BĂNG SỐ 14
(BBT:CĐ,14A,B00:06:24)(BBT:BN,13,B00:49:36)
(Missing - Xem phần lời nhắc nhở)
(BBT:BN,13,E01:13:15)(BBT:CĐ,14A,E00:31:23)
(BBT:CĐ,14A,B00:31:24)(BBT:BN,13,B01:13:16)Bây giờ chúng ta tiếp tục học Tứ chánh cần. Tứ chánh cần là bốn pháp dùng để trau dồi dứt trừ các ác pháp. Vậy Tứ chánh cần là gì? Tứ chánh cần là bốn pháp siêng năng, cần mẫn, tinh tấn, hợp với đạo lý nhân quả để giúp cho con người thoát ra khỏi cảnh khổ, bất hạnh của cuộc đời; để giúp cho con người thoát kiếp trầm luân khổ ải; để giúp cho con người mọi hành động không làm khổ mình khổ người và để giúp cho mọi người trau dồi rèn luyện thân tâm đạo đức nhân quả.
Như vậy Tứ chánh cần chúng ta phải hiểu bốn cái pháp chuyên cần này để giúp cho chúng ta thoát cuộc đời bất hạnh, để giúp cho chúng ta không làm khổ mình khổ, người và để giúp cho mọi người trau dồi thân tâm đạo đức của chúng ta trong nhân quả. Thì chúng ta phải biết cái pháp này nó trau dồi đạo đức nhân quả như thế nào? Bởi vì dạy về nhân quả mà không dạy về Tứ chánh cần thì chắc chắn là người ta chưa biết pháp hành, cho nên người ta nói nhân quả suông mà không có hành nhân quả. Còn ở đây chúng ta chưa có dạy về nhân quả nhưng trước đây Thầy có giới thiệu chúng ta biết nghiệp. Nghiệp là cái nhân quả của nó đem đến cho chúng ta, từ cái nhân đến cái quả, chuyển kiếp rồi nó thành những cái nghiệp lôi cuốn chúng ta trong vòng sanh tử luân hồi. Thì cái nhân quả là như vậy. Nhưng dạy về nhân quả, đạo đức nhân quả thì nó phải có một cái giáo án riêng của nó. Cái đạo đức này, vì nó là cái đạo đức rồi thì nó phải có tuần tự từ thấp đến cao, cách thức tu học như thế nào của nhân quả. Vì vậy có dịp Thầy sẽ soạn giáo án đạo đức nhân quả giúp cho mọi người có đường lối trau dồi, học tập đạo đức nhân quả để đem lại sự an lành, thanh bình cho con người trên thế gian này. Nhưng bây giờ thì chúng ta không có thời gian để mà viết thành cái giáo án của đạo đức nhân quả.
Tứ chánh cần chia làm bốn vai trò để trau dồi các hành trong thân. Nghĩa là nó có bốn phận sự để mà trau dồi các hành, nó trau dồi các hành động, không phải là trau dồi cái trừu tượng như chúng ta trau dồi Tứ vô lượng tâm đâu, mà nó trau dồi các hành động trong thân của nó. Cái hành động trong thân của nó như thế nào thì chúng ta sẽ lần lượt, Thầy sẽ giải bày để chúng ta thấy được các hành động trong thân của chúng ta.
Một: siêng năng cần mẫn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sanh.Ở đây là cái lý thôi, nói cái lý là ngăn ngừa; rồi cần mẫn ngăn ngừa như thế nào thì chắc chắn đó là danh từ rỗng, không đúng nhưng phải nói cho quý thầy biết, để cho quý thầy có những cái lý; mà phải nói cho hiểu để biết ngăn ngừa. Sau đó chúng ta hành thì chúng ta mới biết biến ra các hành động ngăn ngừa như thế nào và phòng ngừa nó như thế nào.
Hai: phải siêng năng cần mẫn dứt trừ những điều ác đã phát sanh.Dứt trừ đây chỉ nói danh từ suông, đó là cái lý nói dứt trừ, chứ dứt trừ phải bằng cái hành động, phải bằng cách tập luyện như thế nào để dứt trừ các pháp ác. Đó là cách thức đoạn dứt nó chứ không thể nói dứt trừ suông mà nó dứt các pháp ác được. Cho nên hầu hết chúng ta phải giải cái lý của pháp rồi mới giải cái hành của pháp, rồi mới thấy cái chỗ hiểu nó, rồi mới cái chỗ hành nó như thế nào cho đúng.
Ba: là siêng năng cần mẫn trau dồi những điều lành chưa phát sanh.Bây giờ nói đến mình phải trau dồi những điều lành chứ còn khi không nó làm sao có trong tâm mình điều lành được. Cho nên phải trau dồi những điều lành đó. Cho nên những điều lành đó, chưa phát sanh thì phải trau dồi nó. Trau dồi nó một thời gian thì tất cả những pháp lành nó phát sanh ra.
Khi mà trau dồi một thời gian nó phát sanh ra thì đến giai đoạn thứ tư thì phải siêng năng cần mẫn tiếp tục trau dồi những điều lành đã phát sanh. Bây giờ trau dồi nó đã lớn rồi, nó đã khởi ra rồi thì bắt đầu mình phải trau dồi cho nó lớn mạnh lên để giúp cho người, để giúp cho mình, làm cho mình vui, làm cho người khác vui.
Trên bước đường tu học nó phải đi từng bước, từ cái hiểu cái lý cho đến cái hành của cái lý. Từ hiểu cái lý pháp cho đến cái hành của pháp. Thầy dạy đâu thì nó có những bước căn bản như vậy. Chứ không phải dạy chung chung được, lý với hành nó phải song song như vậy chúng ta hiểu mới rõ.
Bây giờ Thầy xin ôn lại những điều lành Thầy đã dạy quý thầy ở lộ trình thứ nhất.
Bây giờ ôn lại để chúng ta thấy mình đã học những cái pháp lành nào, những điều lành nào để cho mình biết.
Thứ nhất,như mình biết như là mười điều lành, mười điều lành tức là thập thiện đó, quý thầy đã học rồi phải không. Rồi bốn tâm vô lượng, quý thầy đã học rồi. Rồi mười điều lành bây giờ chúng ta mới đem áp dụng vô cái Tứ chánh cần này đó. Còn bốn Tâm vô lượng mình đã trau dồi bằng cái pháp hướng để làm cho tâm từ bi hỷ xả của mình nó rộng lớn hơn. Thì cái hành của Tứ vô lượng tâm rồi.
Bây giờ mới nhắc lại mười cái điều lành này. Hồi trước Thầy chỉ giảng cái lý của Mười điều lành này chứ chưa có dạy quý thầy hành mười cái điều lành này. Bây giờ nói tới đây thì quý thầy mới hành mười cái điều lành này, nó mới hiểu biết rằng khi dạy thập thiện tức là để chúng ta biết mười điều lành và mười điều ác. Và khi biết rồi, bây giờ tới Tứ chánh cần mới đem nó áp dụng vào Tứ chánh cần để chúng ta thực hiện mười điều lành mười điều ác. Bởi vì trong Tứ chánh cần Phật dạy các pháp ác chưa sanh thì không cho nó sanh, đã sanh thì đoạn dứt. Còn các pháp thiện chưa sanh thì phải cho khởi sanh, mà đã sanh thì tăng trưởng. Cho nên chúng ta biết được cái đó vì vậy mà chúng ta dạy các pháp ác như thế nào, các pháp thiện như thế nào để chúng ta hiểu để mà chúng ta áp dụng vào Tứ chánh cần cho đúng đắn.
Qua mười điều lành và bốn tâm vô lượng quý thầy đã quan niệm rõ nét về điều dữ và điều lành trong đạo Phật rất cụ thể. Mỗi khi ai đã học xong những điều Thầy đã dạy ở trên mà không hiểu được điều lành, điều dữ thì người đó quá là si mê. Nghĩa là Thầy dạy rồi mà không hiểu được thì thật là si mê. Nếu Thầy dạy điều lành, điều dữ mà người nào không hiểu thật rõ thì thật đáng thương cho người đó, người đó là kẻ si mê tận cùng. Nghĩa là Thầy dạy như vậy chắc chắn là Thầy tin một người mà bây giờ ngu si như thế nào mà dạy xong rồi chắc chắn là quý thầy cũng phải thấy rõ những điều mà Thầy dạy chứ không phải là không thấy rõ.Bởi vậy, trước khi làm một điều lành, tránh một điều dữ chúng ta phải hiểu rõ thế nào là lành, thế nào là dữ.
Những điều dữ là những điều có thể làm tổn hại cho mình, cho người trong hiện tại cũng như mai sau. Đó thì quý thầy thấy những điều lành điều dữ như thế nào. Điều lành là làm cho mình vui, làm cho lợi người; điều dữ thì làm cho mình khổ, làm cho người khác khổ. Thì đó là những đặc tánh của điều dữ và điều lành. So sánh ta thấy rất rõ và nhận định chính xác không lầm. Nếu ta so sánh giữa mười điều dữ và mười điều lành, đối chiếu nhau thì ai ai cũng rõ. Bây giờ mình để cái điều dữ trước và điều lành sau thì chúng ta thấy.
Một là sát sanh.Sát sanh thì người đó phải cầm dao, cầm gậy đánh cho chết người hoặc làm hại con vật này; không sát sanh là không giết hại, không làm đau khổ, không làm chết chóc chúng sanh. Đó là lành đúng không? Bởi vì lành là không làm khổ ai hết thì đó gọi là lành.
Điều dữ đây, thứ hai là trộm cắp. Trộm cắp là lấy của người ta không cho, làm cho người ta mất của người ta buồn rầu, người ta khổ sở; thì cái đó có khổ không - đó là ác. Cho nên mình thấy rõ pháp ác mà, đâu có gì là không ác. Còn mình không trộm cắp, tức là không lấy của người thì người ta đâu có mất của mà người ta khổ. Do đó mình thấy không có khổ, vì vậy đối chiếu lại thì ta thấy trộm cắp là pháp ác, mà không trộm cắp là lành.
Bây giờ đến ba là tà dâm.Cái người mà tà dâm, có vợ con rồi mà lại nhà người ta dê vợ người ta, hoặc làm thế này thế khác làm cho gia đình người ta tan nát. Gia đình tan nát như vậy có khổ không. Đó là pháp ác, là pháp làm cho đau khổ mình, đau khổ người. Còn không tà dâm thì gia đình hạnh phúc yên vui, nhà người ta có tan nát cửa không. Đó là mình vui thì người khác cũng vui. Do đó không tà dâm là pháp thiện, mà tà dâm là pháp ác.
Bốn là nói dối, nói không thật.Mà nói không thật là tức gạt người ta chứ gì. Ví dụ con người ta không có té giếng chết, mình chạy về mình nói: con bà đi ra coi trâu ngoài ruộng nó té giếng chết,nó lọt giếng chết rồi, làm cho bà ta sợ hãi, khóc lóc chạy ra coi con mình có chết không, ai dè thấy nó ngồi trên bờ ruộng. Do đó nói láo như vậy làm cho người ta khổ. Như vậy có ác không? Cho nên cái nói láo như vây làm cho người ta khổ, là pháp ác. Còn mình không có nói dối, gạt ai hết thì có ác không. Không có gạt làm cho ai khổ sở hết thì cái đó là cái pháp lành. Cho nên chúng ta phải nhớ so sánh để chúng ta biết để chúng ta giữ cái nào mà dứt cái nào.
Năm là nói thêu dệt. Nói thêu dệt là nói là nói cái này cái kia làm cho người ta thù hằn nhau, người ta giận với nhau, người ta ghét nhau thì cái đó là pháp ác hay pháp thiện? Vì người ta có giận hờn ghét nhau, do đó là pháp ác, làm cho người ta đau khổ, người ta tức giận - đó là pháp ác. Còn mình không nói thêu dệt thì đâu có làm ai khổ. Mình không có nói xấu người khác thì không có làm ai khổ. Cho nên do vì vậy đó mà đó là pháp thiện.
Sáu là nói lời phù phiếm, nói lời phù phiếm là mình nói cái này cái kia nó không đúng cách. Nó làm cho người ta nghe chuyện này rồi dính mắc vào chuyện kia, đi làm chứng làm trái này kia, làm cho người ta phải mất thì giờ, làm cho người ta tổn phí những cái công sức để mà ngồi nghe những cái chuyện tào lao không có đúng. Đó là cái pháp ác. Còn mình không nói lời phù phiếm thì có phải người ta không mất thì giờ không, người ta không có ngồi nghe cái chuyện tào lao, cho nên người ta không có hao tổn tinh thần, cũng như hao tổn thời gian của người ta. Như vậy là thiện pháp.
Bảy: nói lời hung dữ.Nói lời hung dữ là mình chửi mắng, mình rủa người ta, mình nạt nộ thì làm cho người ta giận tức, làm cho người ta đau khổ thì đó là pháp ác phải không. Do vì vậy đó là pháp ác. Còn chúng ta không nói lời hung dữ thì đâu có làm ai khổ sở, cho nên đó là pháp thiện.
Tám là tham lam. Tham lam là ham muốn cái này cái kia, sanh ra những cái đạt được thì mình mừng vui một chút, còn không đạt được thì nó khổ sở nó lo toan đủ thứ hết trong đầu của mình. Do đó tham muốn cái này cái kia làm cho chúng ta phải lo lắng. Như vậy sự lo lắng ở trong tâm của mình, đó là pháp ác. Còn người không tham lam, không ham muốn thì họ có an ổn không. Họ thanh thản, họ an vui cho nên cái pháp đó là cái pháp thiện.
Chín là sân.Quý thầy thấy người sân có giận dữ không? Giận dữ thì tức tối, mặt đỏ, tay chân múa may. Do như vậy mà người sân là người quá khổ. Sân là khổ như vậy đó là pháp ác. Còn cái người không sân thì có khổ không? Không có khổ, không có giận dữ, không có múa me, không có chửi mắng, không có la lớn thì cái người đó là người không khổ. Còn cái người kia, người sân là người trong pháp ác cho nên khổ.
Si là ngu si, không thấy.Thấy ai uống rượu thì mình vô cùng uống rượu, người ta giết gà thì mình cũng a tùng vô giết gà ăn thịt hoặc làm những cái việc trộm cướp theo những cái điều mà người ta không có thấy tội lỗi cho nên do những si mê đó mà nó đưa con người ta đến những khổ đau liên tục (BBT:BN,13,01:26:04)(BBT:CĐ,14A,E00:45:53).(BBT:CĐ,14B,B00:00:00) Chúng ta phải biết đó là các pháp ác. Người không si là người thấy điều đúng, điều sai để chúng ta tránh mà không tạo cho chúng ta khổ và khổ cho người khác khổ, người đó là người không si. Không si là pháp thiện.
(BBT:CĐ,14B,00:00:18)(BBT:BN,13,B01:26:25)Do bảng so sánh mười pháp này để cho quý thầy thấy rõ mà nhận định điều ác mà mình cần phải dứt bỏ, điều lành mình cần tăng trưởng và nuôi lớn. Như vậy chúng ta sẽ nuôi lớn mười điều thiện mà không không này. Không làm mười điều lành- không làm cái này thì trong khi lần lượt chúng ta phải tu tập, trau dồi như thế nào để chúng ta thực hiện được, tăng trưởng được mười pháp lành, mà đoạn dứt được mười pháp ác này, đó là điều quan trọng. Chứ không thể nói rồi chúng ta dứt được liền đâu, rất là khó chứ không phải dễ.Tuy là nói như vậy, so sánh như vậy để chúng ta hiểu nhưng đến khi thực hành tu tập là một điều mà chúng ta phải rèn luyện, dứt bỏ, trau dồi, phải quyết tâm chúng ta mới dứt được, chứ không phải muốn dứt là chúng ta dứt ngay liền được đâu, nó thật là khó chứ không phải dễ. Vì vậy giáo án này Thầy phải ghi lại cho nó được đầy đủ các pháp hành để chúng ta thực hành để dứt các pháp ác, để tăng trưởng các pháp lành để làm cho chúng ta càng ngày càng tiến bước trên con đường giải thoát.
Như vậy ở đây những điều lành khởi sự bắt đầu để cho người mới tu mà thực hành dứt bỏ mười điều ác, tăng trưởng nuôi lớn mười điều lành. Nhưng nói đến mười điều lành của đạo Phật mà không dạy con người trau dồi mốn tâm vô lượng: Từ, Bi, Hỷ, Xả cao quý tuyệt đỉnh lành trong các pháp.Nếu mà nói về pháp ác, pháp lành mà không dạy người ta trau dồi tâm từ bi hỷ xả. Như Thầy, tại sao Thầy không dạy các thầy tu Tứ chánh cần trước; dạy Thập thiện rồi lẽ ra phải dạy Tứ chánh cần trước, tại sao lại không dạy Tứ chánh cần mà lại dạy Tứ vô lượng tâm? Tại vì muốn dứt trừ các pháp ác phải có tâm Từ - Bi - Hỷ - Xả thì nó mới dứt trừ được. Mà dứt trừ được thì phải nuôi lớn những tâm nào, trau dồi những tâm nào để mới tăng trưởng các pháp lành. Nếu mà không tăng trưởng các pháp lành thì làm sao các pháp lành khởi sự ra được. Đó là những điều quan trọng, phải biết sắp xếp pháp nào tu trước pháp nào tu sau mà Thầy từng nhắc đi nhắc lại trên con đường xây dựng giáo án này.
Bởi vậy, Tứ vô lượng tâm là pháp lành cao nhất của đạo Phật mà cũng là bài học vỡ lòng tuyệt thiện pháp cho tất cả loài người. Mình phải hiểu muốn dứt trừ các pháp ác thì phải học Tứ vô lượng tâm, phải tu tập Tứ vô lượng tâm. Là bài học vỡ lòng đầu tiên mà cũng là tuyệt đỉnh của thiện pháp cho tất cả con người ở trên thế gian này nếu muốn đi vào con đường của đạo Phật. Nếu ai chưa học pháp vỡ lòng này thì khó có thể vứt bỏ mười điều ác. Nghĩa là chúng ta nói như vậy nhưng chúng ta chưa trau dồi được tâm từ bi hỷ xả thì chắc chắn mười điều ác này chúng ta khó vứt bỏ.
Nhờ có trau dồi Tứ vô lượng tâm ta mới có thể mà thương yêu tất cả chúng sanh, nhờ đó ta mới dứt trừ tận gốc của ác pháp. Nếu ta xây dựng giáo án tu tập theo đạo Phật mà đặt sai vị trí pháp tu thì cũng như người viết giáo trình học tập văn hóa thay vì lớp một đem đặt thành lớp hai. Vậy thì học sinh mới vào phải học lớp hai làm sao chúng học được. Chưa biết A, B, C mà đã đọc chữ thì học như vậy có được hay không, và tu như vậy có được hay không? Cho nên người viết giáo trình phải là người am hiểu, có nhiều kinh nghiệm trong ngành giáo dục. Cũng vậy, nếu người soạn giáo án của đạo Phật mà không có thực hành, không có kinh nghiệm thì giáo án ấy không thể áp dụng vào đời sống tu hành của tu sĩ được, vì không đem lại kết quả thiết thực cụ thể.
Vì thế đạo Phật bây giờ không có một giáo án tu tập, nên đời sống tu sĩ ương ương gàn gàn, đời chẳng ra đời đạo chẳng ra đạo. Bởi vậy, sắp xếp lại những pháp môn tu hành của đạo Phật từ thấp đến cao, từ dễ đến khó là một công trình phải được xem là khó khăn nhất. Nếu sai đi, chỉ cần một chút cũng làm mất thời gian của người tu rất lớn và cũng phí bỏ cuộc đời tu hành của họ, chẳng có ích gì cho chính bản thân họ mà còn lại làm cho người khác đau khổ, tốn công tốn của, tiêu phí bao nhiêu mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ mà chẳng ra ma nào cả. Cho nên quý thầy thấy trên bước đường tu tập từ ngày thầy biết đạo tới giờ vì không có giáo án thiết thực cụ thể từ bước thấp đến bước cao nên nhìn chung các thầy, huynh đệ cùng nhau chẳng ai ra nào cả, đời chẳng ra đời đạo chẳng ra đạo. Dở chết dở sống trên chiếc áo tu sĩ, cười thì cũng cười chẳng được mà khóc thì khóc cũng chẳng xong, cho nên cuộc đời tu hành lỡ dở.
Ở đây quý thầy phải hiểu những điều lành là những điều có thể lợi ích cho mình, cho người trong hiện tại cũng như trong tương lai. Chúng bao giờ cũng hợp với tâm từ bi, bình đẳng, bác ái (BBT:BN,13,E01:31:00) (BBT:CĐ,14B,00:06:06)(BBT:BN,14,B00:00:00) và luôn luôn đầy đủ trí tuệ và lúc nào cũng phải đúng với chơn lý của đạo Phật. Nghĩa là nói về pháp thiện chúng ta phải hiểu là nó luôn luôn phải hợp với tâm từ bi, bình đẳng, bác ái; nó phải có thêm trí tuệ mà phải đúng với chơn lý của đạo Phật.
Cho nên khi Thầy dạy Tứ vô lượng tâm từ bi hỷ xả thì Thầy thấy hầu hết có một số sai lạc rất lớn, họ sai lạc rất lớn, cỏ họ cũng không dám nhổ, đi cũng không dám đạp. Đó là cái sai lạc rất lớn thứ nhất, cái sai lạc thứ hai là họ đem cơm đem thực phẩm họ họ đem cho kiến cho này kia ăn. Họ sai lạc, nhiều cái sai lạc lắm, họ không có biết một cái gì bởi vì trí tuệ của con người sao mà nó mờ mịt, nó ngu tới mức độ Thầy không có tưởng được. Mà cái người không được nghe, được học mà lại hiểu được Thầy. Đó là cô Út. Cái môi trường của mình đâu phải du tăng khất sĩ thế mà họ làm như họ là du tăng khất sĩ. Họ tưởng tượng ra họ như Phật rồi nên từ đó họ không dám đạp cỏ, không dám nhổ cỏ. Mai mốt cái thất của họ như là cái đống rác.
Bởi vậy cho nên khi chúng ta chưa phải là du tăng khất sĩ thì chúng ta từ từ tập, thân chúng ta đâu phải một ngày nó từ liền, hay nó bi liền được. Mà nó cả một quá trình tu tập, cả một thời gian dài. Chừng nào chúng ta biết chúng ta có buông xả được không? Bây giờ nhìn trong thất chúng ta còn bao nhiều đồ chúng ta có dám quăng ném ra không. Thế mà chúng ta muốn làm ông Phật liền à. Đó là chúng ta muốn làm ông Phật ngay liền, thiệt là cái tâm tưởng tượng. Thế thì chúng ta phải hiểu được hiện tại chúng ta sống trong chiếc áo này phải làm cái gì, tu tập từ bi hỷ xả như thế nào cho nó phù hợp, cho nó đúng. Chứ bây giờ chúng ta ngay liền muốn không có đạp cỏ, không có giết cỏ, không có làm gì hết mà còn lấy cơm thiên hạ cho kiến đồ ăn nữa thì thử nghĩ quý thầy như thế nào. Ông Phật nói ổng nói ăn còn dư ổng bỏ ra đất trắng. Thực ra, chắc chắn là ông Phật nghĩ của đàn na thí chủ, mà mồ hôi nước mắt chưa chắc ổng xin thừa để bỏ đâu. Còn một chút còn ráng ăn hết chứ chưa chắc bỏ đâu. Còn chúng ta nghe nói vậy, ăn thấy hơi no no bụng mà cái đó bộ không ngon thôi đem bỏ đi, phí của đàn na thí chủ. Chứ không phải quý vị tưởng cái đó là quý vị bố thí cho chúng sanh đâu. Bởi vì chúng sanh nó có cái nghiệp riêng của nó, nó phải chịu khổ chịu sở là do cái nghiệp của nó. Chứ đâu cần phải chúng ta bố thí. Cho nên khi bố thí là làm cho chúng sanh mang thêm nghiệp nữa. Cho nên ông Ca Diếp nói: “Nếu bà cúng dường cho tôi thì bà sanh vào cái sự đầy đủ hơn mà tôi bố thí cho bà thì bà càng khổ sở hơn”. Cho nên chúng ta nhận của bố thí là chúng ta lại nghèo khổ hơn. Mà người đời tưởng là bố thí được cái an lạc có một chút thôi mà tiếp tục đó là sự nghèo khổ, tiếp tục khổ hơn nữa. Vì mình thọ của người ta, cho nên do vì vậy mà không thấy được. Mình đem mình cho con kiến ăn, con kiến nó còn khổ hơn nữa; nó lại sanh những con khác vật nhỏ hơn nữa, đói khổ hơn nữa. Chớ đâu phải mình làm như vậy là mình làm nó no đâu. Nó no có một chút đó mà nó nợ của người ta biết bao nhiêu. Quý thầy tưởng làm điều đó là quý thầy từ bi nhưng không ngờ quý thầy lại giết nó thêm một kiếp khác nữa.
Hôm nay Thầy nói như vậy để cho quý thầy biết rằng tu Tứ vô lượng tâm như thế nào đúng như thế nào sai. Tưởng là giảng như vậy quý thầy đã hiểu cái vai trò, cái hiện tại, cái thân phận của mình là như thế nào. Mình có thành Phật được chưa. Bởi vậy, lời nói là một lẽ mà hiểu đạo lại là một lý. Không thể nào mà hiểu sai như vậy được. Nếu không có Thầy nhắc đi nhắc lại thì chắc quý thầy đã lầm lạc trong cái sự hiểu biết này.
Thầy xin nhắc lại, ở đây quý thầy phải hiểu, những điều lành là những điều có thể lợi ích cho mình, cho người trong hiện tại cũng như trong tương lai. Chúng bao giờ cũng hợp với tâm từ, bi, bình đẳng, bác ái và luôn luôn đầy đủ trí tuệ. Quý thầy nhớ đầy đủ trí tuệ, từ bi bác ái phải đầy đủ trí tuệ. Và lúc nào cũng phải đúng với chơn lý của đạo Phật. Phải áp dụng đúng chân lý của Đạo Phật, nghĩa là đúng không gian, thời gian, đúng thời điểm phải ứng dụng là ứng dụng cái gì cái gì, chứ quý vị ứng dụng cách đó là quý vị ứng dụng sai, không có đúng cách. Cho nên làm sao mà đạt được cái đạo giải thoát này. Nó khéo léo, nó thiện xảo mà áp dụng pháp đó, và đời sống của mình đúng lúc đó đúng thời điểm đó thì mới có kết quả. Nếu không đúng chân lý của Đạo Phật thì xem như đó là điều ác đó. Đó, giống như quý thầy đem cơm đem này kia bỏ cho kiến, không dám đạp lên cây cỏ, không dám quét, đi lúm túm lúm túm làm như người cúm vậy. Thì như vậy đó đã là cái sai của quý thầy rồi. Cái tu đó là cái tu sai rồi, chứ đâu phải là cái tu đúng. Cho nên đó là thiếu trí tuệ, đó không đúng chân lý của Đạo Phật, đó là cái sai. Thì được xem đó là những hành động ác, làm cho người ta thêm khổ nữa, làm cho người ta chuyển kiếp thêm cái nợ nần của người ta nữa.
Vì đạo Phật là đạo từ bi, thiếu từ bi là ác pháp. Mà từ bi đúng cách nó mới đúng, còn từ bi không đúng cách là ác pháp. Quý thầy hiểu chỗ đó, nếu mà quý thầy thực hiện từ bi mà từ bi không đúng cách là ác pháp. Quý thầy cứ đem cơm đem gạo cho người khác tức là quý thầy làm cho người ta đói khổ hơn chứ chưa hẳn đã hết. Vì đó là cái nợ mà.
Như chúng ta đã được biết, có ba nơi hành động xuất phát thiện hay ác, tức là xuất phát pháp thiện. Như Thầy đã nói có ba nơi hành động trong thân chúng ta mà nó xuất phát pháp thiện hay pháp ác ở đó, để chúng ta biết nó để chúng ta trau dồi những hành động đó chứ. Còn nếu mà không biết thì chúng ta sao trau dồi nó được, cũng như tu tập trong hành động đó. Nó không phải thường. Như ở đây Thầy đã nói nó có ba nơi, ba nơi đó ở đâu, ba nơi đó ở chỗ nào?
- Một là ý hành,ý hành là cái ý mình suy nghĩ ở trong đầu của mình.
- Hai là khẩu hành, hai là cái miệng mình hay nói lép nhép, đó là khẩu hành.
- Ba là thân hành, thân hành là đi đứng nắm, bắt, nằm, ngồi. Đó là ba chỗ để lưu xuất thiện pháp, ác pháp ở chỗ đó.
Như vậy chúng ta phải biết ba cái chỗ mà nó xuất phát đó.
Nhưng chúng ta phải hiểu rằng, ý hành là nơi trung tâm xuất phát điều lành, điều dữ. Đó là trung tâm nó xuất phát, sai khiến cái miệng, sai khiến cái thân của chúng ta làm nhưng ý hành là trung tâm xuất phát, nó điều khiển, nó chỉ huy. Nói cho đúng ý hành là bộ chỉ huy các pháp ác cũng như các pháp thiện. Khi còn vô minh thì nó chỉ huy làm các điều ác. Khi mình vô minh, mê mờ thì nó chỉ huy thì mình cứ cho là tốt, là đẹp, là hỷ lạc, khả ái, khả hỷ, khả lạc là thích, là thú cho nên làm những điều ác mà không thấy, cho nên cái điều đó gọi là vô minh. Khi vô minh thì ý hành nó chỉ huy các thầy làm các điều ác mà các thầy không hay biết gì hết. Khi nó đã minh tức là nó đã hiểu rõ rồi thì nó chỉ huy làm các điều lành. Cũng như bây giờ chúng ta hiểu Tứ vô lượng tâm, chúng ta hiểu mười điều ác, mười điều lành, đó là chúng ta minh rồi đó. Phải hiểu chữ minh và vô minh. Minh là mình đã hiểu rõ cái nào ác, cái nào lành, cái nào đúng, cái nào sai mình phải hiểu rõ - đó là minh.
Bây giờ ý hành của chúng ta bắt đầu điều khiển để làm các điều lành mà vì mình đã minh rồi thì mình làm các điều lành là đúng lành, nó không có sai. Còn khi mình chưa có minh nên mình làm các điều ác mà mình cứ tưởng đó là lành. Cũng như mình ăn trộm ăn cắp về có tiền có của nuôi con mình tưởng là lành, vợ con mình được êm ấm. Không ngờ người ta mất của thì người ta khổ. Mình cứ ngỡ tưởng là lành không ngờ đó là điều ác, thì đó là vô minh. Còn cái minh là mình không làm khổ mình khổ người. Đó là pháp thiện.
Vì thế chúng ta bắt buộc bộ chỉ huy phải tập huấn mười điều dữ, mười điều lành. Nghĩa là bắt buộc nó phải học tập. Bắt ý thức của chúng ta phải học tập cho nó biết cái nào là lành, cái nào là dữ. Vậy đó, phải bắt buộc, phải tập huấn nó, cho nó học tập cho nó biết rõ. Còn nếu không bắt ý hành chúng ta cho nó học tập thì nó chỉ huy tầm bậy, chỉ huy sai, nó đưa đến chúng ta nhiều điều đau khổ. Và còn phải huấn luyện quân đội, trau dồi Tứ vô lượng tâm để áp dụng chiến đấu với mặt trận lành và dữ. Bây giờ mình phải trau dồi được cái tâm của mình nữa, ý thức của mình bây giờ đã minh rồi, đã hiểu rồi nhưng bây giờ phải huấn luyện bốn cái tâm vô lượng của chúng ta. Chứ nếu không huấn luyện trau dồi bốn cái tâm vô lượng của chúng ta thì chúng ta lấy đâu mà chiến đấu với mặt trận lành dữ này được? Chúng ta thấy cả một mặt trận mà để chúng ta mở màn cho một cuộc chiến trận đánh cái mặt trận lành dữ ở trong cuộc đời của chúng ta, để chúng ta trở thành những con người chiến thắng.
Bây giờ chúng ta cũng cần phải biết nội dung của Tứ chánh cần. Nghĩa là hồi nãy tới giờ mình đã học biết nó như vậy rồi nhưng cũng phải xem xét nội dung Tứ chánh cần nó như thế nào, để giải rõ ra. Nãy thì đại khái cho chúng ta biết là có bốn phần, nhưng chưa giải rõ ra. Còn bây giờ chúng ta phải giải rõ ra nội dung Tứ chánh cần cho nó rõ. Hồi nãy thì khái lược bốn nội dung đó.
Một: siêng năng cần mẫn ngăn ngừa điều ác chưa phát sanh, đại khái nó như vậy. Bây giờ mình giải thích ra cho rõ cái đại khái đó như thế nào. Nơi ý hành lúc khởi ác, lúc không khởi ác. Nơi ý hành của chúng ta lúc thì nghĩ ác, lúc thì không nghĩ ác - ta biết làm sao ngăn cho được? Mà trong kinh dạy ngăn ngừa các điều ác. Hầu hết các kinh sách giảng đến đây không thấy pháp hành - chỉ nói ngăn ngừa, ráng giữ gìn. Ngăn ngừa và ráng giữ gìn thì tâm không hình sắc lại không có dây dàm làm sao mà nắm giữ nó được. Cho nên lời nói ngăn ngừa và ráng giữ gìn là lời nói suông. Muốn ngăn ngừa và giữ gìn không có ý hành ác pháp thì phải áp dụng tu tập trau dồi tâm bằng pháp, tu bằng tâm pháp. Bằng hai pháp, nghĩa là khi chúng ta muốn trau dồi bằng phần ngăn ngừa và giữ gìn này thì chúng ta phải, bởi vì ngăn ngừa và giữ gìn thì chúng ta phải trau dồi bằng hai cái pháp: một là tùy pháp, hai là hướng pháp.
Mình phải vạch ra cho nó rõ để mình biết các pháp hành như thế nào thì mình mới hành, chứ bây giờ nói hướng pháp không thì quý thầy cũng không biết. Mà nói tùy pháp không thì mấy thầy cũng không biết. Mà tùy pháp không thì không đủ, mà hướng pháp không cũng không đủ. Cho nên ở đây chúng ta phải câu hữu lại hai cái pháp này để mà chúng ta tu tập, để trau dồi, để mà đoạn dứt cái pháp ác mà tăng trưởng cái pháp lành.
Tùy pháp là như thế nào, mà hướng pháp như thế nào? Tùy pháp là pháp tu tập như thế nào, mà hướng pháp tu tập như thế nào, để nói rõ cho chúng ta hiểu pháp tùy, pháp hướng thế nào.
Tùy pháp là phải nương theo cái pháp mà đức Phật đã chỉ dạy.Bây giờ có cái pháp sẵn mình phải tùy theo, bây giờ chưa pháp thì làm sao mà tùy. Các thầy phải hiểu chỗ đó. Thì như vậy chúng ta đã được Phật dạy những pháp nào thì chúng ta phải tùy theo cái pháp đó, tức là theo cái pháp đó, mà nương theo cái pháp đó mà chúng ta tu tập hằng ngày trau dồi mình theo cái pháp đó thì đó là có cái pháp để chúng ta trau. Để hằng ngày theo cái lý đó mà trau dồi các hành thân, khẩu, ý của mình để ngăn chặn các pháp ác không cho sanh. Ví dụ Phật dạy pháp Tứ vô lượng tâm mà Thầy vừa dạy đã học và đã trau dồi tâm mình để tâm của quý vị phát sanh lòng từ bi hỷ xả. Khi tâm này đã phát sanh thì tâm của quý vị không còn khởi ác pháp. Nghĩa là khi mà quý vị đã tu tập bốn Tứ vô lượng tâm này thì các ác pháp không còn khởi sanh ở trong đó nữa. Cái hành động hằng ngày mà quý vị trau dồi tâm từ bi hỷ xả là hành động ngăn ngừa giữ gìn các pháp ác. Cái hành động mà mình trau dồi tâm thương yêu của mình đó, cái tâm buông xả của mình đó, tâm vui theo đó thì đó là hành động ngăn ác. Bởi vì mình có thương yêu mình mới làm cho người ta không đau khổ, cho nên đó là hành động ngăn ác, mình biết đó là ngăn ngừa. Mà ở đây nói ngăn ngừa mà nói danh từ suông thì chúng ta biết cái gì mà ngăn ngừa. Mà chúng ta không trau dồi tâm từ bi hỷ xả thì làm sao chúng ta ngăn ngừa được. Quý thầy thấy rõ không, bởi vì thấy rõ như vậy mới biết đó là cái pháp ngăn ngừa. Tức là quý vị vứt bỏ ác pháp hay nói một cách khác là đoạn dứt các pháp ác nơi tâm của quý vị. Nghĩa là tâm từ bi hỷ xả của quý vị có rồi tức là mình đoạn dứt các pháp ác. Đó là đoạn dứt nó đó.
Bởi vậy Phật dạy các pháp ác cần phải vứt bỏ, đoạn trừ. Ở đây lộ trình của người cư sĩ, người tu sĩ cần phải trau dồi tâm mình trong pháp môn Tứ vô lượng tâm thì đó là pháp dứt ác tăng trưởng pháp lành. Chớ không phải Tứ chánh cần. Nghĩa là bắt đầu chúng ta trau dồi Tứ vô lượng tâm của mình đó là mình đã ngăn ngừa cái tâm ác của mình đó. Tức là không có cho nó phát sanh ra thì đó là Tứ vô lượng tâm. Còn Tứ chánh cần là chúng ta dùng nó để mà đoạn dứt. Nhưng trong Tứ chánh cần nó còn có pháp ngăn ngừa chứ không phải chỉ riêng có Tứ vô lượng tâm mới có pháp ngăn ngừa mà thôi.
Đến đây Thầy sẽ giảng thêm điều mà quý thầy cần phải rõ về Tứ chánh cần và Tứ vô lượng tâm. Chứ nếu mà không giảng chỗ này thì quý thầy tưởng cái góc độ tu Tứ vô lượng tâm nó không ăn nhập gì với Tứ chánh cần. Nó không phải đâu. Tứ vô lượng tâm là pháp ngăn ngừa các pháp ác. Chúng ta phải hiểu như vậy mới đúng. Và Tứ chánh cần nó có cái pháp ngăn ngừa riêng của nó nữa. Chứ không phải Tứ chánh cần nó không có pháp ngăn ngừa đâu. Có pháp ngăn ngừa và nó có pháp đoạn dứt của nó nữa. Thì ở đây chúng ta thấy đức Phật nhắm cho chúng ta đi trên con đường thiện cho nên hoàn toàn chúng ta dứt ác để tâm chúng ta tịnh. Do vậy mà chúng ta chỉ mà chúng ta làm chủ luân hồi chứ không phải là chúng ta ức chế tâm. Chúng ta phải hiểu đường lối của đạo Phật. Ngồi đó mà tu ức chế tâm là tu điên, tu sai, tu không đúng. Nếu ngồi nhiều mà không chịu đi kinh hành là tu điên tu khùng.
Đến đây quý thầy thấy rõ Tứ vô lượng tâm và Tứ chánh cần là như hai anh em song thai, là như hai cánh tay mặt và tay trái. Nếu thiếu một tay thì không làm nên việc được. Có pháp Tứ vô lượng tâm mà không có pháp Tứ chánh cần thì tuyệt nhiên ta tu hành còn thiếu lớn, còn khiếm khuyết rất lớn. Cho nên Thầy xếp hai cái pháp môn này nó đứng gần bên nhau để chúng ta thực hiện được cái pháp thiện. Còn nếu chúng ta xếp nó vào các pháp khác thì nó không thể đúng được.
Tứ chánh cần là bốn pháp bắt buộc chúng ta phải tu hành, phải siêng năng cần mẫn; luôn luôn tu tập không được bỏ qua cho nên gọi nó là chánh cần - tức là siêng năng trong chánh pháp thiện, diệt trừ tà pháp ác. Nghĩa là luôn luôn lúc nào chúng ta - khi mà tu Tứ chánh cần nó còn siêng năng hơn Tứ vô lượng tâm nữa. Nghĩa là nó cần - tức là Chánh tinh tấn đó. Bởi vậy khi mà đức Phật nói tấn lực, tức là nói Tứ chánh cần - đó là tấn lực. Cho nên nói về pháp mà siêng năng nhất trong các pháp của Phật thì phải nói là Tứ chánh cần là siêng năng nhất. Mà siêng năng nó mới trừ được cái ác, dứt được cái ác, nó mới tăng trưởng được cái thiện. Còn nếu không siêng năng thì nó không dứt trừ được ác, không tăng trưởng được thiện. Vì vậy cuộc đời ta tu chỉ hoài công mà thôi. Cho nên pháp này là cái pháp Chánh tinh tấn, ở trong cái nẻo mà Bát chánh đạo thì Chánh tinh tấn nó nằm trong Tứ chánh cần này. Nếu mà người siêng năng hằng ngày mà tu luyện mình để dứt ác mà tăng trưởng thiện thì người này gọi là Chánh tinh tấn. Chứ không phải người này chánh tinh tấn là ngồi thiền nhiều, nhiếp tâm nhiều hoặc ngồi nhập định nhiều là chánh tinh tấn đâu. Chánh tinh tấn là dứt ác mà tăng trưởng thiện, đó là chánh tinh tấn.
Cho nên ở đây Thầy giảng pháp này nó có leo qua những pháp khác để chúng ta hiểu được Phật pháp. Cái đúng cái sai của nó chứ không khéo chúng ta không biết ở chỗ nào.
Tứ chánh cần có pháp tu riêng không phải trau dồi tâm mình như Tứ vô lượng tâm. Thầy nhắc lại cho quý thầy thấy rằng Tứ chánh cần có cái pháp tu riêng của nó, chứ không phải là chỉ có ở trong cái pháp Tứ vô lượng tâm đâu, nó có sự riêng của nó.
Đến đây bây giờ nó gần hết giờ rồi, chúng ta nghỉ.
Trước khi mà nghe Thầy giảng tiếp tục giáo án, cái phần Thầy nhắc nhở quý thầy hôm nay để cho quý thầy áp dụng cho đúng giới luật. Nhiều khi mới đầu chúng ta nghe giới luật chúng ta thích lắm, nhưng khi chúng ta áp dụng có một vài ba ngày, hoặc trong một tuần hay một tháng thì lần lượt cái tâm phàm phu chúng ta nó sống theo thói quen nó vui. Do đó trình tự đó nó tìm mọi cách, nó có cơ hội. Vì trong sống chung nhau nên có những cơ hội để chúng ta phạm phải những lỗi lầm ở trong giới luật. Tuy rằng những lỗi lầm đó nó nhỏ nhặt nhưng nó sẽ dẫn đi đến những lỗi lầm lớn. Cho nên ở đây qua hạnh độc cư mà xét qua quý thầy thì từ cái duyên nó nhỏ nhỏ như mình dọn cơm, như vậy nó sẽ có cái duyên để mà tập hợp, rồi từ cái duyên đó chúng ta sanh ra nói chuyện. Rồi từ nói chuyện nhỏ ít (mới đầu chỉ vài ba tiếng nói thôi) nhưng sau đó nó lại quen đi, nó bắt đầu tiếp tục làm cho cái nơi mà chúng ta tu hành nó bất an, nó động.
Cho nên đức Phật ngày xưa Ngài thích trầm lặng, Ngài sống trong trầm lặng, Ngài đi kinh hành ở trong trầm lặng, Ngài ca ngợi sự trầm lặng. Còn chúng ta thì không như vậy, thói quen của chúng ta ngoài đời là thích vui. Cho nên khi hở ra một chút là quên đi, tức là thiếu cái sức tỉnh thức. Do tu mà cái Chánh niệm tỉnh thức nó không có cho nên sức tỉnh nó không có. Cho nên cái tâm chúng ta nó dễ buông lung theo cái thói quen. Từng đó có cái duyên nhỏ nhỏ rồi chúng ta bắt đầu đến cái duyên lớn rồi đến cái hạnh độc cư nó bị tan nát, hư hoại. Từ đó chúng ta không sống trầm lặng được nữa. Vì vậy mà chúng ta thường cảnh giác như Thầy đã nhắc như thầy Minh Tông ở đây, thầy thấy ai gần rề rề là thầy lo đi tránh chỗ khác. Thầy biết cái duyên đó nó sẽ tạo ra cái phạm lỗi. Cho nên Phật dạy chúng ta phải sợ hãi trước các lỗi nhỏ mà nó không bước đến các lỗi lớn. Còn chúng ta không sợ hãi nó thì từ đó cái lỗi nhỏ chúng ta xem thường thì chúng ta sẽ phạm phải những giới luật khó hơn. Và đồng thời con đường tu chúng ta nó sẽ mất đi phạm hạnh, nó không đúng cái người tu sĩ.
Vì vậy cho nên Thầy nhắc nhở, cái duyên như buổi trưa mà đi ăn cơm. Ai có nhiệm vụ mà dọn cơm thì hai ba thầy, hay năm ba thầy đến dọn cơm xong. Nếu mà dọn cơm sớm quá thì chúng ta để ở dưới đất, mùa này mưa thì đất không có bụi, nhưng lỡ mùa nắng thì bụi, gió thoáng qua thì làm thực phẩm dơ bẩn đi, đó là cái mình phải thấy. Khi mà dọn xong rồi khoảng độ năm phút là mình đánh kiểng, thì cái thời gian nó ngắn. Vả lại dọn quá lâu thì chó, hoặc mèo, hoặc con vật rủi chạy ngang nó làm bẩn thực phẩm của chúng ta. Đó là những cái mà chúng ta phải cảnh giác, chúng ta phải thấy.Và đồng thời khi mà dọn lâu thì mình phải ngồi chờ, trong khi ngồi chờ mà cô đơn thì không chịu được thì thành ra những chuyện mà nói chuyện với nhau. Đó mình phải đề phòng và ngừa.
Còn quý thầy không có nhiệm vụ thì mình cứ ở thất mình tu, khi nghe kiểng đổ thì mình lần lượt mình đến thì nó cũng không sao. Khi đến trước Thầy thì mình chào Thầy, mà đến sau mà chưa có chào Thầy đồng một lượt thì khi Thầy vào đứng thì mình cũng xá Thầy, có gì đâu mà phải vội vàng. Cho nên chúng ta phải thấy được cái điều nghiêm chỉnh một chút để chúng ta tránh những lỗi nhỏ. Mà Thầy đã nói rằng bí quyết của thiền định tức là độc cư. Muốn được cái tâm vô lậu, muốn đạt được sức thiền định làm chủ sự sống chết này, mà nếu không sống thầm lặng, không sống độc cư thì khó mà đi đến cái chỗ thành tựu được. Vì vậy mà quý thầy cần phải nhớ kỹ những lời Thầy dạy, bởi vì còn Thầy Thầy nhắc nhở, không còn Thầy thì từ cái thói quen của chúng ta lần lượt nó sẽ quen đi rồi nó buông lung theo, nó làm cho chúng ta phạm những giới nhỏ, rồi từ đó những giới lớn chúng ta cũng không có giữ gìn được.
Cho nên ở đây trước khi giảng tiếp cái bài này, Thầy cũng nhắc nhở quý thầy cố gắng thực hành để mà tập trong có mấy tháng chứ không lâu. Còn sống bên thầy thì cố gắng giữ gìn độc cư cho trọn vẹn. Bởi vì kỷ luật của Tu viện, cái giới độc cư nó là cái giới nòng cốt của Tu viện. Ăn ngủ độc cư đó là cái giới nòng cốt. Cho nên cố gắng giữ gìn, lấy kinh nghiệm đó mà về sau này chúng ta nỗ lực thực hiện cho được tốt. Vì vậy mà quý thầy phải ráng cố gắng hơn thực hiện lời Thầy dạy khi còn Thầy hiện tiền trước mặt. Còn sau khi thầy đã ẩn bóng rồi thì chắc chắn không có ai, lấy ai mà nhắc nhở. Chỉ khi các thầy đã có quyết tâm, sống độc cư đúng cách, tu hành khi gặp khó khăn, có tâm tha thiết thành khẩn cầu Thầy hộ trì thì lúc bấy giờ Thầy cảm thông được điều đó. Còn nếu quý thầy phạm giới mà kêu thầy hộ trì thì chắc chắn là Thầy không hộ trì được. Vì giới thanh tịnh làm cho tâm thanh tịnh nó mới cảm ứng được Thầy. Còn nếu mà thân huệ mạng của quý thầy mà không thanh tịnh thì không làm sao cảm ứng với chư Phật được, làm sao cảm ứng với Thầy được, làm sao mà Thầy đến hộ trì các thầy được. Bởi vì nó còn có uế trược, nó còn có ham vui theo dục lạc thế gian thì làm sao Thầy cảm thông được. Thầy cảm thông với những người tâm thanh tịnh, giới luật thanh tịnh không phạm phải thì mới cảm thông được. Và sự cảm thông đó mới giúp đỡ quý thầy trên con đường tu tập còn nhiều gian nan và khó khăn.
Cho nên quý thầy càng giữ giới luật thanh tịnh bao nhiêu thì quý thầy càng xa thầy bao nhiêu Thầy lại gần quý thầy bấy nhiêu. Vì giới hạnh thanh tịnh là bậc thầy của quý thầy và Thầy cũng ở trong cái thanh tịnh đó cho nên dễ cảm thông. Còn nếu quý thầy phạm phải những giới luật nhỏ nhặt, mà phạm phải là tâm chúng ta đi theo con đường của dục giới, của cái tâm ham muốn rồi, của cái vui theo dục lạc thế gian rồi. Vì vậy tâm không thanh tịnh thì làm sao những chư Phật, vị Bồ tát, bậc Alahán và các bậc giới luật nghiêm túc làm sao họ cảm thông với quý thầy được. Cho nên ở đây quý thầy, giờ quý thầy phải giữ hạnh thanh tịnh trong hạnh độc cư. Để làm gì, để cho lỗi nhỏ lỗi lớn chúng ta không còn tiếp duyên ra ngoài. Vì tiếp duyên ra ngoài thì sẽ còn các lỗi nhỏ, lỗi lớn mà khó có thể giúp cho quý thầy đạt được con đường của đạo Phật.
Đó là những lời Thầy nhắc nhở, quý thầy cảnh giác từng phút từng giây trong khi còn Thầy nhắc nhở. Nếu mà Thầy không nhắc nhở thì còn ai nhắc nhở cho quý thầy nữa. Mọi người người ta đang sống vui theo cái dục lạc thế gian thì người ta thích nói chuyện, người ta thích bàn bạc cái này, thích làm cái kia. Còn mình, ở đây tu hành thanh tịnh thì không thích làm gì hết, chỉ biết tu mà thôi, chỉ thích tu mà thôi. Suốt ngày tập tỉnh thức để cho chúng ta có tỉnh thức để chúng ta thấy những cái lỗi nhỏ mà chúng ta sợ hãi.
Do cái chỗ này mà Thầy xét qua cái sự tu tập của quý thầy là cái Chánh niệm tỉnh thức của quý thầy quá kém. Quý thầy cứ nghĩ rằng mình đi một vòng hai vòng xung quanh cái Tu viện mình trên cái lộ hành thiền mà không thấy có niệm vọng tưởng nào, luôn luôn liên tục biết bước chân mình đi kinh hành, hoặc hành động làm hằng ngày quý thầy tưởng nó là tỉnh thức rồi. Chưa đâu, khi nào quý thầy tỉnh thức đến độ quý thầy không nhắc nó mà quý thầy ngồi với một tâm thanh thản, nó không có một niệm gì ở trong đó hết mà suốt ngày này qua ngày khác thì sức tỉnh thức của quý thầy... lúc bây giờ quý thầy mới ở trong Sơ thiền. Nếu quý thầy chưa được như vậy thì quý thầy phải dùng độc cư để mà cách ly, để tạo cho mình có những cái sức tỉnh thức trong cái định, Chánh niệm tỉnh giác định. Chứ quý thầy nói chuyện, quý thầy lại làm mất cái sức tỉnh thức của mình rồi. Quý thầy đã tập trung nhau mà nói chuyện thì quá là tai hại cho quý thầy. Tại sao vậy? Tại vì quý thầy nghĩ rằng ở Tu viện chúng ta phải tạo cho quý thầy có những cái nơi để mà sinh hoạt riêng như phòng vệ sinh hoặc là tắm rửa, hoặc là rửa bát rửa chén riêng. Tại sao vậy? Tại vì muốn cho quý thầy sống độc cư, sống trọn vẹn trong sự tu tập của quý thầy để quý thầy cách ly những thói quen của mình còn đang mang nặng trong tâm tư của mình. Do vì vậy mà quý thầy phải cảnh giác rất nhiều. Khi ăn cơm xong thì ai mang bát về sân, về thất của mình rửa. Tự tại, ung dung, cô độc một cuộc đời tu hành, sống biết một mình mình mà thôi, thầm lặng trong cuộc sống một mình, an vui trong cuộc sống một mình. Chừng nào cái tâm của quý vị mà quay được vào trong mà sống thầm lặng thì lúc bây giờ quý vị mới hưởng được cái Chánh niệm tỉnh thức, sức tỉnh thức của quý vị rất cao rồi. Còn bây giờ quý vị còn thấy vui ra ngoài, còn thấy thích cái điều này, còn suy luận cái điều kia để mà thưa hỏi Thầy điều này thế kia thì chắc chắn là quý thầy chưa tỉnh thức đâu. Người tỉnh thức người ta gặp khó khăn người ta mới thưa hỏi, không bao giờ người ta đem cái chuyện tào lao mà người ta thưa hỏi. Còn hầu như quý thầy có nhiều chuyện quý thầy thưa hỏi tào lao. Còn ngoài ra như Chánh Đức là vì trách nhiệm của nó phải thu những lời của Thầy nên phải trực tiếp đến hỏi cái này cái kia. Đó là cái vấn đề công cụ, cái việc làm. Vả lại thì nó cũng chưa đủ cái duyên, vì gia duyên còn rất nhiều nên chỉ làm công việc Phật sự để giúp cho cái giáo án thành tựu mà thôi. Còn quý thầy đừng thấy nó như vậy mà mượn cớ đó. Quý thầy đến đây là quý thầy chuyên tu, không có nhiệm vụ gì hết, còn nó có nhiệm vụ khác, nó phải làm cho trọn. Ví dụ như quý thầy nhờ sang băng thì nó giúp cho quý thầy có những lời dạy của Thầy, cho nên nó phải bận rộn, nó không tu như quý thầy được. Còn quý thầy tới hỏi rồi thôi, đó là biết tu. Quý thầy phải cảnh giác từng chút từng chút như vậy, mình mới cách ly được những tạp khí, cái thói quen của mình. Từng đã sống ở trong cuộc đời nhiều năm chứ không phải một hai năm đâu. Không phải nhiều năm mà còn nhiều kiếp.
Đến đây Thầy nhắc nhở quý thầy như vậy và chúng ta cũng không có thời giờ nhiều để chúng ta tiếp tục bài giảng để thu ngắn thời gian. Thầy sẽ tranh thủ rút ngắn thời gian để cho nó còn một tháng mấy nữa cho hết cái giáo án này, còn dài lắm.
Để tiếp tục buổi học hôm nay, thầy xin nhắc lại mục đích tu hành của đạo Phật từ lâu Thầy đã giảng dạy.
Này quý thầy, mục đích tu hành của đạo Phật không phải làm Phật, Tổ, Bồ tát, Alahán, không phải làm Viện trưởng, Viện chủ, Tăng thống, Phó tăng thống hoặc bất cứ một hàng giáo phẩm nào. Cũng không phải vì lợi ích cho ai, cũng không phải vì lợi dưỡng, không phải vì lợi ích thành tựu Giới đức, mà cũng không phải lợi ích thành tựu Thiền định, mà cũng không phải thành tựu tri kiến tri kiến giải thoát, mà cũng không phải thành tựu lợi ích Tam minh, mà cũng không phải vì sanh tử luân hồi thoát kiếp đau khổ này. Này quý thầy, mà chính tâm giải thoát bất động trước các ác phápchính là mục đích phạm hạnh của đạo Phật, là mục đích cuối cùng của phạm hạnh.
Thì hôm nay Thầy xác định tất cả những điều mà chúng ta tu tập để chúng ta đạt được tâm bất động giải thoát của chúng ta trước các pháp, trước thọ. Đó là phạm hạnh của đạo Phật. Chứ không phải phạm hạnh là cái đạo Phật giữ gìn giới luật, đạt được cái giới luật, đắc được cái giới luật là phạm hạnh, không phải. Phạm hạnh của đạo Phật tức là cái mục đích của nó để đạt được cái tâm giải thoát bất động trước các pháp, trước các thọ của quý vị, đó là mục tiêu cuối cùng của phạm hạnh. Quý vị nhớ điều này để chúng ta xác định được cái mục đích của chúng ta đến.
Nhiều thầy cứ nghĩ rằng chúng ta phải tu thiền định, nhập Bốn thiền, thực hiện Tam minh đó là cái mãn nguyện của mình rồi, không phải đâu. Cái mục tiêu cuối cùng chúng ta phải thấy tâm bất động của chúng ta. Hiểu được như vậy chúng ta biết rằng con đường từ Tứ thiền để làm chủ sống chết cho đến chấm dứt luân hồi sanh tử này thì nó chỉ là quãng đường chúng ta đi để thực hiện cái tâm giải thoát bất động, chứ không phải nó là mục đích để chúng ta đạt nó. Do đó chúng ta không phải lấy cái thiền định làm mục đích, cũng không phải lấy tri kiến giải thoát mà làm mục đích, mà chỉ lấy cái tâm giải thoát bất động của chúng ta. Mà chỉ lấy tâm giải thoát bất động của chúng ta đó là cái mục đích chính của phạm hạnh của đạo Phật, là mục tiêu cuối cùng của đạo Phật. Chứ không phải chúng ta tu để thấy một cảnh giới nào đó, hoặc có Phật tánh, có cái gì đó để mà chúng ta thường lạc ngã tịnh ở trong đó mãi mãi. Không có, mục đích đó không có. Mục đích có tức là còn, còn có kiến chấp, còn bị cái thân kiến - đó là cái sai.
Bài học vừa rồi Thầy nhắc lại đó thì trong chánh pháp thiện nó diệt trừ tà pháp ác.
Tứ chánh cần có pháp tu riêng, cái này chắc có lẽ đã học rồi nhưng Thầy nhắc lại. Tứ chánh cần có pháp tu riêng không phải trau dồi tâm mình như Tứ vô lượng. Nghĩa là pháp Tứ chánh cần nó có sự tu riêng của nó. Cách thức nó trau dồi cái tâm nó, trau dồi các thiện pháp riêng. Mà trau dứt đoạn các pháp ác riêng. Chứ nó không phải như Tứ vô lượng tâm.
Tứ chánh cần lấy mười điều ác và mười điều thiện mà tu tập theo tùy pháp thập thiện và tùy pháp thập ác. Rồi dùng pháp hướng như truyền lệnh để cho tâm mình không sanh ác pháp và dứt bỏ ác pháp, sanh khởi pháp lành, tăng trưởng pháp lành. Người tu sĩ phải nhận rõ theo pháp mà trạch ra thành câu hướng tâm Như lý tác ý để đoạn dứt tâm sanh khởi ác pháp.
Thì quý thầy nhớ trong vấn đề tu tập về cái pháp này thì chúng ta phải theo cái pháp tùy và pháp hướng mà áp dụng vào cái Tứ chánh cần này thì chúng ta có cái pháp đoạn dứt và cái pháp trau dồi để cho các thiện pháp sanh khởi. Trước khi đến phần thực hành thì bây giờ Thầy sẽ đọc bài kệ của Phật để nhớ mà tu tập. Đây là bài kệ, quý thầy nhớ kĩ bài kệ này:
Mười pháp cần dứt bỏ
Mười pháp cần tăng trưởng
Siêng tu tập như thế
Sống yên vui hạnh phúc
Được gọi bậc hiền nhân
Nghĩa là chúng ta biết mà dứt bỏ mười cái pháp ác và tăng trưởng mười các pháp lành bằng cách theo cái pháp hướng và cái pháp tùy mà chúng ta tu tập thì chúng ta sẽ được gọi là bậc hiền nhân. Như vậy chỉ cần tu Tứ chánh cần là chúng ta đã được giải thoát, đã được là bậc hiền chứ không xa lạ nữa. Không cần tu nhiều, chỉ cần tu bao nhiêu đó cũng là thấy an vui hạnh phúc của đời sống này rồi. Vậy thì qua pháp hành như thế nào, bây giờ quý vị phải trạch pháp câu này.
Câu này câu thứ nhất, đây cái câu mà Pháp ra đây, tức là cái câu ta chọn làm pháp hướng:
Giết hại chúng sanh, ăn thịt chúng sanh là pháp ác, chúng ta phải đoạn dứt, đoạn trừ. Phải đoạn trừ tận gốc cái tâm khả hỷ khả ái này.
Tức là cái tâm thích thú mà giết hại chúng sanh, cái tâm thích thú mà ăn thịt chúng sanh đó. Thì câu này có nghĩa là chúng ta phải đoạn trừ, đoạn dứt nó, không được thích thú ăn thịt chúng sanh, giết hại chúng sanh. Hằng ngày chúng ta đều nương vào câu này mà tu tập nhắc cái tâm để chúng ta dứt bỏ không còn thích ăn thịt chúng sanh, mà không còn thích giết hại chúng sanh. Có thích giết hại chúng sanh chúng ta mới giết được chứ không phải là miễn cưỡng mà giết đâu. Cho nên người ta cầm con gà, cắt cổ con gà. Một cách an nhiên mà người ta lấy con dao người ta cắt một cách rất tự nhiên. Một con vật mà la hét, con cá giẫy dụa mà họ vẫn thản nhiên đập thêm mấy cái nữa. Họ đập trong sự sung sướng chứ không phải là trong sự không sung sướng nên đó Phật gọi là khả ái, khả hỷ đó. Hành động rất là đau đớn thế mà họ rất sung sướng, cho nên chúng ta dùng pháp hướng để nhắc cái tâm của mình để đoạn dứt. Đó là cái câu pháp hướng của mình để đoạn dứt cái tâm ác.
Câu thứ hai: “Chúng sanh có mạng sống như ta nên cũng sợ đau sợ chết như ta. Ta phải thương yêu như chính bản thân ta, như con ta và không được…”. Ở đây đến chỗ “như con ta” thì đó là cái câu để mà trau dồi cái thiện pháp. Quý thầy nhớ một cái câu thì vứt bỏ, một cái câu thì trau dồi nó tăng trưởng thiện pháp. Hai cái câu song song, chúng ta trạch pháp hai cái câu song song trong một cái điều ác để cho thực hiện được điều lành.
Bởi vì không giết hại chúng sanh đó là điều thiện, mà thương yêu chúng sanh chúng ta mới làm điều thiện được; mà không yêu chúng sanh thì chúng ta không làm điều thiện được. Do đó chúng ta trau dồi cái tâm chúng ta thương yêu tức là trau dồi tăng trưởng thiện pháp. Chứ không phải thiện pháp chưa sanh rồi chúng ta cho nó sanh hoặc chúng ta cho nó tăng trưởng. Nói như vậy là cái danh từ suông, nên ở đây chúng ta phải nhắc cái tâm của mình như thầy nói câu thứ hai:
Chúng sanh có mạng sống như ta nên cũng sợ đau, sợ chết như ta. Ta phải thương yêu như chính bản thân ta, như con ta vậy.
Đó là câu đó để chúng ta nhắc nhở trau dồi cái tình thương yêu của chúng ta. Cái sự chết và cái sự đau khổ thân ta ta cũng biết sợ và chúng sanh cũng như vậy, để chúng ta giao cảm được nỗi khổ đau đó chung nhau. Như vậy để chúng ta không nỡ giết chúng sanh, ta cũng không nỡ ăn thịt chúng sanh. Đó là cái câu thứ hai.
Câu trước là câu dứt bỏ,câu trước là dùng mệnh lệnh. Câu sau là trau dồi thân của mình, không có dùng mệnh lệnh.Các thầy thấy chỗ nào mà chúng ta cần nhấn mạnh thì cái chỗ đó là dứt, bắt buộc phải dứt. Còn chỗ nào chúng ta chưa dùng cái hướng lệnh thì chúng ta xoa dịu, nhắc nhở êm ái để làm cho tâm chúng ta. Cũng như chúng ta muốn dụ dỗ một con vật để mình rèn luyện nó, như con ngựa, con bò, con trâu mình muốn nó kéo cày mình phải dụ dỗ nó chứ mình la hét đánh đập nó thì chắc chắn mình gắt óc mình cày không được đâu. Cho nên bằng cách là mình cho cỏ cho này kia nó ăn. Các thầy thấy nhà mà họ xiếc cọp, voi hay một con vật gì họ cũng cho nó ăn rồi lần lượt dụ dỗ nó rồi họ dạy nó múa, nó làm gì cũng được hết.
Thì tâm của chúng ta cũng vậy, vốn nó tích lũy những cái ác. Cho nên bây giờ chúng ta dụ dỗ để cho nó nhẹ nhàng, nó nghe được rồi từ đó nó sửa lần sửa lần nó thấm nhuần được lòng thương yêu chứ không được nạt nộ nó. Cho nên câu thứ nhất là nạt nộ, bắt buộc, ra lệnh. Câu thứ hai thì xoa dịu, êm ái, nhẹ nhàng làm cho tâm chúng ta được nhẹ lại để trau dồi cái tâm thương yêu của chúng ta, cái lòng từ bi của chúng ta.
Đó thì những câu như vậy quý thầy phải hiểu được lúc nào thì dùng nó. Khi mà ra lệnh rồi thì bây giờ phải xoa dịu nó, chứ không quý thầy cứ ra lệnh không thì chừng đó nó sẽ như thế nào. Nó cứng đầu, nó chống lại, nó không có chịu phục tùng đâu. Cho nên cũng là vừa vứt bỏ, và cũng vừa xoa dịu an ủi nó để cho nó thấu đạt được lòng thương yêu của nó. Câu thứ nhất là dùng để đoạn trừ dứt bỏ pháp ác, câu thứ hai dùng để trau dồi tâm ngăn ngừa pháp ác, tức là phóng khởi pháp thiện. Khi tâm chưa phóng khởi tưởng điều ác thì ta phải hằng ngày trau dồi tâm ta bằng pháp hướng đến sự thương xót (BBT:BN,14,00:39:48) (BBT:CĐ,14B,E00:45:20). Nghĩa là cái tâm của mình nó chưa phát ra những cái điều ác, nó đang sống yên lành thì chúng ta phải tu tập. Nhưng mà khi mà nó có những điều ác, nó có những hành động ác rồi thì chúng ta phải truyền lệnh ngăn dứt nó liền. Đó là chúng ta dùng pháp dứt để dứt để ngăn dứt mà có sự kiện xảy ra. Cho nên phải biết áp dụng, Thầy nói phải biết áp dụng pháp hướng. (BBT:BN,14,E00:40:11),
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét