý về cái đi kinh
hành đó, thì nó có nhiều cái điều kiện mà đi kinh hành. Nếu mà đi kinh hành mà
tu Chánh niệm tỉnh thức thì
nó khác, mà đi kinh hành mà tu cái Tứ Vô Lượng Tâm thì nó khác, mà đi kinh hành
mà phá cái hôn trầm thì nó khác, mà đi kinh hành mà thư giãn thân tâm của chúng
ta đang mệt mỏi qua một thời gian mà công phu tu tập, nó có cái sự mệt mỏi mà
đi kinh hành để thư giãn thì nó lại có cái khác. Cho nên, đừng nghĩ rằng đi
kinh hành cái nào cũng giống cái nào thì cái đó là chúng ta hiểu chưa có rành.
Nếu mà hiểu rành thì chúng ta không thể nào mà đi kinh hành với cái không hiểu
biết mà phải hiểu biết rất rõ.
Nếu sau thời gian mà
chúng ta nhiếp tâm trong hơi thở hoặc là tu cái Định Vô lậu đó mà chúng ta
xuống đi kinh hành đó thì đi kinh hành đó gọi là đi kinh hành thư giãn. Cho nên
tâm không có còn tập trung vào chỗ nào hết, nghĩa là không còn có tập trung vào
cái bước chân đi mà đi như cái người vô sự, đi như một cái người thanh thản,
không có một cái gì ở trong tâm của mình hết. Khi mà chúng ta đi kinh hành thì
chúng ta cũng đã biết rằng đi kinh hành thư giãn nó khác hơn là đi kinh hành mà
tu tập các loại định khác. Khi thấy thân tâm thư giãn rất là bình thường thì
chúng ta ngồi lại tu thì có cái cảm giác lâng lâng đó, đó là chúng ta xả chưa
sạch. Ở đây mà muốn xả cho thật sạch thì từ cái hơi thở bình thường mà chúng ta
đi vào cái hơi thở chậm và nhẹ, rồi từ đó chúng ta cũng trở lại cái hơi thở
bình thường. Xả cho thật bình thường thì chúng ta nghe tất cả trong thân của
chúng ta không có một cái trạng thái gì đặc biệt lạ lùng hết mà nó trở về dưới
cái dạng rất bình thường thì lúc bấy giờ chúng ta đi kinh hành. Đi kinh hành tức
là thư giãn lại, hồi nãy chúng ta ngồi gò bó, chân tay chúng ta gò bó lại một
chỗ đó, bây giờ chúng ta đi cho nó giãn gân ra, cho nó thư giãn ra hết. Khi mà
thấy nó thư giãn ra mà chúng ta ngồi lại mà không nghe một cái cảm giác gì nó
lâng lâng nhẹ nhàng hoặc gì đó, thì nó là đúng. Mà nó còn cái sự mà lâng lâng
nhẹ nhàng gì đó thì biết là xả chưa sạch thì phải xả cho thật sạch, đừng để cái
trạng thái say say như gợn sóng. Nó làm như mình say say, như gợn sóng nó làm
cho cái thân của mình nghe nó hồi hộp hay bồng bềnh bồng bềnh gì đó thì như vậy
là nó chưa được. Cho nên chúng ta xả nó ra cho hết.
Đặt niệm để tu Định
Vô lậu, ví dụ đặt cái niệm thân quán xét cái sự vô thường của cái thân thì nên
suy tư tìm hiểu sự vô thường của cái thân. Nghĩa là mình đặt cái niệm thân mà
vô thường, từ cái chữ thân rồi cái chữ vô thường, thì nó là hai cái danh từ như
mình suy nghĩ cái thân nó vô thường là nó thay đổi như thế nào? Từ cái lúc nào
nó như thể nào để nhận ra được cái sự thay đổi vô thường đó bằng một cái thực chứ
không phải bằng một cái danh từ vô thường, hoặc là bằng cái thân vô thường mà
những cái từ như vậy, mà phải nhìn thấy cái hình ảnh mình diễn tả ra mình nhìn
thấy. Như bây giờ nói mình quan sát mình thấy cái mặt của mình hồi mà mình còn
trẻ nhỏ thì cái mặt của mình nó không có cái nếp nhăn, bây giờ mình lớn tuổi
mình già thì cái mặt mình có cái nếp nhăn, rồi cái da của mình thì nó không
phải như hồi trẻ nhỏ nó bóng nó láng, còn cái da của người già thì nóchùn, nó
nhăn, nó nhăn nhỏ nhỏ, nó làm cho cái mặt nó không có được thẳng.
Đó là cái hình ảnh
của sự vô thường, cũng như tóc mình hồi còn nhỏ thì nó đen, tóc nó mọc rậm, còn
bây giờ thì nó bạc, nó rụng, nó thưa, nó cằn cỗi, cái cộng tóc nó khô khan, nó
không có như cái cộng tóc của hồi tuổi trẻ. Đó là mình nhìn qua cái sự như vậy
đó để mà quán xét như vậy đó thì mình thấy nó là cái sự vô thường. Còn nếu mình
nói chữ vô thường, cái thân vô thường mà không xét tóc tai mặt mũi da này của
mình, thân của mình, rồi sức khỏe suy yếu của mình, mình không có nói ra được
cái sự mà suy yếu đó, thì đương nhiên là mình chỉ dùng cái danh từ không, thì
như vậy là cái định mà tu cái Định Vô lậu đó, thì không bao giờ mà nó đạt được
cái Vô Lậu, mà nó chỉ là một số cái từ mà để cho mình nói cái vô thường của nó
mà thôi.
À, con nên quán xét
cái tuổi còn trẻ đến bây giờ tuổi già sự vô thường nó thay đổi như thế nào, rồi
tóc, rồi mắt. Như hồi nhỏ thì mắt nó sáng, nhìn cái gì cũng khỏi đeo kính hết,
còn bây giờ mắt nó mờ, tóc nó bạc; mũi thì hồi đó nó khác; còn da bây giờ nó
khác hồi đó nó khác; răng hồi đó thì nó trắng mà nó đều không như bây giờ nó
rụng rồi nó thưa nó đủ cách rồi nó lên chân, nó làm cái răng xíu xáo. Rồi tới
cái đi, chân hồi đó đi thì nghe nó vững vàng, còn bây giờ đi nghe nó muốn té.
Tất cả những cái hành động của tuổi trẻ, rồi cái hành động của tuổi già nó như
thế nào? Lúc già như thế nào mà lúc trẻ như thế nào?
Đó
là mình đặt ra cái dàn bài để từ đó mình mới có sự suy tư để mình thấy cái sự
vô thường của nó. Có quán xét và so sánh như vậy con mới thấy rõ thân vô thường. Khi
thấy rõ thân vô thường con trạch pháp một câu dùng làm pháp hướngNhư
lý tác ý. Khi mình thấy rõ cái thân vô thường rồi thì
kế đó mình mới trạch ra một cái câu để dùng làm cái pháp hướng để mình nhắc nó, để
cho cái tâm của mình từ đây nhận ra được cái sự vô thường đó mà mình không có
chấp đó là cái ngã của mình. Đây Thầy có nêu thử cái câu pháp hướng để cho con
làm cái pháp hướng. Quả đúng thật là cái thân vô thường vì mình quán xét nó rồi đó, bây giờ
mình mới đặt ra cái câu:
“Quả
đúng thật là cái thân vô thường, nên cái sự vô thường này đã đưa con người đến
chỗ khổ đau muôn vàn. Vì thế ta biết rõ thân không phải là của ta, không phải
là bản ngã của ta. Từ đây về sau ta đừng dại dột lầm chấp ngã là của ta nữa. Ai
có chửi mắng mạ nhục thân này ta không được giận hờn thù oán họ.”
Đó là mình đã thấy
nó là vô thường, không phải là của mình nữa, nó không phải cái ngã của mình
nữa, thì ai có chửi mắng ai có mạ nhục thì mình không có giận hờn, không có
phiền não nữa. Tức là mình trạch cái câu đó ra để từ đó nó trở thành Vô Lậu.
Cho nên mình không tham, không sân, không si, không lo cho cái thân của mình
nữa.
Đó là cái câu pháp
hướng Thầy chỉ làm cái mẫu để cho sau này các con tự theo đó mà đặt ra và sau
khi mình dùng cái pháp quán, mình quán thấy nó vô thường rồi, mình mới đặt ra
cái câu trạch pháp để theo cái câu đó hàng ngày mình nhắc để mình phá cái tâm
tham sân si mạn nghi của mình, mình phá năm cái triền cái hoặc là thất kiết sử
hoặc là ngũ kiết sử cho nó sạch.
Đó là cái phần Thầy
trả lời cho Từ Đức, con theo đó mà con quán xét cái thân vô thường, rồi cái
thực phẩm vô thường, rồi tất cả những cái gì mà thương yêu, đều là các pháp ở
trong thế gian đều là vô thường tất cả hết. Để rồi từ đó chúng ta đập vỡ phá
vỡ, chúng ta sẽ được giải thoát hoàn toàn, tức là chúng ta ly dục, ly ác pháp
hoàn toàn.
Còn về phần Minh
Cảnh. Ở đây thì Minh Cảnh có xin Thầy đừng có thu băng về cái phần này. Thầy
xin trả lời vì cái trọng trách và cũng là cái nhiệm vụ để xây dựng lại cái
đường lối tu tập của đạo Phật, thì suốt cái thời gian rất dài mà Thầy đem cái
chịu cực khổ rất nhiều hầu lại để dẫn dắt một số người tu tập như Minh Cảnh
cũng đã về đây từ lúc đầu, rồi kế đó ra ngoài Long Hải ở, rồi sau nay mới về
đây tiếp tục trở lại con đường tu tập. Thì trải qua biết bao nhiêu là tu sĩ về
đây tu tập cho đến cái ngày hôm nay, Thầy thấy rằng cuối cùng thì nhìn chung
lại thì Thầy đã chịu cực khổ rất nhiều, nhưng chỉ đào tạo bây giờ thì coi như
là tạm được hai người, nhưng chưa phải là hoàn chỉnh cho lắm. Còn phải trải qua
một cái thời gian tu tập nữa mới có đạt được cái sự giải thoát hoàn toàn. Còn
bây giờ thì kể như là phải khuyến khích cho những người này họ tiếp tục trên
con đường tu tập nữa. Nghĩa là họ còn phải trải qua vài ba năm nữa mà phải
chuyên cần và siêng năng thì những người này thì chắc chắn họ sẽ không có xa
Thầy được nửa bước. Nghĩa là bây giờ cái giai đoạn của họ là luôn luôn lúc nào
cũng phải gần Thầy. Còn riêng các con thì hiện giờ có xa Thầy thì cũng chưa có
đến nỗi nào, nhưng họ là những người đang đi gần tới cái chỗ cuối cùng thì
không thể nào những người này xa Thầy. Nhưng cái số này chỉ có một hai người
chứ không thể hơn được cho nên vì vậy mà Thầy đi tìm một cái nơi nào đó mà Thầy
ẩn bóng thì chắc chắn là Thầy phải đưa những cái người này họ phải đến đó để mà
gần gũi bên Thầy để giúp đỡ cho họ, cho đến khi họ hoàn toàn giải thoát được
sanh tử làm chủ được luân hồi. Và đồng thời khi họ tu xong rồi thì họ là cái
người còn trẻ tuổi còn sức khỏe thì họ thay Thầy để tiếp nối cái ngọn đuốc,
thắp lại cái ngọn đuốc của Phật pháp. Còn riêng Thầy lúc bấy giờ là lúc ẩn bóng
thật sự, còn các con hiện bây giờ thì tìm được những cái nơi yên ổn mà tu tập
thì lúc nào gặp khó khăn thì chắc chắn là cũng có sự thị hiện bằng cái sự giao
cảm, bằng cái tư tưởng, hoặc là bằng cái trí tuệ, hoặc là thị hiện ngay ở cái
nơi các con đang tu tập đó bằng da bằng thịt bằng con người bằng xương bằng
thịt đến ngay lúc đó mà để trợ giúp. Đó là tùy duyên chứ không thể mà hứa trước
được. Nhưng vẫn là người nào mà vẫn là nỗ lực tu hành thì chắc chắn là sẽ có
Thầy thị hiện đến đó để mà trợ giúp. Nhưng trên cái bước đường tu tập thì Thầy
còn cái nhiệm vụ, đó là soạn cái Giáo án cho hết những cái giới hành, vì cái
giới hành như các con đã biết Thầy mới có giảng lấy thân mà niệm Phật, rồi mới
học được cái bài kế đó là lấy thọ mà niệm Phật, rồi mới lấy tâm mà niệm Phật.
Hồi sáng này Thầy mới tiếp tục dạy là lấy pháp niệm Phật. Vừa rồi Thầy có giới
thiệu với mấy con lấy pháp niệm Phật như thế nào thì Thầy đã giới thiệu rồi.
Nhưng mà hồi sáng này Thầy đi vào cái chi tiết là lấy từng cái pháp mà niệm
Phật. Rồi có những cái câu trạch pháp ra dùng làm cái pháp hướng để nhắc nhở
cái tâm mình để cho thấm nhuần được cái tâm mình để các pháp khi mà đến với
mình đến với tâm mình thì mình sẽ không bị các pháp lôi cuốn, hoặc là các pháp
ác sẽ làm cho mình trở thành sự đau khổ nơi tâm hồn của mình. Do mình bắt các
pháp đều là đứng ở trong vị trí niệm Phật, vì vậy mà tâm mình nó được giải
thoát.
Do học cái bài Tứ Vô
Lượng mà hồi sáng Thầy cũng dạy chưa hết, nghĩa là lấy pháp niệm Phật mà dạy
chưa hết. Bởi vì có khách rồi Thầy phải nghỉ trước 30 phút để tiếp khách rồi
mới ăn cơm, cho nên nó không có cái thời gian để giảng cho hết. Mà hôm nay thì
như các con đã biết rằng bữa nay là mùng 8 rồi mà tới 14 là sẽ ra hạ mà trong
khoảng thời gian này cho tới ngày cái ngày 14 giải hạ đó thì Thầy phải soạn tạm
cho các con là đại khái tóm lược lại cách thức tu tập từ cái dễ cho đến cái
khó, sơ lược. Thí dụ như một người mới tu phải tu như thế nào, và cái người tu
bước một được rồi đến bước hai như thế nào, và tu các định gì định gì? Do đó
soạn tóm tắt lại, để rồi nhờ cô Út đem ra phô tô lại 10 bản, 20 bản mà phát ra
cho mỗi người một bản. Và khi mà phát cho mỗi người một bản rồi thì trong cái
khoảng thời gian này, ngày nay là mùng 8 mà cho tới 14 thì Thầy tập trung làm
cái bản này chớ đâu còn cái ngày nào mà dạy các con được nữa. Các con thấy
chưa? Nó đâu còn cái thời giờ, do đó khi mà các con đã giải hạ ra thì các con
được cái bản đó theo bản tóm lược đó để các con tu tập. Các con đã được nghe
lời giảng dạy của Thầy rồi, thì đâu có đi vào những cái chi tiết làm gì? Thầy
nhắc cho các con phải tu tập cái gì, cái gì vậy thôi để cho các con theo đó để
mà nương mà tu tập.
Vì nếu mà Thầy không
có lo soạn cái bản tóm lược này thì các con học mênh mông quá rồi cũng không
biết đâu là cái tu trước cái tu sau nữa. Nó cũng làm cho các con bị rối loạn
nữa. Cho nên buộc lòng thì Thầy phải dừng lại đây rồi qua cái hạ rồi thì trong
lúc đó Thầy tiếp tục soạn cái giáo án này để giảng cái pháp hành cho nó hết.
Bởi vì cái giai đoạn này, về cái pháp hành này rất là quan trọng, bởi vì cái
hành động để mà tu cho đạt được cái sự giải thoát mà đây chỉ mới chỉ có nói
rằng Tứ Bất Hoại Tịnh, rồi các con thấy mình phải còn học Ngũ Căn, Ngũ Lực, rồi
Thất Bồ Đề, rồi Tứ Niệm Xứ, rồi Bốn Thiền, rồi Tứ Diệu Đế, rồi Tứ Như Ý Túc rồi
Tam Minh. Quá nhiều những cái đó đều là những cái pháp hành hết, cái đó gọi là
giới hành đó. Tất cả 37 phẩm trợ đạo của Phật. Mà bây giờ mình mới đầu tiên các
con học cái gì đầu, mình vô cái lộ trình thứ hai mà Thầy giảng cho người cư sĩ
thì các con đã học Tứ Vô Lượng Tâm, tâm Từ tâm Bi tâm Hỷ tâm Xả rồi. Rồi các
con học Tứ Chánh Cần tức là các pháp ác chưa sanh thì không cho sanh, còn các
pháp ác đã sanh thì đoạn diệt, các pháp thiện chưa sanh thì phải cho sanh, mà
đã sanh thì tăng trưởng. Đó là Tứ Chánh Cần. Lấy Thập thiện mà làm chuẩn để
diệt Thập ác, đó là những cái mà các con học về Thập thiện. Thì tất cả những
cái đó là đã học rồi nhưng mà bây giờ mới có tới Tứ Bất Hoại Tịnh, rồi bắt đầu
nó càng tiếp tục nữa, thì Thầy thấy cái vấn mà phát hành này còn nhiều lắm. Mà
càng đi thì nó càng thực tế và cụ thể và nó càng nói lên được cái sự thực hành
của đạo Phật rất là sâu sắc và rất là kĩ cho một cái người tu tập, không thể
nào thiếu những cái pháp này.
Hồi
nào tới giờ chúng ta học thì coi như là cái lí pháp thì nhiều mà cái hành pháp
thì nó ít, còn bây giờ toàn bộ là hành pháp.Vì vậy mà qua Tứ Bất Hoại Tịnh mà các
con thấy vào thì Thầy chỉ giới thiệu cái lí pháp thôi, rồi sau đó thì cái pháp
hành nó liên tục. Lúc nào cũng có ám thị, lúc nào cũng có hướng tâm, rồi lúc
nào cũng có trạch pháp. Rồi tới đây phải dạy các con phải thực hiện cái niệm
Giác Chi tức là muốn mà cái niệm mà chân chính, thì mình phải tư duy như thế
nào để thực hiện cái niệm chân chính. Để thực hiện cho nó ở trong cái pháp quán
như thế nào? Để rồi mình trạch pháp ra cho nó đúng. Đó là mình tu tập cái niệm
Giác Chi. Rồi tu tập cái trạch pháp Giác Chi, trạch làm sao mà cho đúng cái lý
của nó để làm cái pháp hướng.
Đó thì tất cả những
cái này thì các con phải được trui luyện để mà tập, chứ nếu không mà các con
đặt đại hoặc suy nghĩ đại thì nó không có đúng cái cách, cái pháp hướng thì các
con hướng nó không có hiệu quả. Mà nó có nhiều cái khó như vậy cho nên Thầy chỉ
làm cho các con Thầy chỉ nêu lên những cái pháp hướng cho nó tượng trưng, rồi
từ đó các con theo các đặc tướng của riêng của mỗi người của mình mà các con sẽ
đặt ra cái pháp hướng cho đúng với cái tâm cái tướng của mình. Để rồi mình dùng
nó mình tu tập thì cái lợi ích đó nó rất lớn cho chính bản thân cho mình. Và
cái thời gian nó không còn kéo dài nữa cho nên vì vậy thì khi mà ẩn bóng đó,
thì chắc chắn Thầy cố gắng Thầy sẽ soạn cho hết. Cuối cùng rồi thì Thầy mới
được nghỉ ngơi. Nhưng mà dù sao đi hôm rày cơ thể Thầy rất là mệt nhọc vì nó đã
rất là hao hơi rất nhiều, cho nên Thầy có lẽ là qua cái hạ này Thầy cũng nghỉ
chừng 5 đến 10 hôm. Rồi bắt đầu khỏe trở lại Thầy sẽ làm việc trở lại liên tục
trong vòng một tháng hoặc nửa tháng là nó sẽ xong cái Giáo án. Xong cái Giáo án
rồi thì Thầy sẽ nhuận lại các cái băng từ đầu mà Thầy đã thuyết giảng, nó có
những cái sự sơ suất ở trong đó. Và Thầy sẽ nghe lại hết, rồi Thầy kiểm tra lại
hết coi nó chỗ nào thiếu mà chỗ nào đủ, từ đó Thầy sẽ bổ túc thêm cho đầy đủ.
Có những chỗ nào mà cần phải thêm thì Thầy thêm, có những chỗ nào cần phải bớt
thì Thầy bớt ra để không nó thừa thì cũng không lợi mà nó thiếu thì nó lại làm
cho cái con đường Giáo án tu tập của chúng ta thiếu. Cho nên Thầy còn làm việc
rất nhiều trong một cái giai đoạn kế nữa.
Đến đây thì cô Minh
Cảnh có muốn Thầy nghỉ xả hơi cho nó khỏe rồi sau đó Thầy khỏe rồi Thầy tiếp
tục làm thì cái điều này là Thầy cũng có suy nghĩ. Và đồng thời thì trong cái
vấn đề mà lo lắng cho Phật pháp thì cái nhiệm vụ của người tu thì chắc chắn là
phải lo rồi. Nhưng mà cái nhân duyên của chúng sanh có đủ hay không? Chứ còn
nếu mà không đủ thì dù mình có lo gì thì cũng không được. Còn nó đủ thì chắc
chắn là mình lo nó cũng không khó đâu. Rồi nó sẽ có đủ cái duyên nó đưa đến, có
những người mà hỗ trợ và giúp đỡ cái duyên nó đến. Nếu học pháp mà đủ duyên tốt
và chúng sanh có đủ nhân duyên thì có người họ giúp đỡ mình liền. Như từ cái in
ấn hoặc là tất cả những cái Giáo án của Thầy nó được trở thành văn, trở thành
sách đi, trở thành kinh đi, thì nó cũng đều là có những cái tốt.
Và bây giờ cũng như
là hôm nay thì cũng như là cái buổi mà Thầy giảng, sau bắt đầu Giáo án thì đây
cũng là cái buổi giảng có thể về cái phần mà chưa phải là kết thúc cái Giáo
án,nhưng mà hôm nay Thầy cũng có nhắc nhở với mấy con là hiện giờ đó, các con
đứa nào mà có thể hợp với cô Út thì ở lại bám lấy cô Út mà tu tập, chịu khó thì
chắc chắn là... Tuy vậy chứ cô Út cũng tận tình giúp đỡ các con lắm. Dù sao đi
nữa cũng phải hướng đến cái sự tổ chức để mà chúng ta tu hành cho đến chỗ rốt ráo
mà thôi. Còn đứa nào mà thấy rằng chưa có hợp, thì nên tạo cái nơi mà yên tịnh
cho mình tu hành, chứ khi mà không hợp mình ở, mình tu cũng khó tu lắm. Nó phải
có cái sự hợp, bởi vậy Thầy mới dạy các con nhẫn nhục tùy thuận bằng lòng. Suốt
cái thời gian mà mình tu tập được cái này thì mình sẽ nhẫn nhục, mình tùy
thuận, mình bằng lòng mình sống để mình tu tập, mình chẳng còn tìm cái gì hơn,
thì cái đó là dễ. Còn nếu mà thấy cái đặc tướng của mình nó không có phù hợp
thì ép mình để mà sống, thì nó gượng ép nó làm cho mình động tâm thêm. Nó không
có hợp. Còn thấy hợp thì mình sống với cô Út để rồi từ đó cô Út sẽ tổ chức, cổ
cũng biết tu cổ cũng hiểu biết được trong cái thời gian tu tập như thế nào mà
sẽ đạt được thiền định, tu tập như thế nào mà quét sạch các lậu hoặc, thì cổ
cũng từ cái chỗ hiểu biết đó mà cổ giúp cho mình đi từng cái giai đoạn.
Chứ còn cái tâm của
mình nó chưa hết lậu hoặc mà mình cứ vội mình tu cái thiền định thì cô biết
rằng mình muốn như vậy để rồi mình khép chân vô trong thất mình ngồi yên tu,
chắc chắn cái việc đó mình làm không được đâu. Và vì vậy mà cổ không có đồng ý
trên cái vấn đề đó mà cổ la cổ rầy mấy con là cái vì vậy. Cho nên ở đây, cuối
cùng hôm nay là bài giảng cuối cùng đó, thì Thầy khuyên các con phải chọn cái
vị trí ở cho yên, đứa nào cũng phải ở cho yên hết, cái vị trí nào cho nó yên.
Đừng có nay ở chỗ này, rồi mai đi ở chỗ khác, hoặc là nay chùa này mai chùa
khác, thì chắc chắn là nó không tới đâu hết. Bất kì chỗ nào mình chọn cho được
mình ở yên một chỗ đi. Chẳng hạn bây giờ mình không có ở đây, thì mình chọn cái
chỗ nào đó mình cứ ở cái chỗ đó nhập thất mình tu đi. Thì cái sự yên ổn mà ở
một chỗ mà tu, thì có điều kiện nó dễ là khi Thầy xuất hiện nó dễ, còn bữa nay
các con ở đây mai các con ở chỗ kia thì các con khó mà gặp Thầy lắm. Các con
hiểu không? Bây giờ mà các con bất kì ở chỗ nào thì các con ở yên đi, cứ lo
chuyên tu ở yên một chỗ đi, thì cái điều đó là cái điều mà Thầy có thể về Thầy
thăm thì rất dễ. Khi về thăm đó là có những cái kinh nghiệm để mà trợ giúp cho
các con suốt cái quá trình thời gian mà tu tập đó. Nó có cái sai, cái đúng thì
các con dễ đi. Bởi vì cái sai của mình tu, cái thời gian sai mình biết rất rõ,
khi mà được Thầy nhắc nhở thì các con biết rất rõ. Mà phải ở yên, chứ còn các
con ở mà không yên, cứ lăng xăng mà chạy hoài nó không có lập được cái hạnh độc
cư thì chắc chắn là khó lắm, nó không thể nào.
Bởi vì cái không độc
cư thì bữa nay mình ở cái chỗ này mai mình ở chỗ khác, rồi mình ở một thời gian
5 tháng 3 tháng mình thấy nó không hợp mình đi nữa, thì cứ đi hoài như vậy thì
khó mà có thể Thầy giúp đỡ được. Còn nếu mà các con thấy chỗ nào mà chết sống ở
lì một chỗ đó, thì có thể giúp đỡ được.
Đó, cái đó là Thầy
khuyên các con nên chọn lấy cái vị trí ở cho yên một chỗ, cái chỗ nào mình thấy
phù hợp thích hợp mình cứ ở miết cái chỗ đó đi. Rồi đói khát gì cũng thôi kệ,
miễn là yên một chỗ thì dễ dàng. Đó là những cái phần mà Thầy khuyên các con.
Do vì vậy đó sau cái
thời gian mà Thầy ẩn bóng Thầy đi rồi, thì ở đây chỉ còn có mình cô Út thì cổ
chẳng qua là cổ cũng nuôi với một cái số ít người thôi, chứ cổ nuôi nhiều thì
chắc chắn là Phật tử họ cũng không có cung cấp, không có cúng dường nhiều. Cho
nên sức cổ thì cổ cũng nuôi không được đông đâu. Do vì vậy đó thì cổ cũng lo
nếu mà nuôi không được đông mà ở đông mà bắt đi ra làm để mà kiếm cơm ăn thì
chẳng tu gì được hết. Cổ làm là làm trong cái giai đoạn đầu thôi, để cho mình
có lao tác, để cho mình tu tập những cái Định Vô Lậu. Chứ còn tới cái giai đoạn
tu mà để làm chủ được cái sống chết, thì chắc chắn là cái người nào cũng phải
là nhập thất 100% rồi, không có còn mà bước ra khỏi cổng. Và tới cái giai đoạn
đó thì tức là nó phải tổ chức như thế nào để thành tựu được cái chỗ sống cho
đúng đắn như vậy, chứ không phải là thiếu cái sự mà sắp xếp như vậy, thì chúng
ta tu cũng không được.
Nhưng bây giờ mà cho
các con vào trong thất mà ngồi tu thì nó cũng chẳng nhập Tứ thiền gì được hết.
Bởi vì cái tâm Vô Lậu nó chưa hết mà không lo tu tập ở ngoài để xả, mà cứ vô
thất ngồi tu không thì nó chỉ nén tâm, rồi cái tâm Vô Lậu nó không có quét sạch
được.
Cho nên trong những
cái chung đụng nhau, sống chung nhau mà có cái lao tác, nó có cái sự đụng chạm
mà sự đụng chạm đó để trắc nghiệm được cái tâm của mình coi nó hết lậu hoặc hay
không? Mà thật sự nó hết rồi thì bắt đầu mà xét được cái người đó mà hết rồi,
cho họ vào thất để mà thực hiện cái thiền định thì họ thực hiện rất nhanh, rất
mau không còn lâu nữa. Chỉ có thời gian ngắn mà họ sẽ đạt được những kết quả
rất tốt cho cái sự tu tập của họ.
Thì hôm nay Thầy nói
như vậy để các con chuẩn bị cho mình, vì còn cái thời gian không có lâu nữa. Có
người thì phải về sắp xếp gia đình, con cái hay hoặc này kia cho nó ổn, rồi mới
tìm cái vị trí cho yên để mà lỗ lực tu hành theo cái giáo án của Thầy. Hoặc là
có người lo sắp xếp gia đình rồi trở lên đây sống với cô Út, chịu ở trên cái sự
mà điều khiển của cô Út. Cô chỉ như thế nào mình làm theo như thế ấy. Và đồng
thời sẽ lỗ lực và có những cái thời gian chờ đợi để quét cho sạch cái tâm lậu
hoặc của mình trong một năm hay nửa năm nữa hoặc là hai năm nữa, để rồi đi vào
trong con đường thiền định kế tiếp mà chúng ta phải thực hiện Bốn thiền và phải
nói rằng phải thực hiện luôn cả Tam Minh nữa.
À, Thầy có nói với
Minh Tông là chúng ta tu đến đây không có nghĩa là chúng ta làm chủ cái thân tâm
của chúng ta đâu, mà chúng ta còn phải thực hiện Tứ Như Ý Túc. Nghĩa là sau khi
mà cái thân định, cái thân của chúng ta đã ngưng hơi thở rồi, thì từ đó mà Thầy
sẽ dạy cho cách thức mà tu tập Tứ Như Ý Túc. Nghĩa là chúng ta muốn như thế nào
thì cái thân của chúng ta sẽ làm như thế nấy, không có còn mà chống lại cái ý
của chúng ta được, nghĩa là chúng ta muốn làm sao là nó làm như vậy. Cho nên Tứ
Như Ý Túc thì các con thấy, cái Dục như ý túc là muốn như thế nào thì làm được
như thế nấy. Rồi Thiền định Như ý túc, Thiền định Như ý túc là cái gì? Là chúng
ta muốn nhập định hồi nào là nhập định à. Chúng ta bảo ví dụ như bây giờ như
Thầy này là Thiền định Như ý túc này, Thầy bảo cái hơi thở ngưng và các hành ở
trong thân phải ngưng thì đó là bắt đầu nó ngưng liền, gọi là Thiền định Như ý
túc. Đấy các con thấy không? Mà Tinh tấn như ý túc là Thầy luôn lúc nào nó cũng
có cái sự siêng năng ở trong đó, muốn làm gì làm được nó hết; cho nên cái siêng
năng đó vẫn phải có, cho nên gọi là Tinh tấn như ý túc. Còn cái tuệ mà Thầy
muốn cái tuệ của Thầy như thế nào thì nó cũng phải phát hiện ra như thế ấy. Thí
dụ cái tuệ Như ý túc là như thế nào? À, bây giờ Thầy soạn tới cái bài này nói
về pháp niệm Phật, bây giờ lấy cái pháp niệm Phật là niệm sao đây? Thầy chỉ đặt
câu hỏi vậy. Bắt đầu Thầy nói: à, bây giờ cái tuệ phải phát triển ra, lấy các
pháp niệm Phật phải niệm như thế nào, phải phát triển ra ngay liền. Thầy nói
như vậy bắt đầu Thầy giữ cái tâm yên lặng như thế này, bắt đầu cái trí tuệ Thầy
nó phán xét ra liền. Do đó Thầy biết, à bây giờ lấy cái pháp niệm Phật là cái
pháp nào? Bây giờ người ta chửi mình, lấy cái lời mắng chửi của họ đó, chửi
mình đó, bắt cái lời này đem lại niệm Phật đi. Thì bắt đầu họ chửi mình thì nó
niệm Phật rồi thì nó đâu có còn gì mà nó giận, cho nên bắt cái pháp đó niệm
Phật, thì do đó cái tâm của Thầy nó không còn giận ai nữa. Các con thấy phải
hiểu, cho nên lấy pháp mà niệm Phật mà. À, Phật dạy thân, thọ, tâm, pháp niệm
Phật thì bây giờ mình học tới pháp niệm Phật mà từ lâu đến giờ có ai dạy điều này
đâu. Thầy cũng đâu có biết, cho nên Thầy nói, bây giờ cái tuệ là phải phán xét
coi lấy cái pháp niệm Phật này là niệm làm sao? À, thì bắt đầu trong đầu của
Thầy nó nảy ra, bây giờ phải lấy nó bắt nó vô niệm Phật. Ông Phật thì người ta
chửi Ông Ông không có giận, vậy thì lấy cái pháp này mà niệm Phật. Phật thì Ông
không giận thì cũng như lấy cái pháp này mà niệm ở cái tâm của mình, cho nên
cái tâm mình nó cũng không có giận. À, cho nên các con thấy không? Vì vậy mà
mình phải trạch pháp nhắc ra, bắt cái pháp này niệm Phật, nó làm cho cái tâm
mình nó không còn dính mắc và tham đắm nữa.
Đó thì mỗi cái như
vậy gọi là Như ý túc. Như ý túc, Tuệ Như ý túc. Cái tuệ của mình, mình muốn như
thế nào thì nó phát triển như thế ấy, cũng như các con ngồi đây, các con quán Vô
lậu này, các con bảo này, cái tri kiến giải thoát phóng ra để xem coi cái thân
này vô thường như thế nào? Ngồi hoài mà nó không phóng ra nổi, giờ hổng biết nó
làm sao vô thường? Cái tóc nó đã bạc trên đầu rồi mà nó cũng không biết làm sao
nó bạc nữa? Thì như vậy là các con có thấy nó phóng được không? Như vậy nó
không có phóng, phải không? Còn như Thầy bảo cái nó phóng liền, à nó biết từ
chân đến đầu như thế nào thế nào? Tức là cái tuệ nó phóng ra, đó là Tuệ Như ý
túc. Cho nên bốn cái Như ý túc đó, Dục như ý túc là muốn sao nó làm vậy. Rồi
cái Định như ý túc này, mình muốn nhập Định sao nó nhập vậy. À rồi cái Tinh tấn
như ý túc này, thì cái sự siêng năng của mình, mình muốn siêng năng sao nó
siêng năng như vậy, nó không có lười biếng nữa. Rồi bây giờ đến Tuệ như ý túc,
cho nên nó đủ bốn Tứ Như Ý Túc.
Đó thì các con thấy
khi một người mà đủ bốn Như ý túc rồi thì người ta làm cái việc gì thì người ta
sử dụng cái việc làm đó. Cho nên Thầy mà soạn mà viết cái Giáo án này, thì sử
dụng cái Tuệ Như ý túc mình rất nhiều. Có nhiều cái đâu có ai mà biết trước
được cái này, nhưng mà khi đó mình phải sử dụng cái Tuệ Như ý túc. Cho nên nghe
nói Tứ Như Ý Túc thì hầu như người ta nói cái này khó mà có ai biết được hết,
nhưng mà Thầy thấy có khó gì đâu, chỉ cần cái thân mình nó định, cái tâm mình
nó định là mình dễ dàng phát triển ra được à. Các con cố gắng nó không định các
con lấy dây cột thì nó định rồi, trói nó cứng nó đừng nhúc nhích thì nó định
chứ gì? Còn mình để nó nhúc nhích hoài nó định cái gì, nó làm sao nó định. À,
bây giờ trái tim nó đập, ta lấy cái dây trói trái tim cho nó đừng đập, thì nó
không đập thì nó không nhúc nhích thì cái thân nó định chứ gì? Bây giờ mình
trói không được nhưng mà rồi mình cố gắng mình trói nó đi. À, thì như vậy các
con thấy không? Mình muốn cho nó định thì lấy dây cột, cột riết thôi, nó đứng
lại nó định, mà nó định được thì mình sai nó sao cũng được hết, phải không?
Thầy cũng do cái chỗ
mà trói nó được rồi bây giờ nó mới định được, bây giờ mới sai nó làm được cái
chuyện này. Chớ cở mà trói nó không được thì đâu có làm được cái chuyện này.
Bây giờ muốn nghỉ nó làm sao đây, nó Như lý tác ý tác làm sao đây, nó đâu có ra
được. Còn bây giờ Thầy bảo cái Tuệ Như ý túc như cái lý tác ý thì làm sao đây,
mày phải nói ra cho tao biết, tao làm sao tao biết được? Mình dạy nó vậy cái
bắt đầu ở trong nó nói: à, Tuệ Như ý túc là nó như thế này thế này thế này. À,
Thầy phải làm như vậy như vậy đó thì đúng, nó biểu Thầy làm như vậy, cho nên
Thầy làm cái nó đúng quá rồi. Các con làm đúng cái pháp tu. Đó là tại vì Thầy
sai được cái trí tuệ của mình, bắt buộc nó làm việc.
À, bây giờ Thầy trả
cái tập này cho Minh Cảnh. Rồi bắt đầu bây giờ các con nghe băng, Thầy nghỉ một
chút.
Khi
mà chúng ta muốn có một cái trí tuệ mà ở trong kinh sách Phật thường gọi là cái
Đại Minh Lực, Đại Oai Lực, rồi Đại Thần Lực và cái Đại Minh Lực. Nhưng nếu mà
muốn cho có cái Đại Minh Lực, thì chúng ta phải có cái Đại Thần Lực, mà Đại
Thần Lực tức là cái sức Thiền định, phải thân định ở trên tâm và tâm định ở trên thânthì
lúc bấy giờ mới có cái Đại Minh Lực. À, Đại Minh Lực tức là Tuệ lực chứ không
phả gì khác hết. Như vậy, thí dụ như hồi ở đoạn băng cũ Thầy có nói là khi mình
muốn viết một cái bài để mình quan sát cái bài đó nó có cái pháp hành như thế
nào? Thì lúc bây giờ chúng ta phải giữ cái thân và tâm của chúng ta ở trên cái
yên lặng của một cái Định. Mà trong cái Định đó chúng ta có cái quyết định là
chúng ta sẽ ở trong cái Định đó chúng ta tìm cái trí tuệ, cái Đại Minh lực. Thì
lúc bấy giờ cái trí tuệ chúng ta nó phát triển ra. Thì nó biết rằng cái pháp đó
phải sử dụng cái hành như thế nào, áp dụng vào cái đời sống như thế nào để mà
chúng ta thực hiện được tuỳ theo cái pháp đó mà chúng ta sống cho đúng theo cái
pháp đó được cái giải thoát, làm chủ được sanh tử luân hồi. Cái vấn đề đó là
cái vấn đề của cái người mà có Thiền định. Còn cái người mà chưa có Thiền định
thì dù chúng ta muốn phóng cái tri kiến giải thoát đó chúng ta cũng phóng không
được, mà phóng ra cái đại Minh lực đó cũng không được. Chỉ có những cái người
mà người ta đã có một cái sức Thiền định, nghĩa là Tứ Như ý túc đó. Mà trong
cái phần mà Tứ Như ý túc thì Định Như ý túc, nghĩa là người ta muốn Định như
thế nào là người ta Định liền. Còn mình muốn định, ngồi thiền mà nhập định thì
nó không phải đơn giản đâu, bởi vì nó chưa có Tứ Như ý túc. Còn cái người mà đã
có Định Như Ý Túc, tức là người ta có cái sức định mà muốn lúc nào cũng được,
nghĩa là muốn trong cái thời gian ngắn hoặc là dài tuỳ theo cái người đó.
Cho nên thí dụ cái
người đó mà người ta đủ cái sức mà Định Như Ý Túc rồi, thì người ta bắt cái
thân và cái tâm nó phải Định trên nhau, rồi chừng đó người ta mới dùng cái Tuệ
lực, cái Đại Minh Lực, thì cái Đại Minh lực nó sẽ phát hiện ra, tức là cái Tuệ
lực nó sẽ phát hiện ra. Mà nó phát hiện ra thì nó nhìn qua cái Giáo pháp của
Phật đó, nó thấy rõ được cái pháp hành, cái pháp hành rất là rõ ràng và cụ thể.
Từ đó nó sắp xếp lại cái thứ tự phải tu cái nào trước, phải tu cái nào sau.
Cũng như, từ lâu đến giờ người ta chưa có dạy bốn cái chỗ niệm Phật mà hôm nay
Thầy dạy cho bốn cái chỗ niệm Phật này, thì tức là Thầy phải trải qua một cái
Đại Thần lực, tức là phải ở trong cái sức yên lặng của thân và tâm của mình rồi
từ đó mới phát triển ra, mới thấy à như vậy Phật dạy có bốn cái chỗ niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng và niệm Giới, như vậy gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh. À, cái danh
từ Tứ Bất Hoại Tịnh từ lâu thì người ta chỉ hiểu qua cái danh từ chứ người ta
chưa có hiểu qua cái pháp hành.
Hôm nay chúng ta đã
học tới cái giai đoạn là chúng ta lấy Pháp mà niệm Phật, do vì vậy mà Thầy mới
nói rằng, khi một cái người mà có thân định trên tâm mà tâm định trên thân thì
chúng ta mới thực hiện Tứ Như ý túc được. Mà khi thực hiện được Tứ Như ý túc
thì chúng ta phát triển được cái Tuệ lực, cái Tuệ lực của chúng ta. Mà phát
triển được cái Tuệ lực của chúng ta thì những cái Pháp hành nào ở trong cái
Giáo lý của đạo Phật thì chúng ta đều thông suốt hết, không có cái Pháp hành
nào mà chúng ta không thông suốt. Mặc dù ở trong kinh của Phật chỉ đơn giản nói
một vài chữ, nhưng chúng ta đã hiểu được cái Pháp hành đó nó sẽ ở cái mức độ
nào và phải tu tập và quán xét như thế nào để nó thực hiện qua cái Pháp hành.
À, ở đây một lúc nữa
Thầy sẽ trở lại cái Pháp hành thứ 11, tức là pháp Tham hận, còn bây giờ thì
Thầy sẽ trả lời cho quý thầy qua cái chỗ thưa hỏi của thầy Thiện Thuận:
Hỏi:
Kính
bạch Thầy, xin Thầy hoan hỷ hướng dẫn dạy cho chúng con vài câu trạch pháp để
hướng tâm xả các loại Tưởng?
Đáp:
Ở
đây thì Thầy đã từng dạy qua cái bài mà “Tẩu hoả nhập ma”. Vừa rồi Thầy có phân
tích cho quý thầy thấy đó, nó có 16 cái loại Tưởng chứ không phải là 6 loại
Tưởng. Nhưng hôm nay trên bước đường mà chúng ta tu tập, thường thường là chúng
ta gặp sáu cái loại tưởng. Vì vậy mà khi cái người tu nhập được Nhị thiền, diệt
được tầm tứ rồi, mà tiến bước ở trên con đường này để nhập tới Tam thiền, thì
cái quãng đường này để mà nhập được Tam thiền thì sáu cái loại Tưởng này thường
hay xuất hiện, do sáu cái loại Tưởng này xuất hiện làm cho cái người tu khó mà
nhập được Tam thiền. Thường là rơi vào trong các loại tưởng này. Vì vậy mà thầy
Thiện Thuận xin Thầy cho một cái câu pháp hướng để loại trừ, xả các cái loại
Tưởng đó. Do Thầy thấy cái câu hỏi thích nghi, hợp thời, giúp cho những người
tu Thiền sau này. Vì vậy mà Thầy ghi lại cho những cái Pháp hướng này.
1.
Sắc tưởng
Sắc tưởng thì như là
hào quang, ảnh Phật và các hình ảnh Tổ, cũng như là các cảnh giới núi non rừng
rú hoặc là hang động mà chúng ta ở đây mà chúng ta ngồi thiền mà chúng ta thấy
hiện ra những cảnh giới đó hoặc là thấy cảnh cõi trời Đâu Xuất, hoặc là thấy cảnh
Cực Lạc, hoặc là thấy Đức Phật Di Đà, hoặc là thấy hào quang ánh sáng hoặc thấy
hoa sen...v.v. À, tất cả những cái Sắc tướng đó mà trong khi chúng ta ngồi đây
mà chúng ta thấy được những cái hình ảnh đó, thì đó gọi là Sắc tưởng.
“Sắc
tưởng là hình ảnh của ảo giác thể hiện ra không phải là chánh pháp, phải đi đi,
đừng ở trong ta, đừng ngự trị trong khi ta đang luyện tập tu thiền”.
Đó
là cái câu Pháp hướng thứ nhất để chúng ta đuổi cái Sắc tưởng ra khỏi cái nơi
mà chúng ta tu tập, nhưng khi mà chúng ta đuổi nó đi như vậy đó, thì chúng ta
phải hướng tâm:“Sáu cái Thức phải bám chặt vào
tụ điểm, ôm chặt hơi thở, không được tách lìa ra, không được theo sắc tướng đó”.Thì mình phải hướng tâm nhắc nó. Mặc dù là nhắc
Sắc tưởng phải đuổi đi mà cũng phải nhắc tâm mình - sáu thức phải bám chặt tụ
điểm, ôm chặt chứ không khéo sáu thức của mình nó sẽ duyên theo cái Sắc tưởng
mà nó cho đó là đúng, rồi chừng đó chúng ta sẽ lạc vào tà thiền chứ không có
chánh đạo được. Và cũng vì thế mà hầu hết số người mà tu thiền định gặp những
cái nơi này, gặp những cái Sắc tưởng này họ cho đó là cảnh giới mà họ đã đạt
được, rồi họ sẽ rơi vào cái cảnh giới ma chứ không phải là nhập được mà Tam
Thiền.
2.
Thinh tưởng
Về
cái phần thứ hai gọi là Thinh tưởng, là âm thanh do ảo giác sanh ra không phải
là chánh pháp mà là tà pháp. Ta đừng lưu ý đến âm thanh ấy, đây là câu ám thị
đây:
“Thanh
tưởng là một loại âm thanh do tưởng uẩn sanh ra, nó là loại ma khiến ta mất
Chánh định, hãy đi đi. Tâm không được chú ý đến nó, hãy bám chặt tụ điểm
và hơi thở”.
Đó
là cái câu ám thị để chúng ta nhắc để mà chúng ta bám cho chặt cái hơi thở để
mà lìa xa cái âm thanh đó. À, hầu hết là có một số quý sư như nhà sư Ajahn
Chah đã nghe âm
thanh nổ ở trong đầu của mình và nghe những cái trạng thái mà thay đổi ở trong
thân tâm của mình rút vào và nhả ra. Đó là những cái trạng thái thuộc về Thinh
tưởng cũng như là những cái trạng thái đó gọi là Xúc tưởng mà Ngài tưởng đó là
cái chỗ nhập định của Ngài. Cho nên cuối cùng thay vì Ngài tu theo bốn Thiền
của Phật thì Ngài phải nhập Tam Thiền, Tứ Thiền. Đằng này ngài tới đó Ngài
tưởng ngài đã thành tựu được Đạo, cho nên Ngài mới đem ra Ngài quán đi, Ngài
dùng cái quán đi. Và Ngài dạy người ta ở trên cái cuốn sách “Mặt
hồ tĩnh lặng” đó.
Thì Ngài dạy người ta tu Thiền để tự nhiên mà vào mà trong khi Phật dạy chúng
ta:Phảithiện xảo mà nhập Định, mà thiện xảo an trú trong Định, thiện xảo
sống trong Định, rồi thiện xảo xuất Định, chứ không phải để tự nhiên mà vào.Cho
nên qua những cái bài mà Ngài dạy ở trong cái cuốn sách của Ngài và cái hồi ký
tu hành của Ngài thì đương nhiên là Ngài chỉ mới có ở trong cái chỗ là diệt
tầm tứ, chưa được đi qua cái lộ trình của Tam thiền mà Ngài đã
cho rằng mình đã nhập được Thiền định.
Cho
nên đó là cái sai của người sau, không thấy được cái lộ trình của Bốn Thiền nó
rõ ràng và cụ thể. Cho nên cứ tưởng rằng mình đã đạt được. Vì vậy có một nhà sư
ở bên Miến Điện, Ngài tu nương vào cái hơi thở, thấy cái bụng mình phình lên
xẹp xuống rồi cứ theo đó mà nhắc phình lên xẹp xuống. Thế rồi sau thời gian nhiếp
tâm ức chế vọng tưởng bằng cách mà dùng cái hơi thở như vậy rồi Ngài sanh ra
một cái pháp gọi là ‘Minh sát tuệ’, để rồi từ đó hướng dẫn người sau
này cũng chẳng ai biết Thiền định của Phật như thế nào đúng, như thế nào sai?
Bởi vì ngay từ lúc
đầu mà chúng ta tu hành để ly dục ly ác pháp thì chúng ta đã dùng những cái
Pháp quán, chúng ta đã suy tư thấu triệt để dùng những cái tri kiến và đến cái
tri kiến giải thoát để phá dỡ Ngũ triền cái và Thất kiết sử, đặt xuống tất cả
để cho lậu hoặc không còn nữa. Do thế chúng ta mới ly dục, ly ác pháp mà chúng
ta mới nhập được Sơ Thiền.
Chứ
không phải đợi khi mà có Định rồi thì bắt đầu từ cái chỗ hết tầm tứ rồi thì mới
dùng cái pháp quán, điều đó là cái sai của đạo Phật.
Ngay
từ lúc đầu chúng ta đã thân cận bậc Thánh, thân cận các pháp Thánh, thân cận
các bậc Chơn nhơn, thân cận các Pháp chơn nhơn, do đó chúng ta có một cái tri
kiến chúng ta hiểu biết cái pháp của chơn nhơn, cái pháp của bậc thánh như thế
nào? Chừng đó mà chúng ta mới đem những cái Pháp này ra để chúng ta quán trạch
về cái Thân – Thọ - Tâm - Pháp của mình, thân ngũ uẩn của mình, tất cả các Pháp
ở trong thế gian này vô thường, khổ, không, vô ngã như thế nào? Từ đó chúng ta
phát triển thêm cái tri kiến giải thoát của chúng ta, làm chúng ta thấu suốt
được cái lý vô thường vô ngã của nó, cái lý mà khổ của nó rất là sự thật, không
còn sai nữa. Do đó mà chúng ta mới phá dỡ cái lậu hoặc của tâm của mình. Chừng
đó chúng ta mới thấy rằng cái con đường mà quán xét không phải đợi chúng ta
diệt tầm tứ ức chế tâm mình hết vọng tưởng rồi mới là quán xét, không phải điều
đó đâu.
Cho
nên một cái nhà Thiền học ở Trung Hoa, ngài Thiên Thai, ngài mới đẻ ra cái pháp
môn “Lục diệu pháp môn”. Ngài mới nghĩ rằng Sổ, Tuỳ, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh.
Nghĩa là Ngài phải sổ tức để mà ức chế cái tâm của Ngài rồi bắt đầu Ngài nương
theo hơi thở để mà chỉ tầm và tứ. Do đó Ngài được chỉ, từ cái chỗ chỉ đó Ngài
mời quán ra, do đó Ngài cũng đi sai.
Vì do cái sự ức chế
tâm mà quán ra thì chúng ta sẽ trở thành, cái ức chế tâm đó nó sẽ trở thành cái
Pháp tưởng và cái Pháp tưởng quán ra tưởng là mình xong. Không ngờ ngay từ lúc
đầu mà cái vị tu sĩ của đạo Phật, đức Phật đã bảo đi ra cái đồng mã xem cái
thây ma sình hôi thối rồi mới trở về đặt cái niệm thây ma đó trước mặt rồi
tưởng ra, quán cái thây ma đó để mà lật bề trái của cái thân của chúng ta. Cái
thân và cái tâm của chúng ta xem nó là bất tịnh thật sự như vậy. Như vậy làm
cho chúng ta mới xa lìa cái ngã, làm chúng ta mới không còn chấp cái thân này
là thật, cho nên chúng ta mới xả bỏ nó đi, làm cho Lậu Hoặc chúng ta mới quét
sạch.
Chứ đâu phải là Phật
dạy chúng ta phải ức chế tâm cho hết vọng tưởng rồi, chỉ rồi bắt đầu mới quán,
thì như vậy các ngài mới đẻ ra cái Thiền minh sát tuệ này thì đúng. Nhưng mà
bây giờ đẻ ra như vậy là chúng ta đã thấy lệch lạc cái con đường của Phật pháp
rồi. Và thiền sư của Trung Hoa - ngài Thiên Thai cũng đã đi làm lệch lạc mất
cái con đường của đạo Phật rồi, không đúng.
Ngay
từ lúc đầu Thầy sẽ dạy cho quý thầy tu phải đặt cái niệm để mà quán, từ cái
Tỉnh thức để cho quý vị đặt cái niệm nó mơi sáng suốt ra. Nó làm cho quý vị phá
đi từng cái mảnh nhỏ của lậu hoặc ở trong thân tâm của quý vị. Từ đó quý vị mới
có ly dục ly ác pháp. Cho nên tâm quý vị mới được thanh thản, mới được vô sự. Tiến
tới thì quý vị mới tịnh chỉ tầm tứ, mới nhập Nhị Thiền. Ở
đây thì chưa có gì thì quý vị cứ lo tịnh chỉ tầm tứ để nhập Nhị thiền mà trong
khi Sơ thiền thì ê chề. Nhìn cuộc sống của quý vị thì chạy theo dục lạc ăn
uống, một ngày hai ba bữa, ngủ nghỉ thì không đúng giờ giấc. Còn tham ăn tham
ngủ, còn tham Chùa to Tháp lớn. Thì thử hỏi quý vị làm sao mà ly dục ly ác pháp
được, mà gọi là ức chế tâm mình để rồi minh sát ra để làm cho sự giải thoát. Thì
như vậy là đi ngược lại con đường giải thoát của đạo Phật mất rồi, đâu có đúng
cái hạnh của đạo Phật.
Cho nên nhìn chung,
Phật giáo trên thế giới bây giờ không có ai chứng đạt được sự giải thoát thực
sự là tại vì sống không đúng cách, sống không đúng cách của giới hạnh của Phật,
của giới đức của Phật. Cho nên cái người tu nó đã lệch mất, vì vậy mà con đường
giải thoát nó cũng bị chôn vùi.
Do cái sự Thinh
tưởng này mà người ta tưởng mình đã chứng Đạo, do ngồi Thiền nghe âm thanh,
nghe trong đầu có tiếng nổ, nghe cả vũ trụ này như tan tành. Tất cả những cái
sự thay đổi trong thân của chúng ta trong thân của chúng ta như là vừa rồi như
thầy Thiện Thuận có nói là nó sôi lụp bụp ở trong thân, nó sôi lụp bụp như vậy,
tất cả những cái điều này hoàn toàn thuộc về Thinh tưởng.
Khi
mà chúng ta nghe có những cái tiếng động mà trong thân của chúng ta xảy ra điều
này, thế kia thì chúng ta biết nó là Thinh tưởng. Khi ngồi thiền nhiếp tâm
không còn vọng tưởng mà lại nghe cái tiếng động ve ve trong tai chúng ta, hoặc
nghe tiếng đức Phật Quán Thế Âm dạy pháp chúng ta phải tu như thế này, phải
phản văn tự tánh như thế kia, thì cái này toàn là cái loại ma, không phải thật
là Quan Âm hay là Tổ hay là ai dạy chúng ta hết, đó toàn là Thinh tưởng, do cái
Tưởng, cái Thinh tưởng của chúng ta mà phát ra âm thanh đó mà thôi, chúng
ta hãy dẹp đi.
Có nhiều người họ
lại còn dùng cái Pháp tưởng họ ngồi im lặng rồi họ đặt một cái câu kinh nào đó
mà họ không hiểu, họ mới tự hỏi vậy câu kinh này cái nghĩa như thế nào? Rồi họ
ngồi im lặng đó, bắt đầu từ ở trong cái Pháp tưởng xuất hiện ra, do đó họ hiểu
được cái lý của câu này hoặc là Công án của câu đó. Do đó họ nói rằng họ đã ngộ
và có một cái trí tuệ. Đây là cái trí tuệ ma, cái trí tuệ của Pháp tưởng, chứ
không phải là của cái người mà có trí tuệ thật của đạo Phật.
Đó
thì gặp cái trường hợp mà Thinh tưởng đó, thì quý thầy dùng cái pháp này mà
đuổi nó đi, tống cổ cho nó ra khỏi, đừng có theo nghe âm thanh đó mà ngồi đó mà
hưởng cái âm thanh đó thì nó sai. Đừng có cho âm thanh đó là đúng mà đó là cái
loại ma mà chúng ta cần phải vượt qua. Vì vậy mà Phật gọi là “ly hỷ mà trú xả”. Bây giờ chúng ta trú xả là trú ở đâu?
Tức là chúng ta phải trú ở cái hơi thở của chúng ta để mà bám chặt đó để mà
vượt qua tất cả những cái trạng thái mà trạng thái xảy ra của sáu cái loại
Tưởng này. Nó làm cho mỗi trạng thái đến, nó làm cho chúng ta có cái tâm vui
mừng ở trong đó. Vì có những cái sự vui mừng đó, cho nên Phật gọi là ly hỷ, ly
cái trạng thái mừng đó, tức là Sắc Thinh Hương Vị Xúc Pháp đó, chứ không phải
ly cái mừng mà ly cái trạng thái Tưởng đó, cái trạng thái nó làm cho chúng ta
có cái niềm vui mừng ở trong đó. Cho nên đức Phật gọi là ly hỷ mà nhập Tam
thiền. Đó, mà ly hết cái trạng thái này thì chúng ta đã nhập Tam thiền. Còn nếu
mà ly chưa hết thì chưa có nhập Tam thiền. Cho đến khi mà chúng ta ly, ly đến
cái mức cuối cùng mà chúng ta không còn chiêm bao nữa thì như vậy đó là chúng
ta mới trọn vẹn mà nhập Tam thiền. Còn một người tu sĩ mà còn chiêm bao thì
đừng có mong mà rớ tới Tam thiền.
3.
Hương tưởng
À, Bây giờ chúng ta
tiếp tục tới cái Hương tưởng. Hương tưởng là một cái loại mùi thơm của Tưởng
uẩn sanh ra, nó không phải là chơn pháp, toàn là tà pháp. Người tu sĩ cần phải
đề cao cảnh giác và dùng Pháp hướng, để mà tiêu diệt nó, để mà dứt trừ nó. Một
cái người ngồi thiền ở xung quanh chúng ta không có cái mùi thơm, không có một
cái bông hoa nào hết, bỗng nhiên nghe cái mùi thơm phảng phất, rồi chúng ta
nói: à, như vậy thì mình nói chắc có lẽ là có Chư thiên rồi, có Phật xuống
chứng rồi, cho nên mình ngồi thiền không có vọng tưởng đây chắc là có trời Phật
có Chư thiên xuống chứng minh rồi đó. Cho nên cái mùi thơm này là mùi thơm của
Chư thiên đây, do cái chỗ đó là cái chỗ bị ma gạt chúng ta rồi. Cho nên nghe
cái mùi thơm mà ở đây không có hoa, không có bông, không có nước hoa, không có
gì hết mà lại có mùi thơm này, thì chúng ta biết đó là cái Hương tưởng.
Cho nên chúng ta
cảnh giác, từ đó chúng ta bám chặt cái tụ điểm hơn và nương vào cái hơi thở
mạnh hơn để không cho cái tâm của chúng ta duyên qua cái mùi thơm đó. Vì cái
mùi hương đó nó sẽ tác động làm cho tâm chúng ta duyên theo nó, mà làm cho
chúng ta mất Định đi, do vì vậy mà nó dẫn chúng ta đi vào một cái Định của
Tưởng, không còn là ở trong cái Định chơn thật của cái Định mà chúng ta đang tu
tập. Đây là cái câu trạch pháp:
“Hương
tưởng là mùi thơm của ảo tưởng sanh ra khiến tâm ta mất chánh định, hương tưởng
hãy đi đi, tâm không được chú ý theo nó, hãy bám chặt vào tụ điểm và hơi thở,
nhất là tỷ thức (lỗ mũi) phải nằm yên lặng, không có được nghe cái mùi hương đó
nữa”.
Chúng ta phải hướng
tâm mà nhắc nó và đồng thời cũng kêu gọi cái tỷ thức của chúng ta phải nằm cho
yên ở trên cái tụ điểm, và đồng thời khi mà chúng ta hướng tâm như vậy mà không
nghe cái mùi hương nữa, tức là chúng ta đã chiến thắng được cái loại ma đó rồi.
Đó, như vậy là chúng
ta đã thành tựu được, đuổi được cái loại ma này, còn nếu không thì chúng ta bị
nó dẫn chúng ta đi, nó xỏ mũi chúng ta đi.
4.
Vị tưởng
Thứ
tư là Vị tưởng, là do một vị ngon ngọt xuất hiện nơi vị căn của chúng ta, đây
là một loại ảo giác tà pháp, không phải là chánh pháp, ta hãy xa lìa, không nên
lưu ý nó.
Có nhiều người nói
tôi ngồi thiền bắt đầu sao tôi ra nước miếng (nước bọt) mà nuốt vào sao nghe nó
ngọt, nó ngọn như nước Cam lồ vậy. Có lẽ là hôm nay ta tu nó sanh ra Cam lồ
rồi. Nuốt ba cái thứ này vô chắc có lẽ nó trường thọ đó, cho nên ráng mà nuốt
nước miếng, nuốt riết cho nên cái bụng chang bang ra, mà cuối cùng thì nó chẳng
phải là cam lồ gì hết, mà ba cái Vị tưởng mà nó xuất hiện. Cho nên cái vị này
ngồi riết, ngồi riết rồi nuốt ba cái nước miếng dơ bẩn đó mà đầy bụng của mình,
tưởng là ngon, nhưng mà cuối cùng thì bị cái ma cái Vị tưởng này nó đã gạt
lướt.
Cho nên cuối thì
cũng có nhiều người về đây nói với Thầy, sau cái thời gian mà con ngồi con tụng
kinh Pháp Hoa, sao lại có lúc nước miếng ở trong con, con nuốt sao nghe nó ngọt
quá chừng. Như vậy là trong kinh Pháp Hoa nói là Cam Lồ đã xuất hiện rồi, người
mà tụng kinh Pháp Hoa đến cái mức mà cái nước miếng ngọt. Đó là cái người đó
sắp sửa được sanh về cái cõi trời hoặc là cái cõi Phật nào đó chứ không phải là
còn thường nữa. Đó là những cái vị mà người ta đã tụng kinh Pháp Hoa mà người
ta đã có những cái kết quả đó. Còn gặp Thầy thì cái loại này là cái loại ma, nó
gạt người ta chứ chưa có thực sự là được sanh lên cõi nào hết. Cho nên cuối
cùng thì những vị này, khi mà bỏ thân họ, Thầy thấy dường như họ cũng quá đau
khổ, không có cái sự giải thoát nào, cũng không có sự làm chủ nào cho cái sự
tưởng tượng của họ như vậy.
Cho nên ở đây chúng
ta phải dùng cái câu pháp hướng này để mà trị cái Vị tưởng:
“Vị
tưởng là một ảo giác sanh ra ngon ngọt nơi lưỡi khiến cho chúng ta thích thú,
ưa mến, khiến cho ta mất Thiền định. Vì thế Vị tưởng hãy đi đi, tâm ta không
được lưu ý đến nó nữa. Hãy bám chặt tụ điểm và hơi thở, không được lơ lỏng theo
Vị tưởng”.
Đó là chúng ta phải
ra lệnh và cấm sáu thức của chúng ta phải bám cho chặt, không có được theo cái
chỗ đó nữa. Mặc dù bây giờ nước miếng chúng ta đang tiết ra cái mùi ngon ngọt
như thế nào chúng ta cũng chẳng lưu ý đến nó nữa. Đó là cái phần mà chúng ta
diệt cái Vị tưởng. Đó là cái phần thứ tư.
5.
Xúc tưởng
Xúc tưởng là phần
thứ năm, là một cảm giác khinh an hỷ lạc, khiến ta thích thú ưa mến và khiến ta
mất Định. Xúc tưởng là một loại tà pháp gây mê thích say đắm cho người tọa
thiền. Cho nên cái người mà gặp cái trạng thái hỷ lạc hay khinh an thì họ
thường là nhúc nhích thân, họ động hoặc là ngước ngước lên như này, hoặc là họ
động cúi cúi xuống như này. Mỗi lần mà có cái hành động ngước lên hay cúi xuống
như vậy đó, họ nghe cái trạng thái nó làm cho thích thú họ. Tức là một cái
người tu thiền mà gọi là ly dục mà sanh hỷ lạc thì không có nghĩa là có một cái
trạng thái nào thích thú nào ở trong đó hết thì mới gọi là ly dục. Còn cái này
nó làm cho chúng ta thích thú, làm chúng ta thấy nó sảng khoái, êm ả, làm chúng
ta rất là ham thích. Mỗi lần ngồi thiền mà có những cái trạng thái đó thì chúng
ta nói khoái thiệt, ngồi thiền như vậy là thích thiệt. Vậy thì thôi đi ra tiệm
kia ăn hủ tiếu đi cho nó còn thích hơn, còn sướng hơn là ngồi thiền. Ngồi thiền
chi cho đau chân mà đi tìm cái chuyện cực khổ như vậy.
Cho nên ở đây Thầy
nói thực sự ở thế gian người ta cũng có những cái dục lạc như vậy. Mà bây giờ
ngồi thiền mà cứ đi tìm cái đó, thì cái người này thiệt là chưa có biết cái chỗ
mà ly dục, ly ác pháp để mà chúng ta có một cái trạng thái do ly dục sanh cái
hỷ lạc. Cái hỷ lạc của những bậc Thánh, của những bậc chơn nhân thì nó đâu phải
là cái hỷ lạc của cái phàm phu tục tử như vậy. Ngồi đó mà gục gù gục gù cũng
như con cu mà gáyđể mà thưởng thức những cái an lạc đó thì có thấm nhò gì với
cái chuyện mà ở đời người ta chạy theo cái dục lạc thế gian đâu. Người ta uống
cái ly rượu người ta cũng gật gù, người ta hút cái điếu thuốc người ta cũng gật
gù, người ta kéo một cái điếu thuốc phiện người ta cũng gật gù người ta cũng
sảng khoái người ta, thì mình ngồi thiền cũng gật gù gật gù thì thử hỏi có phải
giống như vậy không?
Cho nên có một nhà
sư viết ở trong một cái bài báo làm cái người ngồi thiền cũng như là một cái
người mà hút thuốc phiện, nó cũng là sảng khoải như vậy hết, thiền nó cũng
thích thú như vậy. Thiệt ra đó là cái thứ thiền dục lạc, cái thiền tà chứ đâu
phải cái thiền của Phật. Thiền của Phật thì phải ly tất cả những trạng thái làm
chúng ta thích thú đó chứ. Thế mà vị Thiền sư đó cũng gọi là Thiền, thì thật ra
cả thế giới đăng cái bài báo đó mà Việt Nam chúng ta cũng trích dịch ra mà đăng
trong cái báo Giác Ngộ. Thầy đọc Thầy thấy mắc tức cười, cái chuyện mấy ông
thiệt là chưa biết thiền định, cho nên ông này đạp cứt thì ông nào ông nấy cũng
đạp theo thối cả đám hết mà không thấy thối.
Đó là cái sai, mà
cái sai của người này dẫn dắt tới người kia cũng là cái sai, tưởng đâu là ngồi
thiền cũng như hút thuốc á phiện vậy đó. Khoái như vậy đó, lâng lâng cũng như
đi vào cõi tiên như vậy đó, thì cái đó là cái tầm bậy. Ở đây là bị cái Xúc
tưởng hỷ lạc sanh ra những cái trạng thái điên khùng đó cho nên tưởng đâu là
đúng. Ai ngờ đâu chỉ ức chế tâm không vọng tưởng rồi bắt đầu từ đó nó sanh ra
những cái trạng thái điên khùng đó. Chạy theo những cái tâm ham muốn phàm phu
tục tử chứ đâu phải là thiền của những bậc Thánh.
Cho nên ở đây chúng
ta nên làm cái câu pháp hướng này để mà chúng ta đuổi cái Xúc tưởng này ra khỏi
cái tâm chúng ta để chúng ta tiến tới con đường nhập Tam thiền:
“Xúc
tưởng là một loại hỷ lạc ma, ta hãy đuổi nó đi ra khỏi tâm ta, xúc tưởng hãy đi
đi ta không chấp nhận ngươi. Ta phải bám chặt tụ điểm và hơi thở đoạn dứt chúng
tức khắc, không được theo trạng thái này nữa”.
Đó thì chúng ta phải
dùng pháp hướng đó và nhắc cái tâm của chúng ta. Thỉnh thoảng chúng ta còn nghe
cái cảm giác hỷ lạc, cái thân chúng ta còn hơi rung động theo cái kiểu gật gù
cũng như người hút thuốc phiện cũng như cái thằng uống rượu mà nó gật gù gật gù
cái kiểu nó thấy thích thú đó, thì chúng ta cũng nên chấm dứt cái đó đi. Còn
không thì đứng dậy mà đi kinh hành chứ đừng có ở đó mà thưởng thức theo cái
kiểu thế gian đó.
6.
Pháp tưởng
Sáu là Pháp
tưởng.Đây là cái Pháp mà hầu hết là thiên hạ vỗ ngực xưng tên tưởng mình là
tiểu ngộ, đại ngộ đây, đó là cái Pháp tưởng đây. Pháp tưởng là một cái loại tà
pháp do tưởng giải tạo ra, người ngu si mê muội cho đó là trí tuệ phát triển,
nên ngộ lần lần những câu kinh tưởng, những câu công án của thiền Đông độ. Họ
cho sự hiểu biết đó là tiểu ngộ, khi nào họ ngộ hết những công án là họ cho đó
là triệt ngộ. Không ngờ họ bị Pháp tưởng lường gạt, biến họ thành ma hí luận
trong đạo Phật.
Bởi
vì những cái này đều là họ dùng những công án họ hỏi tới hỏi lui họ hét họ la
như Lâm Tế chẳng hạn. Họ bị cái ma hí luận của họ rồi, bởi vì Phật nói đó là
cái thứ hí luận nói cái này nói cái kia làm như là Trời là Phật vậy đó. Coi như
người ta không hiểu, biết cái ý mình muốn gì hết. Chứ sự thật ra cái điều đó là
cái điều hí luận ở trong cái đạo Phật, đức Phật đã chỉ cho chúng ta biết. Cái
điều đó là cái điều giả dối gạt người chứ không phải thật là cái chỗ Phật pháp. Cái
chỗ Phật pháp phải đơn giản, cụ thể, thực tế; biết áp dụng vào là có sự giải
thoát ở nơi thân tâm của người ta.Chứ đâu phải hí luận trên
trời mây xanh đó, mà để la, để hét, để đập, để bằng những cái lời mắng đó để mà
nói những ý gì sâu xa ở trong đó, gọi là Phật, gọi là pháp, gọi là Thánh gì ở
trong đó. Đó là những cái lí luận của những kẻ hí luận chơi, chứ không phải là
cái chỗ giải thoát.
À, thuyết giảng mơ
hồ, đời sống thì phá phạm hạnh, phạm Giới luật, họ thì họ nói triệt ngộ, họ nói
công án này công án kia. Họ thầy trò đối đáp nhau như là, coi như là không có
cần mà phải dùng cái trí suy nghĩ. Người này nói người kia đáp, kẻ hỏi đông
người đáp tây, kẻ hỏi bắc người đáp nam. Nó không ăn nhập vào đích mà thế mà họ
cười họ nói đó là ngộ đạo. Bảo họ xách cái thùng thì họ xách cái rổ, gọi là vô
phân biệt. Tất cả những cái này, nhìn vào cái đời sống của họ thì họ hí luận
cái kiểu làm cái trò cười cho thiên hạ như vậy. Thế mà cái phạm hạnh của họ thì
phạm giới luật, ngày thì ăn phi thời, tối thì ngủ ngáy khò khò chẳng có lo gì
là giải thoát. Sống thì ở trên nhung lụa, sang cả như những nhà giàu có, thì
nhìn cái cuộc sống của họ qua cái hí luận của họ thì chúng ta đã biết họ thuộc
cái loại có giải thoát hay là không giải thoát. Ăn, uống, ngủ nghỉ, danh lợi,
sắc họ không có bỏ một cái thứ nào hết trong năm thứ dục lạc của thế gian.
Pháp
tưởng là thứ pháp tà ác, độc hại đã lường gạt người mà còn lường gạt chính bản
thân của người ngộ Pháp tưởng. Nghĩa là chính cái người ngộ Pháp tưởng đó,
tưởng mình là Thánh rồi, tưởng mình là Phật rồi tưởng mình thấy Phật tánh được
rồi, tức là kiến tánh thành Phật được rồi. Nhưng mà cuối cùng thì thật sự ra họ
chẳng có làm chủ được cái sống chết của họ chút nào được hết. Cho nên đến giờ
phút ra đi thì ngài Thường Chiếu, Ngài cũng đã nói: “Ta
chết như người thường chứ không thể nào mà như người khác được”.Ngài
Pháp Loa khi sắp sửa chết Ngài rên hừ hừ hừ, ngài Huyền Quang mới hỏi: “Sao Hòa
Thượng lại rên vậy? ” Thì Ngài biết nói làm sao cho đỡ mắc cỡ đây, nói: “Gió
thổi qua khe trúc”. Gió
thổi qua khe trúc là tại gió thổi qua cái bụi trúc, hai cây trúc nó nghiến nhau
nó kêu chứ ông đâu có đau. Không đau mà rên à? Không có thọ, không tưởng mà rên
được sao? Cái điều đó là cái điều che mặt người ta, lấy vải thưa che mắt Thánh.
Chứ nếu mà không thọ thì ai làm sao rên, còn ông có thọ ông mới rên chứ, còn
gió thổi qua cái bụi trúc làm sao có thọ ở trong đó. Mà hai cây trúc nó cọ nó
kêu két két, thì ông cũng nói giống như ông rên cũng giống như là hai cây trúc
kêu như vậy. Thì đó là ông che mặt người ta chứ, đâu có thực. Cho nên làm chủ
được thì nói làm chủ, không làm chủ được thì nói không làm chủ, đừng có gạt
người sau, để bịt con mắt người ngu chứ còn người trí thì không thể nào gạt
được. Đó là những cái hình ảnh mà các Tổ Sư gọi là ngộ, mà cuối cùng trong cuộc
đời của họ rất là đau khổ.
Pháp
tưởng là một tà pháp, ở đây là câu trạch pháp đây:
“Pháp
tưởng là một tà pháp không phải trí tuệ chơn thật của người tu sĩ chơn chánh.
Nó là một loại ma hí luận, tranh chấp hơn thua cao thấp. Phải xa lìa nó, không
chấp nhận nó. Pháp tưởng hãy đi đi, ta không tin ngươi là trí tuệ của đạo Phật.
Ngươi hãy đi đi.”
Đó là chúng ta hãy
đuổi nó đi, nó không phải trí tuệ của đạo Phật đâu. Cho nên cái người mà đã ngộ
cái lí thiền, đã thấy Phật tánh luôn luôn họ gặp với nhau họ rống cái họng họ
lên, họ nổi cái gân cổ họ lên họ cãi với nhau, họ tranh hơn tranh thua với
nhau, không có chịu thua ai hết. Họ thậm chí như thấy cái người giữ Giới luật
họ nói là cố chấp, họ còn chê bai người ta nữa. Nhưng mà họ có sống được không?
Họ chưa ăn một bữa được, họ thấy người ta ăn một bữa họ nói cái đó là chấp
giới. Rồi có nghe người ta nói cái người đó nhập được Định, làm chủ được cái
sống chết nhập Tứ thiền tịnh chỉ được hơi thở, thì họ bảo rằng sở đắc. Người ta
tu hành vô sở đắc còn cái thứ tu sở đắc đó mà ra cái gì.
Đó
là những cái người ta khinh bỉ, khi một kẻ mà người ta làm được, mình chưa làm
được thì mình lại, do là mình khinh bỉ. Cũng như cái ngài Hoàng Bá đi với một
vị tu sĩ, khi vị tu sĩ đó đi ở trên mặt nước đi qua sông. Khi qua sông rồi thì
vị đó mới quay lại kêu Hoàng Bá: “Anh hãy đi qua bên đây với tôi”. Ông này đâu có dám lội xuống,
lội xuống uống nước chết sao, cho nên nói: “Tôi biết anh mà đi được trên (mặt nước) tôi chặt chân anh rồi.” Thì ông này quay lại ông cười
mũi mà ông khen một cách rất là mỉa mai: “Thiệt là, anh là pháp khí Đại Thừa chứ Tiểu Thừa thì chắc chắn là
tụi tôi phải đi ở trên nước được. Còn anh là pháp khí Đại Thừa không dám thọt
chân xuống, sợ thọt chân xuống uống nước.”
Đó
rõ ràng mà, cái câu chuyện này thật sự chứ đâu phải không. Ông đâu dám thọt
chân xuống, sợ nó lút xuống dưới uống nước chết đi. Cho nên mới nói tôi biết
anh bước vậy tôi chặt chân anh hồi nãy rồi. Ông này mới nói: “Thiệt
là anh pháp khí Đại Thừa chớ còn người thường thì hông có dám vậy đâu”. Đúng
vậy đó, thật sự là mình tu chẳng ra gì hết, nói cái họng của mình thật là pháp
khí Đại Thừa, khí đó thật là khí ở trên mây xanh chứ không phải khí ở dưới đất.
Đó
là hôm nay Thầy nói như vậy để chúng ta biết những cái Pháp tưởng nó nguy hiểm
lắm, mà cái người nào mà lọt trong cái vòng này, rống cái họng mà tranh với
nhau dữ lắm chứ không phải thường đâu. Còn chúng ta là những người tu theo Phật
phải tránh những cái hí luận này, ai có nói hơn nói thua gì, thì thôi chắp tay,
tôi thua chứ tôi không có hơn đâu, tôi ráng mà tôi giải thoát cái tâm của tôi
đây mà còn không được. Cho nên có lần Thầy về Thường Chiếu, các thầy bảo Thầy
thị hiện thần thông Thầy nói:“Tôi tu hơi thở chưa xong ở đó
thần thông gì? Hơi thở tôi nhiếp còn chưa hết, ở đó mà thần thông cái khỉ gì mà
thần thông. Bởi vì tôi thua mấy ông hết rồi, tôi chỉ có nương hơi thở thôi, còn
mấy ông thì hí luận quá trời rồi”. Thành ra, do đó mà Thầy chịu thua quý
thầy hết. Vậy mà không có hí luận với ai hết.
Đó là một con đường
tu tập, do vì vậy mà quý thầy phải sáng suốt để lìa xa sáu cái loại Tưởng này.
Sau khi mà dạy đến tất cả những cái loại Tưởng khác Thầy sẽ nhắc nhở, vì thời
gian chúng ta không còn có nhiều, cho nên chúng ta phải ráng mà cố gắng để học
cho nó hết cái giới hành. Cái giới hành là 37 phẩm trở đạo và từ một pháp cho
đến mười pháp, từ mười pháp cho đến trăm pháp mà Phật đã dạy chúng ta phải tu
tập phải trau dồi phải dứt bỏ, phải tác chứng những cái pháp đó. Nó quá nhiều
pháp. Cho nên đến đây mà chúng ta lấy thân mà niệm pháp đó, tức là lấy thân
sống tùy nương theo pháp để sống đúng, nó không phải đơn giản đâu.
À, bắt đầu bây giờ
chúng ta lấy pháp mà niệm Phật đây.
11.
Pháp tham hận
Cái
pháp niệm Phật thứ 11,là pháp Tham
hận. Hận là lòng căm giận oán hờn sâu sắc đối với kẻ đã làm hại mình.
Hận là giận hoài không nguôi, ôm ấp trong người, thấy cái người hại mình, sanh
ra căm tức và oán ghét, thấy không muốn nói chuyện, không muốn gần họ. Hận là
một pháp rất ác khiến cho người ôm hận phải triền miên, phải tùy miên là liên
tục ở trong lòng của mình luôn luôn nó không có lúc nào có khoảnhkhắc nào
màchúng ta an vui được mà tìm mọi cách mà để hại người đó cho được,
giết người đó cho được, phải rửa hận mới được, mới thấy được an vui, chứ còn
không thì nó còn tùy miên ở trong đó, nó kéo dài dài cái hận hoài ở trong lòng,
đau khổ mãi mãi trong tâm, không nhớ thì thôi mà nhớ đến thì căm tức vô cùng.
Nghĩa là lăm lăm chờ cái ngày nào đó mà rửa hận, nghĩa là hận nước thù nhà. Hận
nước là bây giờ thí dụ đất nước của mình bị ngoại xâm nó cướp đi, nó đè đầu
cưỡi cổ từng người dân của mình đi. Cho nên đó là mình hận nước. Còn thù nhà là
giặc nó vô nó bắt gia đình, vợ con mình hoặc là cha mẹ mình, nó đem nó bắn nó
giết đi. Đó là thù nhà. Do thù nhà này tôi mới đi đánh giặc, tôi mới đuổi giặc
nó ra khỏi nước. Thì từ cái chỗ cái duyên đó mà có thể chữ “thù” này nó nằm ở
chỗ cái cá nhân của mình, giúp người nào đó làm hại mình. Cho nên, từ đó cái
tâm của mình nó luôn luôn ôm ấp cái sự trả thù, cái sự hận thù, cái sự căm tức
nó không bao giờ rời. Cho nên cái pháp này mà nó đến với chúng ta, nó làm khổ
chúng ta vô cùng, nó không bao giờ rời chúng ta khỏi nửa bước nữa.
Khi pháp hận này đến
với tâm ta, ta phải lấy pháp này niệm Phật, pháp này gặp Phật thì tan vỡ ngay
liền. Vì tâm Phật không bao giờ có hận thù ai. Hiểu biết như vậy tâm ta không
còn hận ai hết và xả sạch. Đó là chúng ta bắt cái pháp mà hận ở trong tâm của
mình đó, bắt nó niệm Phật. Thì chúng ta đã biết ông Phật thì không bao giờ mà
hận thù, thậm chí như Đề Bà Đạt Đa đã nhiều lần tìm cách hại Phật, nhưng mà
Phật cũng không bao gời hận thù ông ta chút nào hết. Muốn được vậy chúng ta
phải trạch pháp câu này, dùng làm pháp hướng Như lý tác ý:
“Hận
thù là một pháp cực ác, khiến tâm ta luôn luôn bất an và căm ghét. Ta phải từ
dã, viễn li, dứt bỏ không được mang nó ở trong lòng, trong tâm ta.Lòng hận hãy
đi đi, hãy xa lìa nơi tâm ta vĩnh viễn.”
Đó là chúng ta làm
pháp hướng rồi dùng cái lực của tinh thần đuổi nó đi, để từ cái chỗ mà chúng ta
có những cái hận ở trong lòng của chúng ta, thì chúng ta đuổi nó ra khỏi cái
lòng của chúng ta. Chứ không để cho nó ở trong lòng của chúng ta.
12.
Pháp tham thù
Số
12 pháp Tham thù,đây là pháp
thù. Thù là một lòng căm ghét sâu sắc đối với kẻ đã từng gây hại lớn cho mình,
kèm theo ý muốn nung nấu bất kể, đó phải chịu sự trừng phạt tương ứng. Bởi vậy
pháp thù đến với tâm ta khiến cho ta ăn ngủ không ngon, ngày đêm trằn trọc thân
tâm chẳng an, tâm hồn rầu rầu buồn bã. Khi gặp pháp này ta bắt nó niệm Phật,
pháp này đến với Phật, tâm Phật bất động không căm ghét thù oán ai cả. Vì các
pháp đến mà niệm Phật, thì pháp nào nó cũng trở thành pháp lành. Cho nên chúng
ta biết lấy pháp mà niệm Phật, làm cho tâm của chúng ta theo đó mà nương, thì
tâm của chúng ta rất an. Vì trước khi lấy các pháp mà niệm Phật, thì chúng ta
đã có lấy tâm niệm Phật rồi. Cho nên chúng ta biết cái tâm của chúng ta sẽ an
ổn trước các pháp khi nó đã đến với chúng ta. Vì thế lấy pháp này mà niệm Phật
thì tâm ta cũng không căm ghét ai, thù oán ai. Ta sống thanh thản nhẹ nhàng, an
vui lúc nào cũng với lòng từ ban rải khắp cùng mọi loài, mọi chúng sanh. Mọi
muôn phương, không thù, không hận, không oán, không ghét. Đó mới gọi là người
tu sĩ theo đạo từ bi. Muốn được vậy ta phải trạch pháp câu này dùng làm pháp
hướng Như lý tác ý:
“Thù
là một pháp cực ác khiến cho tâm ta bất an, khổ sở vô cùng, lúc nào cũng tìm
cách trả thù, đầu óc tối tăm không còn sáng suốt phân biệt đâu thiện, đâu ác,
đâu chơn, đâu giả, do thế tâm càng khổ sở hơn. Thù là một pháp ác, hãy đi đi ra
khỏi nơi tâm ta, đi đi không được ở nơi đây nữa”.
Đó là cái pháp
hướng, trước tiên chúng ta hướng để nhắc rõ được cái lí của nó, sau đó chúng ta
đuổi nó, không được cho nó ngự trị ở trong tâm mình, để mãi mãi ôm ấp sự đau
khổ cho mình.
13.
Pháp thương
Đó
là hận thù rồi, bây giờ tới cái pháp thương,pháp thương này còn
khổ nữa. Pháp hận thù chứ coi vậy nó không khổ, chứ pháp thương này lải rải
vậy, chứ nó làm chúng ta khổ rất nhiều.
Pháp
thương là một pháp cực ác khiến cho người ta thương nhớ khóc thương khóc than,
có thể đi đến chỗ chết. Như một người mẹ mất con, người mẹ khóc suốt ngày này
sang ngày khác, không còn muốn ăn uống gì hết. Người con mất cha mẹ cũng vậy,
cũng khóc từ ngày này sang ngày khác. Pháp thương đến với loài người không kẻ
nào không khổ sở. Pháp thương còn độc hại hơn là pháp sân, pháp hận, pháp thù. Pháp này đến với loài người từ già chí
trẻ, ai ai cũng bị nó lôi xuống địa ngục sầu khổ. Khi chúng ta cách xa những
người thân, thì pháp thương khởi dậy, làm cho tâm ta bất an ngay trong tâm hồn.
Pháp
thương rất độc ác nó độc hơn tất cả các pháp khác, nó diệt trừ tâm hồn con
người nhanh hơn tất cả các pháp khác.Khi gặp pháp này bắt nó niệm Phật ngay, vì
đức Phật ngày xưa xa vua cha vợ con và những người thân của mình, sáu năm trời
khổ hạnh trong rừng già, Ngài chẳng hề thương nhớ đến gia đình của mình. Ngài
chẳng hề để tâm đến gia đình của mình, Ngài chẳng bao giờ nhớ đến cha già, vợ
yếu, con thơ nay đã ra sao. Cho đến khi chứng đạo quả viên thành đầu tiên Ngài
cũng lo nghĩ đến chúng sanh, không biết có đủ duyên theo Pháp của mình mà tu
hành không? Rồi Ngài tìm người trao Pháp, Ngài nhớ đến hai vị thầy của mình,
nhưng hai vị này vừa qua phần. Rồi Ngài nghĩ đến năm người bạn đồng tu khổ hạnh
đó là năm anh em Kiều Trần Như ở vườn Nai, Ngài nghĩ xong liền đến đó độ năm
người này. Sau đó Ngài tiếp độ những người khác mà chẳng hề nói Ngài trở về
thăm vua cha và vợ con. Cho đến khi vua cha được tin Ngài thành Chánh giác,
đang độ người tu hành, thì vua cho nhiều đoàn sứ giả đến thỉnh Ngài về, Ngài
cũng chẳng về và độ tất cả các đoàn sứ giả tu hành. Mãi sau cùng, đức vua mới
phái một đoàn nữa đến và căn dặn đoàn sứ giả đến rồi phải trở về báo lại cho
nhà vua biết. Đoàn sứ giả cuối cùng đến thỉnh Phật, Ngài mới hứa khả trở về
thăm và chờ đủ duyên tu hành của triều đình, lúc bấy giờ Ngài mới trở về. Do
thế chúng ta mới thấy được lòng thương nhớ nhỏ mọn ích kỉ con người thân ruột
thịt của Đức Phật không còn nữa. Lòng thương ấy bây giờ bao la rộng lớn, không
phải còn thương vợ, thương con, thương cha, thương mẹ, thương anh em ruột thịt,
mà thương tất cả không phân biệt sang hèn nghèo đói, không phân biệt giai cấp
nào hết, bình đẳng mà thương tất cả mọi người.
Đó thì quý thầy thấy
rõ như ông Phật khi mà chứng đạo, thay vì chúng ta chứng đạo xong thì lo nghĩ
về thân già của mình như thế nào? Cũng như một người học trò mà đậu xong rồi,
thì mình về mình thăm gia đình của mình chứ gì? Thăm nhà, thăm cha, thăm mẹ,
thăm vợ con mình chứ gì? Đằng này không, ông Phật tu xong rồi chứng đạo rồi,
thì tìm người để mà dạy người ta chứ không có nghĩ về thăm vợ thăm con. Ông này
chắc bộ Ông không còn tình cảm gì hết. Ông này chắc Ông tu riết, nên cái tình
cảm Ông tiêu hết rồi. Nhưng sự thật ra từ khi bắt đầu đi, cho đến khi mà thành
đạo, thì chúng ta cũng chẳng thấy trong kinh nào mà đức Phật nhớ lại vợ con
hoặc cha mẹ mình hết. Trong khi khổ hạnh trong rừng gần chết, thay vì những
phút gần chết, thì người ta lại nhớ đến gia đình dữ lắm. Nhưng mà lúc mà đức
Phật ăn khổ hạnh đến cái mức độ mà ngồi không nổi nữa, lúc bấy giờ mệt nhọc đến
cái mức độ vậy đó, mà Ngài cũng vẫn không thấy nghe nói Ngài nhớ lại cha mẹ
hoặc này kia. Nhớ lại hồi đó, nếu mình mà vầy thì mẹ mình hoặc vợ con hoặc cha
mẹ hoặc những người phải bồng ẵm, phải lo cơm lo nước này kia. Những cái kỷ
niệm đó chắc chắn nó phải trở về với Ông ta. Nhưng mà trái lại, Ông nằm đó mà
Ông không nhớ ai hết. Có lẽ là lúc bấy giờ Ông như cái ngọn cây rồi chứ còn gì
nữa. Nhưng mà sự thật đó là cái hình ảnh để giải thoát hoàn toàn. Nếu mà còn
một chút xíu nào mà dính mắc tình cảm của chúng ta đối với gia đình, đối với
những người thân đó, chắc chắn là chúng ta khó mà có thể giải thoát.
Chúng
ta phải hiểu được ý nghĩ của những bài kinh mà nói đến cái đời sống của đức
Phật, tức là nói đến cái đời sống của chúng ta sau này sẽ tu tập, phải dứt trừ
tận gốc như vậy. Cho nên Đức Phật nói: “Sanh đã tận thì phạm hạnh mới xong”. Sanh đã tận
là tức là những gì chúng ta từng nương tựa, cha mẹ anh em vợ con của cải tài
sản, nó đã tận, tức là đoạn tận được rồi, thì cái phạm hạnh của người tu mới
xong. Đó là những câu nói mà Phật thường nhắc nhở trong kinh.
Bây giờ quý thầy
nghe lại cái ông A Na Luật, ông này cũng là một cái tay cũng dữ tợn lắm chứ
không phải thường. Ông cũng bỏ cha bỏ mẹ cũng không cần thương nhớ nữa gì hết
cả. Đây là những gương hạnh mà chúng ta nghe qua cái bài kệ của ông, rồi chúng
ta thấy được cái sự tu tập, mà ngay từ cái chỗ mà dứt cái lòng thương yêu này,
cái pháp thương yêu này bắt nó niệm Phật, thì chúng ta phải bắt nó niệm như thế
nào đúng. Nếu không theo những cái gương hạnh này, thì chúng ta khó mà dứt được
cái lòng thương yêu của chúng ta lắm.
À,
hãy nghe ông A Na Luật thuật lại cái đời tu của mình:
Bỏ cha mẹ, bà con,
Bỏ anh em, chị em,
Bỏ năm dục trưởng dưỡng,
A-na-luật tu thiền.
À, bây giờ đó, ông
theo Phật rồi đó, thì ông dứt bỏ cha mẹ bà con bỏ hết, anh em ruột thịt gì bỏ
hết. Mà năm cái thứ mà dục lạc, ông A Na Luật này ngày xưa, ông cũng dục lạc
giữ lắm, chứ không phải là cái tay thường đâu. Mà bây giờ ông dẹp hết năm cái
thứ dục lạc này, thì A Na Luật tu thiền.
Ông thì ông thích
sống ca nhạc đàn ca sướng hát, cho nên ông thường thường liên hệ với các người
ca nhạc.
Sống hệ lụy múa, ca,
Dạy với tiếng xập xỏa,
Sống vậy không đạt được,
Cảnh giới đạo thanh tịnh,
Vì rằng ta ưa thích,
Trong giới vực của Ma.
Nghĩa là trong từ
tiếng nhạc tiếng ca đó, bây giờ ông nghĩ ra nó là cái thế giới của ma, chứ
không phải là của những người tu nữa.
“Do sống vậy không được,
Cảnh giới Đạo thanh tịnh.”
Vì cuộc sống mà hay
ca hát hay này kia, đó là cái thế giới của ma, không thể nào là cảnh giới của
đạo thanh tịnh được.
“Ta vượt qua tất cả,
Ưa thích lời Phật dạy,
Vượt khỏi mọi bộc lưu,
A Na Luật tu thiền”.
Đó thì ở đây ông
phải vượt qua, vượt qua tức là vứt bỏ đó, vứt bỏ tất cả, chỉ có lấy cái lời của
Phật dạy. Cũng như bây giờ quý thầy đã quy y Tam bảo rồi, thì ba ngôi Tam bảo
này là Phật Pháp Tăng rồi, thì chúng ta phải tuần tự chúng ta phải dứt tất cả
hết, phải vượt qua tất cả hết những cái gì mà trói buộc từ cái tình cảm thương
yêu của anh, em, cha, mẹ dòng họ, cho đến tài sản, của cải, sự nghiệp. Đều là
phải vượt qua cho khỏi hết, dứt hết, hoàn toàn là dứt hết, thì như vậy mới gọi
là A Na Luật tu thiền.
“Sắc thanh hương vị xúc,
Hấp dẫn rất ưa thích,
Ta vượt qua tất cả,
A Na Luật tu thiền”.
À bây giờ chúng ta
nghe nói mình tu thiền, mà mình cũng vẫn chạy theo sắc thanh hương vị xúc pháp,
thì thử hỏi mình còn cái gì gọi là tu thiền? Cho nên mình biết nó hấp dẫn biết
nó lôi cuốn. Cũng như giờ ăn, chưa tới giờ ăn mà mình đói bụng rồi, mình thích
ăn chè, bây giờ cũng còn thích. Như vậy là vượt qua chưa? Chưa có vượt qua. Cho
nên ở đây thì nếu mình là người tu thiền, thì mình phải vượt qua ba cái sở
thích này đi, ba cái ham thích này đi, thì mình vượt qua, thì mới gọi là A Na
Luật tu thiền.
“Đi khất thực trở về,
Độc cư vị ẩn sĩ,
Tìm vải từ đống rác,
A Na Luật đạt được,
Không còn các Lậu Hoặc.”
Đó, thì các thầy
thấy bây giờ chúng ta chưa có vị nào mà tìm cái rẻ rách ở đống rác mà làm cái y
mà đắp đâu. Ông đâu phải cái người nghèo, thế mà khi đi rồi đó, khi mà đi tu
rồi thì ông vứt bỏ hết, đi tìm vải ở đống rác lên, rồi đắp lại, vá kết lại làm
cái áo cái y của mình mặc mà thôi. Cho nên ở cái bài kệ này:
“Đi khất thực trở về,
Độc cư vị ẩn sĩ”.
Coi như Ngài sống
một mình, không có nói chuyện với ai hết. Ẩn sĩ là một cái người mà ẩn bóng,
không có để cho ai thấy, trừ ra tới cái giờ mà người ta đi xin mà thôi. Rồi bây
giờ Ngài làm sao Ngài đi tìm những cái vải mà người ta bỏ từ đống rác, người ta
quăng, người ta bỏ đó, về Ngài mới kết thành cái y của mình để mặc chứ không
còn. Do đó cái Lậu hoặc mới sạch, còn nếu mà mình còn cái vải tốt, cái y như
Thầy đây, chưa chắc đã là bỏ đâu. Cho nên còn những cái thấy mình mặc cái áo
này móc khóa vậy chưa tốt rồi, để tìm cái áo khác cho nó đẹp hơn, thì đó là
hoặc mình còn chứ chưa hết. Còn ở đây thì ông đã đạt được, cho nên các cái Lậu
Hoặc của ông mới sạch hết. Đó thì qua cái bài kệ mà chúng ta thấy từng cái hành
động nhỏ để nói cái Lậu Hoặc của chúng ta còn hay là hết. Tức là nói chúng ta
có ly dục, ly ác pháp được hay không?
“Ẩn sĩ thu lượm lấy,
Giặt nhuộm và đắp mặc,
Các vải từ đống rác,
Sáng suốt A Na Luật,
Không còn các Lậu Hoặc.”
Cũng từ mà lượm
những cái đồ bỏ đi đó, để trở thành những cái vật dụng hằng ngày của mình, cho
nên cái Lậu Hoặc của mình hết. Vậy cho nên mình mới thấy rằng mình là bậc ẩn
sĩ, một cái người mới đúng là cái người tu. Còn chúng ta còn ở trong cái sự tu
tập mà cung kính, có cái sự mà cúng dường, có cái sự này, sự kia đó, thì như
vậy là cái Lậu hoặc của chúng ta chưa sạch đâu, chưa hết đâu.
Cho nên qua những
cái gương hạnh này, sau khi lấy thân thọ tâm pháp mà niệm Tăng đó, thì Thầy nêu
lên các hành động, các cái gương hạnh của các bậc Thánh tăng trong thời đức
Phật, chúng ta theo đó mà chúng ta lấy thân thọ tâm pháp mà niệm Tăng, chúng ta
cũng sẽ sống theo những cái gương hạnh đó.
Cũng như bây giờ,
qua cái bài này là chúng ta xa lìa cái lòng thương mà bỏ cái lòng thương, rồi
bỏ tất cả những cái thương của thương cải thương này kia. Qua cái hành động của
ông A Na Luật này để mà chúng ta dẹp cái lòng thương của chúng ta đi. Bởi vì,
bây giờ mình còn mới một cái vật gì, tức là còn thương cái vật đó chứ không
phải mà cái lòng thương nó rất là vi tế. Chứ không phải là mình không nhớ cha
nhớ mẹ mình là không thương đâu. Mình còn nhớ những cái vật kỉ niệm hồi đó đó
ai tặng mình, một con bồ nào nó tặng mình, bây giờ mình con cất giữ đó, thì coi
chừng cái chuyện đó mình còn thương chứ không phải mình dứt thương đâu. Tất cả
những cái chuyện nhỏ nhỏ chớ mà nó còn ghi lại ở trong đầu chúng ta những kỉ
niệm mà chúng ta không quăng ném nó đi, thì tức là chúng ta chưa hết Lậu hoặc
đâu. Mà muốn được như vậy thì chúng ta phải nương theo các gương hạnh của các
bậc Thánh tăng này, để mà chúng ta xa lìa cái lòng thương của chúng ta. Thương
vật, thương người, thương tất cả cái gì mà ở trong cuộc đời chúng ta hãy vứt bỏ
hết. Đó bây giờ thì ông đi lượm cái đồ bỏ để làm lại cuộc sống của mình.
“Nhiều dục không biết đủ,
Ưa giao du tháo động,
Những pháp này có mặt,
Thuộc tà ác uế nhiễm”.
Nghĩ là, nếu mà
chúng ta chưa có biết đủ, còn cái này cái kia, thì đó là còn nhiều dục chứ chưa
phải hết. Còn bây giờ chúng ta đi lượm từng cái vải rách, từng cái vải xấu xa
mà làm cái áo chúng ta mặc hàng ngày thì chúng ta chẳng còn gì nữa hết, thì Lậu
hoặc chúng ta sẽ không còn. Còn bây giờ chúng ta còn cái tốt, còn cái này kia
coi chừng Lậu hoặc chúng ta chưa hết đâu.
Cho nên chúng ta
phải sống hợp, sống đúng cái đời sống mà phạm hạnh, thì chúng ta mới quét sạch
được các cái Lậu hoặc. Còn nếu mà chúng ta sống không đúng phạm hạnh đó, còn áo
quần, xê xua, đẹp, xấu thì coi chừng Lậu hoặc chúng ta còn tràn đầy trong đó.
Khó mà đi đến ly dục, ly ác pháp mà đi đến giải thoát được.
Cho
nên ở đây còn nhiều dục thì chưa biết đủ thì do vì vậy mà tâm chúng ta ưa giao
du tháo động. Ưa giao du là lại người này nói chuyện, người kia nói chuyện, tìm
bạn tìm bè tìm này kia đó, thích lại chỗ này, chỗ kia là những người mà chưa
chịu sống độc cư đó. Ưa tìm bạn, rồi tìm nơi này nơi kia, để ngao du sơn thuỷ đồ đó,
thì tất cả những cái này là không bao giờ cái người đó đi đến con đường giải
thoát được.
Những
Pháp này có mặtthì thật là tà ác, uế nhiễm, nó là những cái tà pháp thuộc về
những cái tà pháp ác, nó làm cho tâm chúng ta dễ uế nhiễm. Thí dụ như bữa nay
chúng ta nói chuyện với nhau thì ngày mai chúng ta cũng thích nói chuyện nữa,
rồi ngày kia cũng thích nói chuyện nữa. Không bao giờ mà cái thích hết nói
chuyện đó mà dứt được đâu. Chỉ bữa nay chúng ta dứt được, thì ngày mai chúng ta
dứt được. Ngày nay chúng ta không giao du, thì ngày mai chúng ta không giao du,
bữa nay giao du được thì bữa mai tiếp tục giao du nữa. Và cứ như vậy tiếp diễn
mãi thì đến khi chết chúng ta cũng hai bàn tay trắng, bị các pháp tà này nó đã
uế nhiễm tâm chúng ta.
“Chánh niệm và ít dục,
Biết đủ không não loạn,
Thích viễn li hân hoan,
Thường tinh cần, tinh tấn”
Đó thì ở đây chúng
ta luôn luôn phải ở trong cái niệm chân chánh là cái niệm mà mình luôn luôn lúc
nào mình cũng thấy vừa đủ và thấy an vui cho tâm hồn của mình. Không có cái
niệm nào mà làm cho mình đau khổ, thương nhớ hoặc là giận hờn hoặc là ham thích
nữa. Luôn luôn mình thấy trước mọi hoàn cảnh, trước cái cuộc sống của mình,
mình thấy nó đủ rồi, không có thấy thiếu cái gì hết. Mặc dù là nhìn vào mình đang
không có cơm ăn đó, nhưng mà mình biết đây cũng đủ rồi. Biết đây là cái nhân
quả đủ của mình rồi, thì không có cần mà thấy nó thiếu, nó đói nữa.
Do vì vậy đó, mà
mình thấy rất là an ổn của tâm của chúng ta, và mình thích sống cái cuộc đời
sống viễn ly, nghĩa là lìa xa bạn bè, lìa xa những vật dụng, lìa xa tất cả
những cái điều trói buộc, lìa xa tất cả những người thân yêu của mình. Đó là
mình thích cái đời sống viễn ly. Bởi vì mình không thích cái đời sống viễn ly
đó, thì nó sẽ đưa mình đến những cái trói buộc này đến trói buộc khác, nó làm
cho chúng ta khó mà giải thoát được, nó làm cho chúng ta não loạn hết trong đầu
óc của chúng ta và làm cho chúng ta không biết đủ.
Cho nên khi mà chúng
ta thích viễn ly, thì chúng ta phải siêng năng, tinh tấn, thường chúng ta phải
sống cái hạnh viễn ly. Viễn ly, tức là xa lìa hết những cái vật chất trên thế
gian này, xa lìa tất cả những cái tình cảm, xa lìa những cái pháp ác. Tránh
hết, tránh hết, chỉ cần sống cô đơn một mình trong một khu yên tĩnh rừng hoang
vắng như ông Mục Kiền Liên chẳng hạn. Mặc dù ông với ông Xá Lợi Phất là đôi bạn
rất thân tình, nhưng khi hiểu được Phật pháp, ông lìa người bạn thân của ông,
chứ không còn có tối ngày mà cặp với nhau, như đôi uyên ương mà chuyện này hết,
rồi tới chuyện kia đâu. Hai ông này thật sự là đôi uyên ương, đi đâu đều là có
cặp nhau đó, nhưng mà đến khi ngộ pháp rồi thì ông này đến khu rừng hoang vắng
ở riêng một mình mình, thực hiện Thiền định. Cho nên, chỉ có ông Phật đến với
ông Mục Kiền Liên mà thôi, chứ không bao giờ mà ông Xá Lợi Phất mà có cái tâm
mà bén mảng đến khu rừng đó bao giờ. Cho đến khi ông Mục Kiền Liên thực hiện có
đệ nhất thần thông rồi, thì ông mới về hầu Phật, để giúp Phật chấn chỉnh Tăng
đàn. Để giúp Phật hướng dẫn cái Giáo đoàn trên bước đường du tăng khất sỉ.
“Những pháp này có mặt,
Thuần thiện Bồ Đề phần,
Vị ấy không Lậu hoặc,
Bậc Đại sư nói vậy”
Nghĩa
là những cái pháp viễn ly mà nó có mặt đó, thì đó là đem chúng ta đi đến cái
chỗ giải thoát hoàn toàn. Bồ đề là giải thoát đó, nó thuần thiện, nó giúp cho
chúng ta. Còn cái pháp mà viễn ly mà không có đó, thì nó là những pháp uế
nhiễm, nó làm cho chúng ta đắm nhiễm hết ở trong cái tà pháp. Cho nên ở đây cái
pháp viễn ly là cái pháp rất cần thiết cho chúng ta. Người
nào muốn đi vào cái con đường của đạo Phật mà thiếu sự viễn ly này đó, thì chắc
chắn là chúng ta không bao giờ có thể giải thoát bằng con đường này hết. Cho nên chúng ta phải viễn ly, viễn ly
những sự giàu sang đẹp đẽ, viễn ly những tình cảm, viễn ly những chùa to tháp
lớn, viễn ly Phật tử, vì những Phật tử họ cũng trói buộc chúng ta dữ lắm chứ
đừng nói Phật tử để chúng ta độ họ, coi chừng độ họ không độ được, chứ họ độ
mình đó. Họ độ tiền độ độ bạc, độ riết, họ lôi mình đi sắm xe cúp, xe honda
chạy tùm lum hết đó. Đó là họ độ ăn, độ uống, độ đủ thứ hết. Những cái thứ gì
mà ở trên cái thế gian này có, họ cũng độ cho mình hết. Độ riết, rồi ông thầy
cái bụng chang bang như cái trống, chứ cũng chẳng ra gì hết.
Cho
nên ở đây, Thầy nói thật sự, chúng ta cần phải tránh xa Phật tử.
Vì tại sao vậy? Sợ Phật tử nó độ mình, chứ mình không có độ Phật tử đâu. Nếu
mình độ Phật tử, thì hằng ngày Phật tử sẽ ăn một bữa giống mình. Còn cái này,
ngày họ ăn ba bữa, rồi cũng độ riết mình cũng ăn ngày ba bữa giống họ, chứ chưa
chắc ngày ăn một bữa được. Cho nên cần phải tránh những người Phật tử.Mình hơi
nhức đầu thế là họ xách bao nhiêu thứ thuốc, bảo uống cái này, uống cái kia.
Uống riết là phạm thuốc thì mình cũng chết luôn chứ đừng nói chuyện mà không
chết. Cho nên Phật tử nó độ mình riết thì chắc chắn tiêu mình luôn.
Nhớ kĩ như vậy là
quý thầy coi chừng cảnh giác với người Phật tử đó. Họ thương mình chứ không
phải ghét, mà họ thương theo kiểu dục lạc thế gian, chứ không phải họ thương
mình để mà giúp cho mình giải thoát đâu. Còn ngày xưa đức Phật, các thầy biết
rằng người ta chỉ đi xin thôi, người ta cho được cái gì ăn cái đấy, chứ không
có mà Phật tử cung cấp mà hộ trì một cách như bây giờ đâu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét