18/1/15

GIÁO ÁN TU TẬP CỦA NGƯỜI CƯ SĨ BĂNG SỐ 15

BĂNG SỐ 15

(BBT:CĐ,15A,B00:00:09)(BBT:BN,14,B00:40:13)
Như khi bây giờ mình có một sự việc gì đó, thấy con rắn mình đập, mình đã giết một con rắn rồi đó. Thì lúc bấy giờ cái sự giết đó mình phải dùng pháp hướng ra lệnh: từ nay về sau phải chấm dứt. Đó là dùng pháp hướng đúng, đúng chỗ, đúng thời điểm. Còn bây giờ mình chưa có giết gì hết mình bảo nó: “đừng giết, đừng giết, dứt đi” thì cái đó là cái sai, truyền lệnh sai. Bây giờ mình chưa có làm gì đau khổ chúng sanh hết thì mình dùng pháp thương yêu chúng sanh mình nhắc nhở, mình trau dồi lòng thương của mình để cho mai mốt nó gặp con vật dữ nó không có giết. Đó là chúng ta phải áp dụng đúng. Chứ không lúc nào cũng ra lệnh, lúc nào chúng ta cũng hét hò trong tâm của chúng ta. Thì cái đó là chúng ta làm cho nó rối loạn, không biết cái nào mà làm hết. Nó có làm ác đâu mà răn nó giữ vậy. Các thầy phải hiểu. Cho nên sự tu tập khó là ở chỗ chúng ta biết áp dụng. Mà nếu không khéo áp dụng thì nó không hiệu quả, không kết quả cho quý thầy. Thì nói sao mà pháp không có vi diệu. Nó không có vi diệu là do chính chỗ áp dụng sai.
Cho nên gần Thầy, các thầy mà sai thì có Thầy sửa, Thầy biết. Còn không gần Thầy là một điều rất là khó, vì áp dụng pháp hướng và pháp tùy này mà không đúng cách thì nó trở thành sai mất đi, nó không đơn giản được.
Khi tâm chưa phóng khởi tưởng điều ác thì ta phải hằng trau dồi tâm ta bằng pháp hướng đến sự thương xót chúng sanh để triển khai lòng từ bi của ta thì mới mong nó không sanh khởi ác pháp. Pháp hướng để trau dồi lòng thương xót ví như sợi dây mũi buộc con trâu, nhờ nó mà nó mà tâm không khởi ác pháp. Nghĩa là cái pháp hướng là như chúng ta cột cái sợi dây nó đó, chúng ta muốn lôi ở đâu thì nó cũng theo hết, còn pháp dứt thì nó khác. Pháp dứt khi mà nó đã thuần thục rồi thì chúng ta dứt. Còn bây giờ nó chưa thuần thục, nhưng khi nó làm điều ác là chúng ta phải dứt, phải la hét nó. Như bây giờ con chó mình nuôi nó chưa thuần thục mà nó hay đi bắt gà người ta, thì bắt đầu mình la hét nó, mình chặn nó trước đi, sau đó mình tìm cách mình dụ dỗ nó để cho nó thuần hóa trong thiện pháp, nó không có bắt gà người ta nữa, thì như vậy đó là mình biết nuôi chó, mình biết dạy chó.
Nó là một phương pháp ngừa bệnh. Cái pháp mà chúng ta trau dồi cái tâm mình như vậy, đó là trau dồi cái tâm từ bi thương yêu chúng sanh như vậy, đó là cái pháp ngừa bệnh. Còn cái pháp dứt bỏ là cái pháp hướng để đoạn dứt tận gốc bằng sức lực tinh thần, làm cho nó không còn ác pháp trong tâm ta nữa.
Đó thì phải song hành 2 cái, bởi vì trong Tứ chánh cần thì quý thấy đã thấy đức Phật dạy: các pháp ác chưa sanh - không cho sanh, đã sanh thì phải đoạn dứt, mà các pháp thiện chưa sanh - phải khởi sanh, mà đã sanh thì tăng trưởng. Rõ ràng bốn chánh cần này liên tục chúng ta phải có sự song hành, chứ không thể nào mà không có sự song hành được. Chớ không phải làm cho dứt các pháp ác rồi mới tăng trưởng pháp lành, thì đó là quý thầy nghĩ sai. Vừa là dứt pháp ác, thì phải vừa là phải thể hiện sanh các pháp thiện liền tức khắc. Bởi vì không giết hại chúng sanh thì tức là thiện rồi, thì ngay đó đã khởi thiện rồi, cho nên từ đó chúng ta càng trau dồi thiện, tức là làm cho nó tăng trưởng lên, tức là không làm ác nữa.
2. Trộm cắp, cướp giật, lấy của không cho là một điều cực ác, ta phải dứt trừ, từ bỏ viễn ly, xa lánh vĩnh viễn. Cái câu này là cũng là cái câu để dứt trừ đó, nghĩa là khi nào nghe nói dứt trừ, đoạn bỏ, viễn ly, xa lánh vĩnh viễn thì đó là câu hướng để mà tu tập dứt trừ, đoạn dứt cái tâm ác của chúng ta. Câu này chưa được đầy đủ, quý thầy nên thêm câu dưới đây:
Trộm cắp, cướp giật lấy của không cho dưới mọi hình thức nào cũng đều là một tội lỗi cực ác, phải dứt trừ, từ giã, xa lìa, từ bỏ, viễn ly, đoạn tận.
Bởi vì chúng ta nói câu trên nó chưa được đầy đủ nhưng nó ngắn gọn hơn để chúng ta ra lệnh nhanh chóng khi chúng ta đã thông suốt. Câu dưới mặc dù là trộm cắp lấy của không cho nó nhiều hình thức lắm: ăn lo hối lộ hoặc thế này thế khác, biển thủ. Đó là những tội trộm cắp chứ không phải là không trộm cắp. Nó có nhiều hình thức lắm, lường gạt người ta lấy cũng là nằm trong tội trộm cắp cướp giật. Cho nên ở câu thứ hai nó trọn vẹn đầy đủ để nhắc nhở chúng ta không có làm những điều như vậy. Điều đó là điều ác, điều không có tốt cho nên phải viễn ly đoạn tận nó đi, từ giã, từ bỏ đi, dứt trừ đi. Đó là những câu đoạn dứt nó. Thế cho nên nghe nói mình dứt ác, các pháp ác đã sanh thì dứt liền. Thật sự ra trong khi đó mình không trau dồi mình thì khi cơn sân thì quý thầy có dứt được nó không. Đâu có dễ gì dứt được, nó làm cho chúng ta điên khùng trong tâm rồi còn đâu mà biết, đâu còn sáng suốt nữa mà dứt. Cho nên bây giờ chúng ta chuẩn bị cho mình những tư tưởng, những sự dứt bỏ bằng chúng ta thấu được những cái lý của pháp ác. Vì vậy mà chúng ta thấu được những cái lý của pháp ác đó. Nhờ pháp hướng nó nhắc đi nhắc lại, nó làm cho chúng ta thấu được cái lý của pháp ác và đồng thời chúng ta còn tu tập pháp quán để suy xét những tâm niệm giận của chúng sanh như thế nào nó bừng bốc như lửa, như thế nào nó làm cho con người giận, sân đó nó phải như thế nào. Vì vậy tất cả những cái tu học chúng ta phải có quán nè, rồi có hướng nè, rồi có tùy nè nó mới đúng. Cho nên cái định Vô lậu nó kèm theo cái định Chánh niệm tỉnh thức. Vì vậy luôn luôn lúc nào nó cũng dùng pháp hướng, pháp tùy, nó không có xa lìa các hành động tu tập này.
Cho nên khi mà chúng ta chưa rõ cái pháp ác như thế nào thì chúng ta đặt cái niệm pháp ác đó. Như bây giờ chúng ta đặt cái niệm ăn trộm, ăn cắp đó trước mặt rồi chúng ta dùng tri kiến phóng ra rồi chúng ta quan sát, chúng ta theo dõi chúng ta xem xét. Trong khi xem xét chúng ta mới thật hiểu đó là cái pháp ác làm cho người ta đau khổ, làm cho người ta mất của, làm cho người ta tự tử, làm cho người ta chết dở sống dở ở trong cuộc đời khi người ta bị mất của. Khi mà quán sát được như vậy thì chúng ta thấy nó là cực ác. Mà cực ác thì chúng ta phải đoạn dứt. Vì vậy mà chúng ta mạnh mẽ mà đoạn dứt nó, không làm cái điều đó nữa.
Bởi vì cái Định vô lậu là để chúng ta nhìn thấu suốt các pháp mà quán. Định vô lậu là định dùng quán chớ không phải là dùng hướng. Thì như vậy chúng ta cần phải biết lúc nào dùng pháp hướng, khi nào dùng pháp tùy, khi nào dùng pháp quán thì như vậy mới có hiệu quả trên bước đường tu tập. Chớ không phải muốn tu như thế nào là cái tâm tham sân si của chúng ta nó hết được liền đâu, không phải dễ đâu. Hoặc là các pháp ác mà chúng ta dứt được liền đâu, không phải nói đơn giản được mà cả một công trình tu tập.
Đây là những câu pháp hướng tâm, nhắc tâm Như lý tác ý dẫn tâm vào đạo Giải thoát ác pháp, quý vị phải biết trước khi dùng pháp này tu hành dứt bỏ các ác pháp thì phải tâm chuyên nhất cảnh.
Nghĩa là như thế nào?
Thầy xin nhắc lại để quý thầy nhớ chớ không được đụng đâu ngồi đó. Nghĩa là mình muốn tâm chuyên mà nhất cảnh đó thì không được đụng đâu ngồi đó mà mình dùng Pháp Tùy, Pháp Hướng, pháp này kia lộn xộn. Muốn tu một cái pháp nào đó phải nghiêm chỉnh, phải tìm một cái nơi ngồi cho nghiêm chỉnh. Bởi vì Pháp không phải là đồ chơi, không phải là đụng đâu mình cũng có mà thể làm đó được mà đây là những pháp để cứu mình ra khỏi những pháp ác, cứu mình khỏi những đau khổ cuộc đời cho nên phải xem nó là những vật quý báu. Phải nghiêm chỉnh trước khi dùng một câu nào hướng, sự quán xét nào cũng phải nghiêm chỉnh mà quán xét thì nó mới có kết quả. Còn nếu mà chúng ta đụng đâu ngồi đó thì ngồi chơi chút chúng ta cũng ngồi đó mà quán xét cái này, quán xét cái kia, làm như là sanh vọng tưởng nghĩ ngợi chuyện làm ăn vậy. Thì cái chuyện đó không phải là cái người tu. Người tu là trước khi chúng ta khởi muốn một cái gì đó chúng ta chủ động điều khiển, ngồi xếp bằng lưng ngay thẳng đàng hoàng nơi cảnh yên tịnh chớ không được mà ngồi chỗ giữa chợ, ngồi chỗ đó suy nghĩ như tìm công ăn hoặc là tìm cách mưu mô kế này kế kia để lường gạt người để lấy của. thì điều đó không được.
Ở đây là chỗ giải quyết cái tâm giải thoát, làm cho chúng ta xa lìa các pháp ác thì phải tìm nơi yên tĩnh tịch mịch, rồi ngồi kiết già lưng thẳng, hít thở 10 hơi bình thường. Nghĩa là mình hít thở hơi bình thường, không được thở chậm mà cũng không được thở nhanh. Mà thở bình thường cho tâm gom lại, cho tâm gom lại theo hơi thở bình thường và tâm chuyên nhất trong hơi thở.
Bây giờ tâm nó đã bám chặt trong hơi thở chuyên nhất rồi, bởi vì tâm chuyên. Thì quý vị đặt niệm hướng tâm này ngay trước mặt mà dẫn tâm dứt trừ các ác pháp. Trong khi tu tập quý vị không nên để mất niệm (thất niệm). Cái niệm đặt đó thì quý vị không được quên, một lát quý vị nhớ hơi thở, một lát quý vị nhớ chuyện khác, một lát quý vị không nhớ thì tức là quý vị bị thất niệm. Cho nên Phật dạy thất niệm là không đạt được kết quả gì hết. Vì mất niệm tức là thất niệm mà thất niệm thì tâm mê, dao động thì sự tu không có kết quả.
Cho nên khi đặt cái niệm là phải tập trung trên cái niệm đó. Hồi nãy là mình tập trung trong hơi thở để mình gom cái tâm của mình lại. Khi mình đặt được cái niệm trước mặt rồi, thì cái niệm đó mình nhìn chăm chăm để mà quán xét cái niệm đó, suy tư cái niệm đó, tìm ra cái niệm đó để rồi chúng ta mới thấu suốt cái niệm đó. Có tu như vậy kết quả mới đến với quý vị vĩ đại, lậu hoặc của quý vị mới quét sạch. Còn quý vị tu mà không nghiêm chỉnh thì ngàn đời quý vị cũng chẳng đạt được cái đạo này đâu.
Câu này quý thầy dùng nó làm niệm, khi niệm hướng vừa dứt thì quý thầy tiếp một niệm nữa nhưng phải có một khoảng cách. Nghĩa là cái niệm đặt rồi quý vị quán xét rồi, nhất là vô lậu khi niệm được quán xét thông suốt rồi thì quý vị xả nghỉ không được tiếp tục cái niệm nữa. Nhưng về cái pháp hướng thì cái niệm này quý vị đặt cái niệm đó để quý vị trạch câu đó ra, quý vị hướng tâm, nhắc cái tâm mình rồi, câu này xong rồi thì cần có một khoảng thời gian xả nghỉ rồi quý vị mới đặt câu khác thay vào đó để quý vị trau dồi cái tâm của mình, lòng thương yêu của mình hay là dứt bỏ mạnh hơn nữa. Thì nó cũng phải có một khoảng cách chớ không phải câu này rồi đọc câu khác, đọc câu khác nữa. Quý vị liên tục như vậy thì một người huấn luyện voi, bò trâu mà làm vậy thì con voi, bò trâu nó cũng điên đầu, nó cũng không biết đâu mà làm nữa. Phải tập thuần thục cái này rồi để một chút cho cái tâm nó yên tịnh trở lại rồi mới đặt câu khác.
Đó, hôm nay Thầy dạy như vậy các thầy mới biết cách làm, biết cách tu chứ không khéo các thầy tu điên, tu khùng nữa. Bởi vậy không có kinh nghiệm tu thì làm sao hướng dẫn người ta tu hành được. Mà không hướng dẫn người ta tu được thì Phật pháp mai một, không còn ở trong thế gian này nữa.
 Thì quý thầy tiếp một niệm nữa nhưng phải có khoảng cách, một khoảng cách giữ tâm yên lặng theo hơi thở ra, hơi thở vào.
Quý vị nhớ ông Phật dạy rất kỹ chỗ này. Bởi vì người ta không nghiên cứu được cái giáo pháp của đức Phật. Khi muốn tu Định vô lậu, cũng như định Chánh niệm tỉnh thức, cũng như tất cả mọi thứ định để cho tâm gom lại, Phật nói định niệm hơi thở ra hơi thở vô khéo tác ý là như thế nào?
Bây giờ quý vị đi kinh hành mà để tâm gom vô tập trung thì hơi thở là đối tượng trước mặt quý vị tập trung rất dễ. Hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra. Nhắc như vậy, hướng tâm như vậy làm tâm của quý vị gom vô hơi thở. Bây giờ quý vị nói: Tôi đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành. Rồi quý vị bước đi, tâm quý vị tập trung vô bước đi đó liền, nó rời hơi thở nó tập trung vô đó. Đi một lát nữa rồi quý vị tác ý: hít vô tôi biết tôi hít vô, thở ra tôi biết tôi thở ra. Tức là quý vị gom lại thân quý vị.Vì hơi thở đó nằm trong thân quý vị, do quý vị gom vào thân nó.
Rồi quý vị nhắc: đi kinh hành tôi biết tôi đi kinh hành. Thì ngay đó nó tập trung vô hành động thân của quý vị. Như vậy sức tỉnh thức của quý vị càng ngày càng rõ ra.
Bởi vì Thầy dạy quý vị có cái tụ điểm, các vị phải hiểu, mà có cái tụ điểm lúc nào tâm nó cũng gom nằm đó để nó quan sát tất cả các hành động chớ không phải nó nằm dưới chân của quý vị. Mà nó nằm dưới chân của quý vị thì nó bị thất niệm, cho nên tỉnh giác của quý vị chỉ tỉnh giác mơ hồ chớ chưa phải là tỉnh giác. Vì vậy nhìn qua trong một tháng nay, cái sự sống của quý vị thiếu tỉnh giác cho nên phá Độc cư. Đó quý vị thấy rõ. Cho nên cái sự tu của quý vị có kết quả hay không, là một người thiện hữu tri thức người ta có kinh nghiệm, người ta biết được quý vị tu đúng, tu sai.
Đó lời đức Phật dạy vậy cho nên khi chúng ta nhập Diệt Thọ Tưởng Định chúng ta phải dùng hơi thở mà đi tới, không bao giờ lìa xa hơi thở, vì hơi thở là tụ điểm của chúng ta.
Đó là những cái Thầy đã hiểu biết được Phật và hiểu biết được qua kinh nghiệm tu hành của mình đã làm được những gì, đã thành tựu được những gì.
Khoảng cách giữa tâm im lặng giữa hơi thở ra, hơi thở vào quý vị nhớ phải nhắc tâm không để cho tạp niệm xen vào. Nhờ có nương bám chặt hơi thở thì lúc bấy giờ tạp niệm mới không xen. Do đó hơi thở ra tôi biết hơi thở ra, hơi thở vào tôi biết hơi thở vào.
Khoảng độ 10 hơi thở thì quý vị lại nhắc câu này để trau dồi lòng thương yêu của quý vị, để ngăn ngừa lòng tham lam của quý vị. Quý vị trạch câu này ra để dùng pháp hướng nhắc tâm, như lý tác ý:
Của cải tài sản của ta ta mất ta còn buồn khổ, có thể ta đi đến chết quyên sinh tự tử, lẽ nào ta lấy của người bằng mọi hình thức cho được.
Đó là cái câu này để cho chúng ta tu tập, trau dồi cái tâm chúng ta biết thương cái người mất của, làm cho chúng ta không còn bao giờ nỡ tâm lấy của người nữa. Đó là trau dồi cái tâm của mình, biết nỗi khổ của người khác, là cái người mất của cũng như mình mất của.
Đó là như vậy, mà sự thực hành thì phải như lời Thầy dạy vừa nãy thì quý vị mới có kết quả. Cái câu trước là dứt đoạn, câu này là trau dồi tâm biết thương người, vì thương người không lấy của người. Do vì vậy mà chúng ta phải có khoảng cách câu trên với câu dưới 10 hơi thở. Và 10 hơi thở đó gom tâm làm sức tỉnh thức, làm tụ điểm để chúng ta hướng câu kế trau dồi cái tâm thương yêu của chúng ta đối với muôn người. Vì vậy mà chúng ta không lấy của không cho. Các thầy thấy Thầy dạy có cách thức, có hẳn hòi, có pháp hành rõ ràng, nhưng quý thầy tu sai là quý thầy chịu trách nhiệm chứ thầy không chịu trách nhiệm ở sự tu sai đó. Thầy dạy quý thầy làm đúng thì quý thầy có kết quả mà không đúng thì quý thầy phải chịu lấy.
Câu 3: Tà dâm là một thứ sắc dục không chơn chánh, làm tan cửa nát nhà người và cả mình. Làm đau khổ gia đình mình và gia đình người. Ta phải chấm dứt thói sắc dục bất chánh này, ta ly khai từ bỏ xa lánh, viễn ly vĩnh viễn.
Đó là câu đoạn dứt tâm ưa sắc dục, ưa đi ve vợ người khác, ưa đi làm những chuyện đồi bại phá gia cang người khác. Thì đó là hành động tội ác cực lớn chứ không phải là nhỏ đâu. Làm tan nhà nát cửa người cho nên chúng ta lấy câu này mà nhắc tâm hằng ngày để trau dồi cái tâm mình dứt đoạn không có được cho nó phạm vào tội ác này.
Đây là một câu trạch pháp để dùng hướng tâm đoạn dứt pháp ác, trừ tà dâm thói xấu. Quý vị nào có căn bệnh này thì phải ngày đêm chuyên cần tu tập pháp hướng. Bởi vì có nhiều người mang tật này dữ lắm, còn có nhiều người người ta không có, còn có nhiều người mang tật này rất nặng. Thấy vợ con người ta là thích tới. Đó là những hạng người chuyên môn tà dâm. Cái tâm rất là tệ bạc.
Tà dâm là một tánh rất xấu làm cho con người mất thể diện, thọ tiếng xấu bạc tình bạc nghĩa, muôn đời ta phải dứt bỏ như dứt bỏ một vật thối tha bẩn thỉu nhất.
Đó là câu dứt nữa đó, câu pháp hướng này là câu dứt nữa chớ không phải là câu trau dồi. Cho nên ở đây chúng ta phải nhận ra những câu pháp hướng, trạch pháp ra câu nào cho đúng nghĩa của nó. Và đồng thời trong một thời gian mà tu 2 câu này thì chúng ta cũng phải có một thời gian cách nó ra để tập trung gom tâm lại rồi dùng lực tinh thần của chúng ta mà ra lệnh để cho nó dứt bỏ thì sau này tâm chúng ta nó mạnh dạn, nó xa lìa các pháp ác, nó không còn làm cái đó nữa. Bởi vì thói quen chúng ta mà tà dâm như vậy thì nó có thói quen thích thú của nó, nó có khả hỷ khả lạc nó làm cho chúng ta thích cho nên nó sai khiến chúng ta vì vậy mà chúng ta không dằn được nó, mà không dằn được nó thì chúng ta phạm phải tội ác rất lớn là phá gia cang gia đình của kẻ khác. Cho nên hàng ngày chúng ta tập luyện như vậy, 2 câu, câu trước và câu sau này chúng ta thường phải nhắc nhở khi chúng ta có tật xấu đó.
Tiếp tục quý thầy dùng câu thứ 2 này làm pháp hướng để răn nhắc tâm ḿnh thường xuyên xa lìa tánh xấu ác đó:
Đời người thường ao ước được hạnh phúc cuộc sống lứa đôi, bên nhau trung thành mãi mãi. Chẳng bạc tình bạc nghĩa vậy ta hãy biết thương người, mong cầu đem lại hạnh phúc cho người. Thì tánh tà dâm là một tánh xấu đem lại ta khổ người khổ, gia đình tan nát. Biết thương mình thương người ta hãy dứt trừ tánh xấu này.
Đây là câu pháp hướng gợi lòng thương yêu của người, của mình mà không làm hại gia đình mình, không làm hại gia đình người. Đó là câu pháp hướng trau dồi tâm chúng ta thương yêu mình, thương người đó để không làm cho gia đình tan nát. Đây là câu trạch pháp để hướng tâm nuôi lớn lòng thương yêu với sự an vui hạnh phúc của mọi người, nghĩa là của mình của người ở trong đó nữa, cho nên nhắc cái tâm của mình thường xuyên, dùng câu này nhắc. Khi mà dùng 2 câu trạch pháp trên để đoạn dứt tâm tà dâm thì chúng ta phải dùng câu dưới này để cho an ủi, chúng ta thấu suốt được lòng thương yêu chúng ta đối với sự làm tan nát đôi bên cả gia đình. Đó thì sự tu tập phải trau dồi, phải rèn luyện như vậy gọi là dứt ác mà tăng trưởng thiện.
Câu 4: Người có chánh hạnh (bây giờ về phần 4, tức là về phần ngôn ngữ rồi đó) ngôn ngữ không bao giờ nói chuyện không thật, luôn luôn nói những điều chơn thật không nói láo. Về cái ngôn ngữ, mà cái chánh hạnh ngôn ngữ thì không bao giờ người ta đặt láo nói chuyện không thật, nói lúc nào cũng luôn luôn chân thật.
Nói láo là một lời nói dối gạt người, làm cho người tin theo phải khổ sở, nó là một pháp ác.
Mà nói láo là một pháp ác bởi vì con người ta không chết mà nói chết, con người ta không té sông mà nói té sông. Đó là một điều kiện làm cho người ta khổ sở. Những điều mà nói như vậy điều đó là không đúng. Cho nên trong thời đức Phật ngài La Hầu La mới đến tu thì ông cũng có tật hay nói láo. Do đó có những người đến thăm Phật hỏi đức Phật có trong tịnh xá không? Thì đức Phật có trong đó ông nói không có, họ bỏ đi về. Còn khi nào mà đức Phật không có, ông nói có ở trong đó đó, có ở trong tịnh xá, họ vô tìm không thấy ông Phật đâu hết. Cho nên người ta mới nói với Phật là có chú sa di đó chú hay vọng ngữ quá, chú nói láo dữ lắm. Do đó mà Phật mới dạy cho La Hầu La bằng những đức hạnh như thế nào. Thì có dịp Thầy sẽ thuật lại những cái chuyện đức Phật giáo dục cho đứa con của mình, đứa con một của mình qua những pháp ác mà chú này đã phạm phải trong tuổi còn thơ ấu.
Bây giờ chúng ta trạch pháp ra về cái phần mà nói láo đây:
Nói láo là một tánh xấu ác, ta phải dứt trừ, từ bỏ viễn ly.
Đó là tác ý ngắn đó, ngay đó chúng ta nhấn liền: đó là một tánh xấu ác, ta phải dứt trừ từ bỏ viễn ly.
Câu 2: Nói láo là một tánh xấu ác, ác pháp, làm ta mất uy tín với mọi người. Vậy nay ta hãy từ bỏ, xa lánh pháp này.
Đó, khi mà người ta biết mình nói láo rồi thì sau này mình nói không ai tin mình hết. Cho nên câu thứ 2 nó lại dài hơn để chúng ta thấy rõ sự nói láo là nguy hại cho chính mình.
Câu 3: Ta là người tu tập tứ vô lượng tâm, tâm thương yêu rộng lớn đối với muôn loài, ta nỡ nào dối gạt chúng sanh. Ta phải từ bỏ, xa lánh nói láo để thực hiện lòng thương yêu rộng lớn.
Mình lấy cái lòng từ bi vô lượng của mình đó mà mình áp dụng để xoa dịu cái tâm của mình đừng có nói láo vì nói láo như vậy không đúng cách làm cho người khác khổ. Do đó mà chúng ta trau dồi lòng thương yêu của chúng ta.
Nói láo là không thương chúng sanh và không thương mình, ta phải chấm dứt, đoạn dứt tánh xấu ác này.
Đó là một câu để chúng ta dùng pháp hướng.
Câu 5: Thương người không được nói láo, vì nói láo là không thương người.
Đó là cái câu thứ 5.
Câu thứ 6: Nói láo là một tánh xấu cực ác, ta phải chấm dứt ngay.
Đó cái câu đó cũng là câu ngắn gọn để chúng ta ra lệnh chấm dứt nó đó. Quý thầy là đệ tử của Phật phải tu tập chánh hạnh ngôn ngữ, phải rèn luyện chánh hạnh ngôn ngữ dù bất cứ trong trường hợp nào. Dù chết nát thây các thầy cũng không được nói lời thiếu chân thật. Đó thì cái phần này khi mà chúng ta đã nhận mình là đệ tử của Phật, do đó chúng ta không được nói thiếu lời chân thật. Dù lúc bấy giờ người ta bắt buộc mình phải nói lời dối, mà họ giết mình thì mình thà chết không được nói dối, không được nói láo. Đó là người tu sĩ đạo Phật như vậy.
Cho nên xưa đức Phật có một thời tu tập ở trong núi, có một nhà vua đi săn nai, đuổi con nai, con nai chạy ngang qua chỗ đức Phật rồi chui dưới chỗ tảng đá chỗ đức Phật, mà nằm, mà trốn đó.
Nhà vua chạy đến hỏi ông có thấy con nai của tôi ở đây không thì ông Phật làm thinh.
Nếu mà nói con nai chạy luôn thì là nói vọng ngữ, mà nói con nai chui xuống cục đá của mình, là nói thật thì không vọng ngữ thì ông vua sẽ bắt con vật mà giết đi, thì mình mang cái tội chỉ cho người ta giết chúng sanh, cho nên mang cái tội sát sanh. Cho nên ông Phật ông ngồi tu ông không dám nói gì hết, ông làm thinh. Bởi vì 2 giới này, 2 pháp ác này nó kèm theo một trường hợp, cho nên ông Phật chỉ làm thinh mà chịu. Nhà vua xẻo tai, cắt 2 lỗ tai ông cũng chẳng nói, móc 2 con mắt cũng chẳng nói, chặt tay cũng chẳng nói. Cho nên cuối cùng thì ông thành tựu chỗ giữ gìn giới luật nghiêm túc. Thì các con thấy trong giới luật mà người tu hành người ta giữ có cái nói láo và sát sanh không mà người ta chịu chết đó. Đó thì sự tu tập của chúng ta là đệ tử của Phật hoàn toàn là chúng ta phải giống như Phật. Sau khi dạy Tứ bất hoại tịnh thì thân của Phật như thế nào, ý của Phật như thế nào thì chúng ta phải sống như vậy mới chính là Tứ bất hoại tịnh pháp. Bây giờ chưa tới Thầy chưa giảng dạy, chứ giảng dạy thì những câu chuyện này được nhắc đi nhắc lại cho quý thầy để rèn luyện mình sống đúng như Phật, tức là niệm Phật đó.
Hằng ngày phải rèn luyện, phải siêng năng theo pháp Tứ chánh cần mà tu tập. Nghĩa là phải siêng năng vì cái pháp này là pháp siêng năng, mà siêng năng thì mới dứt ác, mới tăng thiện được. Còn nếu không siêng năng chưa chắc gì chúng ta đã dứt ác được. Vì vốn cái tâm của chúng ta là cái tâm tích lũy, tâm tích trữ những pháp ác nhiều đời nhiều kiếp nên mới có thọ thân này, nếu mà nó đã tích thiện thì nó đâu có thọ thân này, nó phải thọ cái hóa thân. Nghĩa là nó sẽ biến hóa ra cái thân, chứ không phải nó còn cái thân mà sanh chỗ bẩn thỉu, thân mà sanh chỗ dục. Cho nên chúng ta ở đây là do chỗ thai sanh, vì cái tâm của chúng ta nó có những ác pháp cho nên nó mới sanh ở trong thai sanh. Còn những người mà thiện pháp, như Phật ví dụ, những người mà cõi trời thì họ là hóa sanh, họ không có thai sanh. Cho nên có người hỏi Thầy có hóa sanh hay không? Thật sự có hóa sanh. Bởi vì các thầy cứ nghĩ cái người mà tu tập như chúng ta mà khi thân định trên tâm, tâm định trên thân rồi, nhập được Tứ thiền rồi thì người ta ra lệnh thì cái thân này nó sẽ biến muôn ngàn cái thân, thì không phải là hóa thân sao. Ngồi đầy cái rừng này, ngồi đầy cái khu đất này, hàng trăm hàng vạn ông thầy như Thầy giống y mặt nào cũng giống y hết, mà bây giờ Thầy muốn cái thân này...tức là Dục như ý túc mà, muốn cái thân này lớn bằng cả nửa bầu trời này, nó tự nhiên sẽ lớn như vậy đó. Thì các thầy nghĩ có phải hóa không? Nếu không hóa làm sao làm được cái chuyện đó. Cái thân bây lớn đây mà hóa đứng nửa cái bầu trời này thì quý thầy nghĩ như thế nào? Cái chân nó thò xuống là kể như trái đất này nhẹp đi. Thì đó không phải là hóa sao? Vậy cho nên nó có thế giới hóa thân chứ đâu phải không có thế giới hóa thân. Cho nên Phật nói là cõi trời. Khi chúng ta hướng tâm về thiện thì chúng ta sẽ sanh vào hóa thân, mà chúng ta về dục thì chúng ta phải sanh về thai sanh. Đó thì các thầy phải thấy được 4 cái sanh của con người. Cho nên các thầy nghĩ rằng khi chúng ta hoàn toàn dứt dục, không còn tình dục thì chắc chắn con người trên thế gian này không có. Đâu không có, chúng ta hóa sanh mà, như bây giờ Thầy muốn có 100 người ngồi trong khu đất này, Thầy chỉ cần nhập cái định đúng nó thầy câu hữu thì ngay đó nó ngồi 100 người chứ đâu phải một người. Quý thầy ngạc nhiên, quý thầy chưa đến chỗ này quý thầy chưa thấy. Khi nào ở đây có chúng tới đó rồi thì quý thầy trực tiếp thấy, còn bây giờ đem ra biểu diễn coi như làm xiếc cho quý thầy coi thì cái chuyện đó là chuyện mê hoặc, chuyện làm cho người ta không đi vào cái chánh của Phật pháp.
Các thầy nên nhớ chỉ có tùy pháp Tứ chánh cần mà quý thầy dứt ác.
Nghĩa là tùy theo, nương theo Tứ chánh cần đó. Nghĩa là cái pháp tùy, tùy là như thế nào? Bởi vì nương theo pháp đó mà dứt được các ác pháp, tăng trưởng các thiện pháp. Các thầy nên nhớ chỉ có tùy pháp tứ chánh cần mà quý thầy dứt ác, làm thiện. Đó là con đường đạo đức nhơn quả chơn chánh của đạo Phật. Đó thì con đường đạo đức chơn chánh của đạo Phật thì nó chỉ có Tứ chánh cần là nó giúp cho quý thầy thực hiện được nhơn quả chân chánh của nó, nghĩa là đem lại những quả thiện, nhân thiện. Mà chính đức Phật đã xây dựng đạo pháp của mình, giáo lý của mình trên con đường của nhân quả, trên cái nền tảng của đạo đức nhân quả.
Quý thầy phải lấy những câu trên mà thầy đã trạch ra pháp để quý thầy dùng nó hướng tâm NHƯ LÝ TÁC Ý. Hằng ngày phải siêng năng tinh tấn đặt niệm trước mặt, đừng để thất niệm, chuyên cần tu tập, như vậy tâm quý vị thanh tịnh. Quý vị sẽ chỉ được các hành trong thân, nhập chánh định, dẫn tâm đến Tam minh, quý vị thành tựu đạo giải thoát.
Nghĩa là chỉ cần tu Tứ chánh cần, thực hiện được trí tuệ, thực hiện được các pháp thiện thì tâm quý vị nó sẽ thanh tịnh. Mà khi thanh tịnh đó thì quý vị mới chỉ được các hành ở trong thân của quý vị. Mà chỉ được các hành trong thân thì quý vị thân tâm mới nhập định được, mà nhập định được thì quý vị mới hướng tâm đến Tam minh, quý vị mới thành tựu được đạo giải thoát vô lậu.
Nó không đơn giản, mà chỉ bắt đầu vô từng pháp đã có những hiệu quả của nó, cho nên chúng ta càng đi sâu thì chúng ta thấy pháp này nó bổ túc cho pháp kia. Nhưng mục đích của nó là nhắm vào dứt ác mà tùng thiện, tăng trưởng thiện để thực hiện được cái tâm thanh tịnh không còn một chút ác pháp trong đó. Do vì vậy đó mà nó mới tịnh, mới chỉ được các hành, làm chủ được sự sống chết ở trong thân của chúng ta.
5. Quý thầy là những người tu sĩ đạo Phật, quý thầy phải giữ gìn chánh hạnh trong ngôn ngữ, quý thầy không được nói xấu ác, không được đặt điều ra nói xấu hoặc vu khống cho người.
Đó thì cái phần nói về ác xấu đó, nói về chánh hạnh của ngôn ngữ thì nó có 4 cái phần, những cái phần trước thì quý thầy đã học rồi, bây giờ tới cái phần mà mình nói xấu người khác. Mà cái người trau luyện giữ gìn chánh hạnh ngôn ngữ thì không được nói xấu ai, người ta làm xấu thì người ta xấu, không được đặt điều ra nói xấu người khác hoặc là vu khống người khác, người ta không làm việc đó mình nói người ta làm. Ví dụ người ta không ăn trộm mình nói người ta ăn trộm, người ta không lấy của mình mình nói người ta lấy của mình, thì điều đó là đặt ra mình vu khống, vu oan người ta. Thì cái đó người mà trau dồi chánh hạnh ngôn ngữ thì không được nói những điều đó. Đây là pháp ác thứ 5 quý thầy cần phải tu tập trau dồi tâm mình để đoạn dứt, từ bỏ, để được xa lánh tánh ác này. Có nhiều người họ lấy sự mà nói xấu người hoặc đặt điều ra nói xấu người họ thích lắm, họ làm cái đó họ thấy thích thú lắm, cho nên họ thường hay đem chuyện người này nói chuyện người kia, nói xấu người ta, thì cái tánh đó là cái xấu ác, ngôn ngữ đó không phải là chánh hạnh trong ngôn ngữ, mà đó là những ngôn ngữ tệ bại, những ngôn ngữ không có ra gì.
Đem chuyện xấu của người nói cho người khác biết là một điều ác, làm cho người khác đau khổ, ta phải dứt trừ, từ bỏ viễn ly tật xấu ác này.
Đây là câu hướng đây, đem chuyện xấu của người nói cho người khác biết là một điều ác làm cho người khác đau khổ ta phải dứt trừ, từ bỏ viễn ly tật xấu ác pháp này.
Câu 2: Đặt điều ra nói xấu người là một pháp ác, là một tánh xấu tệ của ta, ta phải dứt trừ, ta phải từ bỏ như bệnh cùi.
Đó là câu thứ 2 của pháp hướng
Câu thứ 3: Nói lời vu khống oan ức khiến người ta tức tối sanh ra tự tử, quyên sinh hoặc oan ức tù tội tử hình đó là một pháp ác, một pháp cực ác, ta phải từ bỏ, dứt bỏ vĩnh viễn.
Đó là câu 3.
Câu 4: Ta là tu sĩ đạo từ bi, thương khắp chúng sinh nỡ nào đem chuyện xấu của người nói cho người khác biết để cho người khổ sở như vậy, là ta làm mất từ bi nên ta phải dứt bỏ tật xấu ác này vĩnh viễn.
Đó là những điều kiện mà ta cần phải dùng pháp hướng này để trau dồi và để dứt bỏ tâm chúng ta trong những ngôn ngữ thiếu chánh hạnh.
Câu 6: Ta là người trau dồi lòng thương khắp chúng sanh nỡ nào ta đặt điều nói xấu người, nói xấu người là một điều cực ác như vậy, ta không còn là con người biết thương chúng sanh. Vậy từ đây ta phải bỏ tật xấu này.
Đó là một câu để chúng ta ngăn ngừa cái ngôn ngữ không được chánh hạnh.
Vu khống, nói oan ức cho người là một hành động tà ngôn hạnh, giết người bằng gươm miệng rất là ác độc.
Đó mình vu khống người ta, là mình giết người ta bằng cái lưỡi gươm miệng của mình, cho nên mình phải dứt bỏ.
Người tu sĩ đạo từ bi thương khắp chúng sanh ta phải dứt trừ vĩnh viễn tà hạnh ngôn ngữ này để thực hiện lòng thương yêu phủ trùm vạn hữu.
Đó thì câu này là câu trau dồi tâm thương yêu của chúng ta. Ở đây quý thầy nhớ kỹ lấy những câu trạch pháp này làm pháp hướng như lý tác ý để thường xuyên dứt bỏ và trau dồi lòng thương yêu chúng sanh rộng lớn, phải nghiêm chỉnh tu tập đừng để thất niệm, có như vậy quý thầy mới chứng được đạo quả bồ đề.
Thì đến phần này chúng ta dứt được 4 cái khẩu nghiệp mà nó không chánh hạnh, cho nên phải cố gắng mà trau dồi. Người ta tai họa mà xảy ra đều do cái miệng lưỡi của chúng ta mà ra. Cho nên hầu như quý thầy không thấy hạnh độc cư, vì hạnh độc cư nó giúp cho quý thầy ngăn chặn được 4 điều xấu ác của cái miệng chúng ta. Người làm thinh thì không bao giờ xảy ra 4 cái ác khẩu này, mà người hay nói chuyện thì luôn luôn xảy ra 4 ác khẩu này. Nghĩa là nói nặng nói nhẹ người, từ người này, từ người kia, thì đó là những ác khẩu chứ không phải những thiện khẩu. Vì thiện khẩu thì thương yêu nhau làm sao có từ giã nhau, làm sao có từ khước nhau, đó là những điều ác khẩu. Cho nên ở đây những người dùng ác khẩu thì chúng ta biết là những người nhiều chuyện, hay nói chuyện, mà người không dùng ác khẩu thì là người không nói chuyện, mà không nói chuyện tức là độc cư. Dù các thầy có nói lời lành đi nữa, nhưng lời lành đó chưa hẳn đã là lành vì trong đó có hàm ý những gì cá nhân của mình trong đó, mà có những lời nói có cá nhân trong đó chắc là không phải lành.
Quán xét cho cùng chúng ta thấy lời nói là một tai hại rất lớn cho loài người, nếu mọi người không nói thì chắc chắn là cảnh giới ở thế gian này có thể gọi là thiên đàng. Lời nói là để biểu diễn ý nghĩ của chúng ta, nhưng ý nghĩ sao lại là thương, là tốt mà lời nói để mọi người hiểu ý ta mà lại làm cho đau khổ thì đó là cảnh giới thế gian này trở thành địa ngục.
7. Lời nói hung ác là lời nói dữ tợn làm cho người ta khiếp sợ, chửi rủa, mạ nhục, lời nói nạt nộ làm cho người ta khiếp đảm, hăm dọa, đe dọa nói chung là lời nói hung dữ. Làm cho chúng sanh sợ hãi đó là lời nói tội rất ác lớn khiến cho ta sợ hãi bất an, vì thế chúng ta là những người tu sĩ đạo Phật luôn luôn phải giúp chúng sanh đừng sợ hãi. Phải cho họ những lời nói, những hành động yêu quý khiến cho họ không sợ và được an ổn vui mừng. Muốn được ban vui cứu khổ phò nguy cho chúng sinh thì ta phải luôn luôn tu tập dứt bỏ lời nói hung dữ.
Lời nói hung dữ là lời nói cực ác làm cho chúng sinh sợ hãi, ta hãy mạnh dạn quyết tâm từ bỏ xa lìa đoạn dứt lời nói hung dữ.
Đó là câu hướng tâm thứ nhất.
Câu hướng tâm thứ 2:
Từ đây về sau ta không được to tiếng, lớn tiếng bất kỳ với ai vì to tiếng lớn tiếng là lời nói hung dữ. Ta phải dứt bỏ và từ giã nó để chúng sinh không còn sợ hãi nữa.
Đó là câu 2.
Câu 3: Ta là người tu sĩ đạo Phật phải biết thương người, cớ sao ta lại dùng lời nói hung dữ để làm cho mọi người sợ hãi, từ đây thương người ta không được nói lời hung dữ nữa.
Đó là câu 3.
Câu 4: Tâm ta luôn luôn thương khắp chúng sinh, ban rải lòng từ khắp cùng, không làm cho chúng sinh sợ hãi. Vậy ta phải luôn luôn có những lời nói ôn tồn, nhã nhặn, từ hòa, sáng suốt, đúng thời.
Đó là câu 4.
Này quý thầy, quý thầy phải siêng năng dùng những câu pháp hướng này, đã trạch pháp tốt đẹp, cứ tùy theo pháp, tùy theo tâm, tùy theo sức mà nỗ lực tu tập trau dồi cho đúng cách. Đến đây thì Thầy nói cho quý thầy thấy, bây giờ mình đặt ra rất nhiều nhưng mình phải lựa câu nào cho hợp với mình, rồi tùy cái sức khỏe của mình, chứ không phải điên khùng mình thấy câu nào cũng ngồi liên tục mà trau dồi, mà hướng tâm mà nhắc thế này thế khác đâu. Ngồi riết cơ thể của quý thầy mỏi mệt, rồi quý thầy đâm ra ác pháp ở trong đó chứ không phải là thiện pháp nữa. Cho nên chúng ta lượng cái sức của mình, mỗi ngày chúng ta dùng một câu hoặc 2 câu cũng đủ lắm rồi, đâu cần phải tu cho nhiều. Tu mà vừa sức với nó chúng ta mới thấy có sự an lạc, tu quá điên đầu, muốn tu cho mau thành Phật thì cái chuyện đó là chuyện sai. Chúng ta trau dồi đâu có nghĩa là trong một bữa. Muốn huấn luyện một con vật chúng ta cũng phải từ từ, 5 tháng, 3 tháng nó sẽ trở thành thuần thục, chớ chúng ta vội vàng nghe như vậy rồi ngồi li bì rồi quán li bì, rồi ngồi li bì mà hướng lu bù, tu không biết cơ thể mình ra sao, không biết sức khỏe mình ra sao. Tu riết chán nản, hết muốn tu nữa. Đó là cái sai, cái không đúng, cho nên Thầy thường nhắc nhở là mình phải tùy theo sức, nghĩa là mỗi ngày mình chia ra mình tu 1 lần, 2 lần là đủ lắm rồi. Để cho mình được xả nghỉ, tâm hồn mình được thanh thản, tâm mình nó có sức gom lại. Còn mình tu vừa gom đó bây giờ gom nữa, gom riết, cái đầu óc nó đen tối, cái đầu óc nó rối loạn không còn bình tĩnh sáng suốt, nó mệt nhọc, nằm đâu thì nó muốn ngủ đó rồi. Thì bây giờ nó từ cái sai này nó dẫn đi đến cái sai khác, cuối cùng thì quý thầy chẳng thấy đạo, mà thấy mình gần như muốn điên. Nói thì nhiều nhưng mà chọn ra những câu đúng để chúng ta tùy theo căn cơ của mình mà lấy những câu pháp hướng đó mà tu tập cho chín chắn và nó phải hợp thời, hợp lý, hợp sức khỏe. Những điều này Thầy chú ý quý thầy rất nhiều. Quý thầy có nhớ kỹ như vậy thì quý thầy trau dồi, tu tập thì nó mới có kết quả lớn.
Đây thầy nhắc lại: Này quý thầy, quý thầy phải siêng năng dùng những câu pháp hướng này, đã trạch pháp tốt đẹp, cứ tùy theo pháp, tùy theo tâm, tùy theo sức mà nỗ lực tu tập trau dồi cho đúng cách thì kết quả đến với quý vị rõ ràng. Vì quý thầy thường dùng pháp hướng nên pháp này có hiệu quả rất lớn, nghĩa là hàng ngày mình cứ dùng pháp hướng mình tu tập đó, hiệu quả của nó rất lớn. Pháp hướng là pháp dùng tinh thần để mà điều khiển, quý thầy lưu ý cái phần đó. Còn bây giờ quý thầy mà vận dụng tập trung là quý thầy dùng cái sức tập trung, mặc dù nó có tinh thần tập trung thật nhưng mà nó ức chế. Mà quý thầy còn phải dùng cơ để mà thở cách này cách khác đó là sự ức chế, nó không phải đâu. Còn vô pháp hướng chúng ta dùng tinh thần chúng ta hét lên một tiếng rồi chúng ta thản nhiên như thường, cho nên nó không có kéo dài cái sự tập trung, cho nên nó không ức chế ai hết. Mà cái sức tinh thần ra lệnh nó mạnh hơn cái sức ức chế của chúng ta nhiều. Cái sức tập trung của chúng ta càng ngày nó làm cho cơ thể chúng ta mất đi sức khỏe và nó không đạt đến cái độ cao cũng như cái sức tinh thần của chúng ta. Cho nên khi mà pháp hướng quý vị mà tu tập như vậy sau này nó, pháp hướng nó rất là hiệu quả, mà nó rất hiệu quả thì tới chừng quý thầy muốn nhập định thì chỉ cần ra lệnh là nó nhập định, bảo nó các hành phải ngưng, hơi thở phải ngưng là nó ngưng liền, thì quý thầy sẽ nhập được tứ thiền liền. Vì quý thầy thường dùng pháp hướng nên pháp này có hiệu quả rất lớn, về sau quý thầy chỉ cần hướng tâm là quý thầy đã nhập định Tứ thiền tức khắc, không phải chờ đợi lâu dài. Cho nên quý thầy nghe ở trong kinh điển Phật dạy, có nhiều người họ tu quét sạch cái vô lậu mà họ dùng pháp hướng, pháp tùy thôi, chỉ có pháp ví dụ như trên thân quán thân họ thôi, rồi họ dùng pháp hướng như vậy, cuối cùng họ nương theo pháp tùy của TỨ NIỆM XỨ hoặc là TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, họ dùng như vậy cho nên cái pháp hướng nó hiệu quả, đến khi vô Tứ thiền họ chỉ ra lệnh là nhập Tứ thiền. Cho nên trong vòng tuần lễ hoặc là nửa tháng là họ đã nhập Tứ thiền. Mình thấy trời ơi sao mình tu lâu quá, mà Tứ thiền vất vả vô cùng, mà sao quý tỳ kheo trong thời đức Phật sao họ tu dễ vậy. Đó là tại vì mình tu không đúng cách, chớ không phải là nó khó. Tại vì pháp hướng là pháp truyền lệnh của tinh thần rất mạnh, còn pháp mình đang tu đây là mình ức chế tâm của mình để vào 4 thiền cho nên nó rất khó khăn, đâu phải dễ.
Để làm sáng tỏ sự trau dồi tu tập các hành động thân tâm của quý vị đi về hướng thiện pháp thì quý vị cần phải lưu ý bài kệ này để quý vị thực hiện Từ vô lượng tâm và Tứ chánh cần cho được viên mãn. Đây bây giờ Thầy sẽ đọc bài kệ này để quý thầy biết được cái Tứ chánh cần với cái Từ vô lượng tâm, hai cái nó kết hợp để nó thành ra một bài kệ mà chúng ta theo đó mà chúng ta tu tập các thiện pháp:
Từ tình thương ta được sinh ra
Do tình thương ta được nuôi lớn
Có tình thương ta sống chan hòa
Nhờ tình thương chúng ta giải thoát
Từ tình thương ta được sinh ra.Đó quý thầy thấy không, nếu cha mẹ mà không thương nhau làm sao mình có mình đây. Cho nên từ cái tình thương cha mẹ mới sinh mình ra.
Do tình thương ta được nuôi lớn.Nếu mà cha mẹ sinh con ra mà không thương thì quăng nó ngoài đồng chứ làm gì mà nuôi, ôm ẵm nó còn bé bỏng như vậy quá là cực khổ chứ phải đâu mà. Bây giờ cứ thử hỏi quý thầy ẵm con người ta mà nuôi đi, nếu mà không thương quý thầy ôm ẵm nổi không? Rất là vất vả cực khổ cho nên do tình thương mà ta được nuôi lớn.
Có tình thương ta sống chan hòa.Quý thầy thấy rõ, nếu mà chúng ta không có tình thương thì chúng ta chưa sống với vạn hữu đâu, cho nên từ bi hỉ xả đó là cái tình thương của chúng ta để sống chan hòa với vạn hữu. Cho nên chúng ta phải tập luyện nó chứ không thể nào nó có được tình thương đó được.
Nhờ tình thương chúng ta giải thoát.Vì chúng ta thực tập như vậy đó, do đó tình thương chúng ta đối với các pháp chúng ta được giải thoát không còn bị chướng tâm, không có bị chướng ngại nữa.
Đó thì trong một cái tình thương, trong tình thương đó mà chúng ta ở đây có một bài kệ: Từ - Do - Có - Nhờ. Bốn cái chữ Từ - Do - Có - Nhờ mà chúng ta được giải thoát. Nếu chúng ta thiếu thì chúng ta không giải thoát. Không có từ tình thương cha mẹ sinh ra thì ta có con người đâu mà tu tập, phải không?(BBT:BN,14,01:22:48)(BBT:CĐ,15A,E00:44:34) Cho nên Phật gọi người sinh mình ra gọi là đại bố thí. Bây giờ do tình thương ta mới được nuôi lớn. Nếu mà không có tình thương của (BBT:CĐ,15B,B00:00:00)cha mẹ thì làm sao mà nuôi lớn. Do đó:
Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Có ơn nào bằng ơn sinh thành dưỡng dục đâu. Cho nên đó là cái lớn, cái đại bố thí của chúng ta.
Rồi bây giờ chúng ta muốn được cái sự an ổn, cái sự hạnh phúc, sự an vui sự giải thoát nơi tâm hồn của mình thì mình phải tu tập rèn luyện tình thương đó thì mình mới sống hòa tan được trong vạn hữu, trong mọi người. Còn bây giờ quý thầy đâu có thương, quý thầy thương quý thầy á nên động ai quý thầy cũng xạc hết à, cũng mắng, cũng chửi người ta được hết, thì như vậy là có hòa chan sự sống với ai được không? Cho nên chúng ta phải tu tập Tứ vô lượng tâm. Mà tu tập Tứ vô lượng tâm mà không có dứt bỏ các pháp ác thì không thể có được Tứ vô lượng tâm, cho nên phải có Tứ chánh cần. Các thầy thấy 2 câu dưới chúng ta thấy con đường tu chúng ta rất rõ. Rồi nhờ tình thương chúng ta mới giải thoát. Do đó chúng ta mới thấy con đường giải thoát chúng ta cho đến khi đó tâm bất động trước mọi cảnh mà. Mục đích của đạo Phật là như vậy, bất động trước mọi cảnh chứ đâu phải do thiền định, do cái gì.
Đó là chỗ chúng ta thấy được 4 câu kệ này để chúng ta theo đó mà chúng ta tu tập Tứ vô lượng tâm và Tứ chánh cần, cho nên một cặp pháp này phải song song với nhau, theo nhau mà tu tập. Bài kệ này quý thầy phải hiểu:
- Từ tình thương cha mẹ thương nhau mới sinh chúng ta, chúng ta mới có ra đời, ơn rất nặng, nên Phật gọi cha mẹ là đại bố thí.
- Do tình thương chúng ta được nuôi lớn: khi sinh chúng ta ra, cha mẹ thấy mặt ta tự nhiên sinh lòng thương con hơn thương một vật gì khác trên đời này, nên tận tụy hy sinh mình nên cha chịu vất vả dầm sương giãi nắng chịu cực khổ nuôi dưỡng con. Mẹ ăn đắng nằm cay chịu ướt chịu hôi, chịu thối để con được lớn khôn nên người, biết bao kể xiết công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, chỉ vì lòng thương mà chẳng bao giờ than thân trách phận, chỉ thấy con mạnh khỏe an vui là sung sướng nhất cho mình. Vì lòng thương cha mẹ phải vượt qua những nỗi nhọc nhằn, những nỗi khổ đau.
Có tình thương ta sống chan hòa.Vì tình thương có 2 loại. Ở đây đến chỗ này chúng ta mới phân biệt, 2 câu dưới này chúng ta mới phân biệt để chúng ta thấy có 2 loại tình thương: một loại thương hạn hẹp, thương cá nhân mình, do tình thương này mà tạo ra muôn ngàn thứ đau khổ cho mình, cho người, tình thương này gọi là tình thương ích kỷ, tình thương nhỏ mọn, tình thương hạn hẹp chỉ biết thương mình, chẳng biết thương ai, đó là tình thương rất là nhỏ. Chỉ có lo cho mình thôi, như nhà vua mà nói thương bà hoàng hậu, mà bà đi với ai thì nhà vua giết bà. Đó, thì đó là thương ích kỷ, thương nhỏ đó chớ không phải thương lớn đâu. Hai: tình thương rộng lớn, từ bi vô lượng, Tứ vô lượng tâm đó, là tình thương rộng lớn vô lượng vô cùng, tình thương này giải thoát cá nhân thoát khỏi bản ngã con người, tình thương bao la vô bờ bến. Nó làm chúng ta thoát ra khỏi cái cá nhân của mình, cái ích kỷ của mình.
Hai câu trên là tình thương hạn hẹp, nghĩa là thương cha mẹ, thương con, thương này kia đó là thương hạn hẹp đó, nhưng nó cũng xuất phát từ lòng thương, lòng thương yêu này là lòng thương yêu vô minh, phải xét lòng thương yêu hạn hẹp đó là lòng thương yêu vô minh, không thấy xa nên thương mà khổ, gói ghém trong ích kỷ. Nhưng cũng nhờ có tình thương mà ta mới có mặt trên hành tinh này, nghĩa là dù nó hạn hẹp nhưng nó có tình thương chúng ta mới có sự hiện hữu ở trên cái hành tinh này. Từ tình thương cá nhân nhỏ hẹp này ta chuyển biến trau dồi, lần lần tình thương này bằng một cái trí tuệ minh mẫn, thoát ra ích kỷ nhỏ mọn, hẹp hòi, từ đó biến tình thương này trở thành tâm từ bi vô lượng. Từ cái tình thương đó, bây giờ chúng ta thấy 2 tình thương có khác nhau không? Nhưng mà chúng ta biến dần, biến dần làm cho chúng ta sáng suốt ra không còn vô minh nữa, cho đến chúng ta dẹp được những nhỏ mọn ích kỷ của chúng ta thì đến đó cái tâm từ bi vô lượng của ta nó sẽ thực hiện rộng lớn ra. Khi đã thấm nhuần lòng đại từ bi vô lượng này thì tâm hồn ta bất động trước vạn pháp.
Các thầy thấy chỉ có tu Tứ vô lượng tâm không, tu Tứ chánh cần không mà bất động trước vạn pháp, thì đó là mục đích của đạo Phật rồi còn phải tu cái gì nữa. Như vậy lúc bấy giờ chúng ta có định không? Có. Tại sao? Tại vì chúng ta có cần tu nó đâu, chúng ta chỉ cần dùng pháp hướng mà ra lệnh các hành ngưng là chúng ta đã làm chủ cái sống chết, thì nhập Tứ thiền rồi, đồng thời lúc đó chúng ta. Bởi vì cái pháp hướng nó có hiệu quả, nó là cái sức lực của tinh thần của chúng ta đã từng tập trau dồi những cái này mà nó thành tựu những pháp này thì lúc bấy giờ chúng ta chỉ cần ra lệnh là chúng ta, có cần tập tu Tứ thiền đâu. Cho nên khi nghe các thầy tỳ kheo chỉ cần hít thở trong mấy cái là các thầy đã nhập Tứ thiền trong một ngày, hai ngày hoặc là một đêm mà người ta đã nhập Tứ thiền, mà nhập Tứ thiền xong, thì ông Anan ông khỏi cần mở cửa hang ông cũng chui vô được, qua được. Thì các thầy thấy đó không phải là câu hữu Tứ như ý túc sao. Cái chuyện ở đây quá thật chứ không phải cái chuyện mà nói dối đâu. Đó là cái chuyện trên thân khi mà cái pháp hướng mà đã hiệu quả. Bởi vì mục đích của chúng ta là tu tập cái pháp hướng chứ không phải là tu tập cái ức chế, mà tu tập cái ức chế nó sẽ trở thành thiền tà, thiền bậy không đúng. Ngồi đây mà giữ tâm không vọng tưởng đó là ức chế, ngồi đây để nhiếp tâm trong hơi thở để đè nén tâm không vọng tưởng đó là ức chế, cái đó sai. Bởi vì ly dục ly ác pháp là tâm chúng ta thanh thản, là định chứ đâu có gì khác hơn. Mà khi tâm thanh tịnh định là chúng ta điều khiển cái pháp hướng thì làm gì không ngừng, một thân biến ra muôn thân thì cái đó là dùng pháp hướng chứ gì. Vì chúng ta Dục như ý túc, cái muốn của chúng ta muốn như thế nào, bây giờ chúng ta muốn cái thân này ngưng thở thì nó phải ngưng thở. Thì các thầy cần gì phải rèn luyện hằng ngày, phải nhắc nó ngưng đâu, còn bây giờ chúng ta ở trên hơi thở mà bảo nó cứ ngưng, ngưng hoài mà nó có ngưng được đâu. Đó là cái tu sai chứ không phải tu đúng pháp.
Bây giờ Thầy nhắc trở lại để cho quý thầy thấy con đường của đạo Phật là nhắm ở chỗ nào? Chỗ tâm thanh tịnh. Mà tâm thanh tịnh thì ác pháp phải lìa, ác pháp còn, tâm ham muốn còn thì không bao giờ là tâm thanh tịnh.
Sống chan hòa cùng muôn loài vạn vật cỏ cây bên nhau, thương yêu thắm thía. Có tình thương ta sống chan hòa. Lúc bấy giờ tình thương đó luôn luôn ngự trị trong tâm ta khiến tâm ta thanh tịnh và an lạc, không còn ô nhiễm các pháp thế gian, do thế ta chỉ các hành trong thân, nhập định ngay tức khắc, làm chủ được sống chết. Và cũng từ nơi tâm thanh tịnh, an lạc đó ta hướng tâm đến Tam minh, thế là phạm hạnh đã xong không còn trở lui cuộc đời này nữa.
- Nhờ tình thương chúng ta giải thoát, hai câu cuối cùng chỉ cho tình thương rộng lớn. Câu trên chỉ cho sự trau dồi tâm từ bi hỷ xả vô lượng câu dưới chỉ cho tâm từ bi hỷ xả viên mãn được đạo giải thoát.
Bây giờ quý thầy tiếp tục tu tập dứt trừ các pháp ác và trau dồi các pháp thiện. Như hồi nãy chúng ta đã học tập và trau dồi pháp ác và trau dồi pháp thiện thứ 7. Kế đến chúng ta trau dồi pháp thiện thứ 8 và dứt bỏ pháp ác thứ 8. Đó vừa nãy chúng ta mới trau dồi được cái thứ 7 rồi chúng ta đọc bài kệ để chúng ta biết từ tình thương ích kỷ rồi chúng ta biến dần biến dần nó thành tu tập cái tình thương rộng lớn, tâm từ bi hỷ xả rộng lớn vô lượng, rồi từ đó chúng ta mới thấy mục đích của thiền định là không có tập thiền định chút nào hết, chỉ có dùng pháp hướng mà chúng ta đã nhập thiền định và từ đó chúng ta câu hữu tất cả những gì chúng ta muốn là nó theo ý muốn của chúng ta, tức là Dục như ý túc. Bây giờ chúng ta học về cái phần ý, ý nó có 3 cái pháp ác. Do ý nó có 3 pháp ác thì chúng ta phải xem pháp ác nào trước của nó.
8.Tham lam là một tánh xấu cực ác, nó thường khiến ta ham muốn nhiều. Đó thì bây giờ cái tham lam này là cái dục đó, quý thầy sẽ thấy tới đây là cái bài phân tích ra từng khía cạnh của cái tâm tham của chúng ta. Thầy sẽ phân tích ra để quý thầy thấy. Tham lam là một tánh xấu cực ác, nó khiến ta ham muốn nhiều, thấy cái gì cũng muốn, do sự ham muốn này đầu tiên là ta đã tự tạo cho mình khổ, kế đến là tạo cho người khác khổ. Vì mình ham muốn cái này cái kia là nó đã tạo cho mình khổ rồi. Chạy theo nó, phải làm ra có tiền có bạc để sắm ra nó. Muốn cái này, muốn cái kia, thì cái nào nó cũng tạo ra cho chúng ta khổ. Rồi do đó nếu không có tiền có bạc thì sanh ra trộm cướp, mới lấy của người, mới biển thủ cái này cái kia, để cho gian lận ở trong đó mới có ra mà sắm những ham muốn đó.
Đó là những tội ác do cái tâm tham này mà nó sinh ra muôn vàn tội ác không? Tất cả những cái tội gì ác là nó làm sạch hết. Phật gọi tâm ham muốn này là dục, (BBT:BN,14,E01:31:50)(BBT:CĐ,015B,00:09:33(BBT:BN,15,B00:00:00)là nguồn gốc khổ của loài người. Đó thì cái tâm ham muốn là nguồn gốc khổ, nó tập hợp tất cả những pháp ác lại để nó thực hiện được cái ham muốn của nó, cho nên nó là nguồn gốc khổ.
Vậy chúng ta hãy truy ra coi từ đâu mà có dục, mình phải truy ra từ đâu mà nó sinh ra cái dục này? Coi từ đâu mà có tham lam? Phải truy ra, nếu mà không truy ra thì chúng ta nghe nói dục mà chúng ta chẳng hiểu ở đâu hết, nó ở trong bụng của mình thì nó ham muốn là nó muốn chứ mình không biết cái gốc của nó thì làm sao mình đốn được cái gốc. Mình phải biết được cái gốc, rồi cái gốc đó nó đi ra như thế nào, chừng đó chúng ta phải chặt tỉa như thế nào để tới gốc, mới là đốn sạch nó mới được.

Như Phật đã dạy: do duyên thủ mà gồm có, thủ là mình giữ lại đó. Bây giờ giữ lại cái ghế, cái bàn kia, do duyên đó mà nó mới có ra dục thủ, là muốn giữ đó. Mình muốn có cái này kia tức là nó có cáidục thủ ở trong đó. Hai là kiến thủ, những cái hiểu biết của mình cái gì đó là mình giữ lại, thì khi mình giữ lại. Thì thứ 3 là nó có giới cấm thủ, giới cấm thủ thì nghĩa là cái đó có giới hạn rồi đó, nghĩa là ai mà chạm đến thì không được đó. Đó thì lần lượt mình sẽ triển khai ra tất cả những cái này để mình thấy được cái chỗ mà mình có cái tham, cái dục như thế đó. Bốn: Ngã chấp thủ. Bây giờ từ chỗ đó nó có xây xung quanh rồi, xây xung quanh của mình đồ đạc này kia rồi, bắt đầu từ đó của mình thì bắt đầu có cái ngã chấp rồi. Do cái chấp thủ này gồm có 3 loại hữu, đức Phật chia nó ra làm có 3 loại hữu. Bởi vì thủ rồi nó mới có hữu. Cho nên do cái chấp thủ đó nó mới sanh ra 3 cái hữu.
- Một là dục hữu.
- Hai là sắc hữu.
- Ba là vô sắc hữu.
Nó chia ra làm như vậy.
Dục hữulà cái lòng muốn có của mình. Rồi sắc hữu là cái vật đó nó sinh ra mình có. Vô sắc hữu là những vật không có mà mình tưởng tượng ra để rồi mình chạy theo nó.
Do hữu mới có cái ái, ái thì gồm có 6 cái. Nó đi tuần tự tuần tự rồi tới chỗ các thầy sẽ thấy nó tới cái chỗ nào đây, nó đi từng phần, từng phần để mà chúng ta sẽ thấy. Ái thì gồm có 6 cái:
Một là sắc ái, bây giờ mình thấy cái bàn cái ghế này mình thích đó là sắc ái.
Hai là thanh ái, mình nghe âm thanh mình thích.
Ba là hương ái,mình nghe cái mùi hương thơm mình thích.
Bốn là vị ái, mình ăn miếng gì ngon ngọt mình thích.
Năm là xúc ái, mình chạm mình nghe êm ái thích thú, thì đó là xúc ái.
Sáu là pháp ái,mình nghe cái gì mà vừa tai, nghe cái gì mà nó thích thú ở trong lòng của mình, ví dụ như người ta nói: có một vật gì thường hằng hoặc có 1 thế giới Cực lạc Tây phương nào đó. Mình nghe mình nghĩ mình chết cũng sanh về đó đó, thì đó là cái pháp ái.
Cho nên nghe cái đó rồi mình chấp cái đó đi, mình chết về đó sung sướng như vậy, thích thú như vậy, ở đó là nhà cửa lầu đài hoặc là ăn uống gì đầy đủ như cõi Cực Lạc vậy, thì do đó là mình bị pháp ái.
Do ái mà sinh ra thọ. Có ái thì nó mới sinh ra cái thọ. Thọ gồm có 6 thọ. Lần lượt mình truy ra chỗ nào đó đặng mình biết được cái gốc của nó mình đoạn dứt:
Một là nhãn xúc sở sanh thọ. Cái mắt của mình nó chạm vào một cái vật gì đó, như bây giờ Thầy thấy cái đồng hồ đây, tức con mắt Thầy chạm vào đó thì nó sinh ra thọ, nó sinh ra cái thọ tức là nó muốn cái vật đó.
Nhĩ xúc sở sanh ra thọ.Cái lỗ tai mình tiếp xúc với âm thanh nó sanh ra thọ thích cái âm thanh đó.
Tỷ xúc nó sinh ra thọ.Tỷ là cái lỗ mũi mình, thì nó xúc với cái hương thơm nó mới sinh ra cái thọ hương thơm.
Thiệt xúc thì nó sở sinh ra thọ.Thì thiệt, cái lưỡi của mình mà nó chạm xúc với đồ ăn nó thấy ngon thì nó sinh ra cái thọ ngon.
Thân xúc nó sở sinh ra thọ. Cái thân xúc của mình nó chạm vào chỗ êm ấm hoặc là nóng mát, nó sinh ra cái thọ biết nóng mát, biết êm ấm, đó là nó sinh ra cái thọ.
Ý xúc sở sinh ra thọ.Ý của mình nó tiếp xúc với các pháp thì nó sở sinh ra cái đó là pháp đúng, pháp sai, cái đó là pháp thiện pháp ác. Thì đó nó sinh ra cái thọ đó.
Thì như vậy chúng ta đã thấy lần lượt nó đã sở sanh ra những cái thọ như vậy. Do có thọ mà sanh ra ái. Có 11 duyên kế tiếp để tạo thành ác pháp, bất thiện pháp trong thế gian này.
Bây giờ chúng ta thấy từ cái ái này nó sẽ tiếp tục sinh ra các pháp, mà nó 11 duyên kế tiếp để sinh ra các ác pháp, mà bây giờ chúng ta đang tu tập để trừ các ác pháp trong thế gian đó. Tu tập TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, tu tập TỨ CHÁNH CẦN nè để diệt trừ các ác pháp này. Vậy thì chúng ta biết ở đâu mà nó sinh ra các ác pháp này. Do cái ái mà chúng ta sanh ra các pháp ác. Bởi vì tất cả những cái ái này nó mới sinh ra, do đó nó mới sinh ra thọ, đến đây thì chúng ta biết do có thọ mà sinh ra các pháp ác. Như vậy thì chúng ta sẽ tiếp tục để cho thấy do có duyên nào mà nó sinh ra cái gì đây.
Ái thì nó có 11 cái ái.Do duyên thọ mà có ái sanh. Bắt đầu mình thấy duyên thọ mới có ái sanh. 11 điều kiện nó sanh ra để chúng ta biết được, nó sảy sanh ra như thế nào cho đến khi thành các ác pháp đây, các bất thiện pháp đây.
Hai là do duyên ái mà có tìm cầu, có cái ái là có cái ưa thích của mình rồi, thì ưa thích, bây giờ thầy ưa cái đồng hồ thì phải tìm cái đồng hồ, thầy ưa thích cái máy này thì thầy phải tìm cầu có cái máy này, thầy ưa thích phụ nữ thì thầy đi tìm cầu cái người vợ. Thì đó là phải đi tìm cầu. Đó thì chúng ta thấy cái ái nó sanh ra đi tìm cầu, đi chỗ này chỗ kia.
Do tìm cầu mà lợi sanh. Do mình tìm cầu mà có cái lợi sanh ra. Lợi hồi đó mình không có gì hết, bây giờ tìm cầu mình tích lũy có vợ, có con có này kia đủ thứ hết, tiền bạc của cải tài sản. Thì đó là những cái lợi nó sanh ra rất nhiều.
Do lợi sanh ra thì phải tiêu dùng. Bây giờ mình có tiền bạc thì mình phải dùng, có cái bàn này thì mình phải sử dụng cái gì, có cái nhà này phải làm như thế nào, phải xài nó như thế nào, phải sử dụng nó làm sao cho hợp, trang hoàng như thế nào cho nó hợp với đời sống của mình. Cho nên phải có sự tiêu dùng.
Do sự tiêu dùng mà sanh ra dục sanh, do sự tiêu dùng này mình thấy nó thích thú. Ham muốn của mình mới sinh ra. Do sự ham muốn này nó mới có sự sanh ra, cái kia thì ở trên nó mới có ái thôi, mà tới đây thì chúng ta mới thấy được cái dục. Hồi nãy thì tham lam là dục đó (là lòng ham muốn của chúng ta) bây giờ do sự tiêu dùng này mới sinh ra cái ham muốn này, cái tham muốn này, tham lam này.
Do tham dục sanh thì đắm trước sanh. Hễ có sự ham muốn thì sự dính mắc đắm trước nó mới sanh. Thấy do lòng ham muốn của mình mới thấy cái đồng hồ mới thích, nó mới sanh ra đắm trước, nó mới dính đó. Dính mới mua về.
Do đắm trước sanh thì chấp thủ sanh.Thì mới mua về mới giữ, tức là có giữ lại, tức là có chấp thủ sanh.
Chấp thủ sanh thì hà tiện sanh.Bắt đầu mình thấy: từ cái chỗ mình hồi nào đến giờ thì mình chưa có hà tiện đâu, nhưng mà khi nó bị dính mắc rồi thì bắt đầu người ta xin đồng hồ không cho đâu. Tức là hà tiện tới rồi đó. Rồi bắt đầu mình hà tiện nữa, thấy người ta đến người ta xin tiền, mình chấp thủ, mình dính rồi cho nên mình đâu dám bỏ ra cho họ, cho nên hà tiện mới sanh.
9. Hà tiện sanh thì thủ hộ sanh.Tức là khi hà tiện có rồi, có sự giữ gìn bảo vệ nó, không có cho mất mát, nghĩa là làm chín đồng muốn kiếm thêm bỏ đồng nữa chứ chưa dám lòi ra ăn nữa. Đó là thủ hộ nó sanh.
10. Do thủ hộ sanh một số ác pháp, bất thiện pháp sanh.Bắt đầu muốn giữ gìn nó mà muốn bảo vệ nó bằng cách này bằng cách khác thì ác pháp nó sanh đó.
11. Do ác, bất thiện pháp sanh thì trượng kiếm đao búa gậy gộc, tranh đấu tranh luận, đấu khẩu, ác khẩu, vọng ngữ sanh.Đó tất cả những cái đó nó bắt đầu có thập ác đó, nó mới sinh ra.
Thì như vậy là quý thầy đã thấy được con đường đi của đức Phật, vạch từ duyên này đến cái duyên khác để các pháp ác sinh ra. Vậy thì bắt đầu bây giờ chúng ta dứt trừ những ác pháp này, tức là lần lượt chúng ta sẽ dứt trừ các áicác thọ của chúng ta đó. Cho nên tới đó thì chúng ta sẽ, tất cả các ái các thọ của chúng ta dứt thì duyên sanh tử ưu bi sầu khổ chúng ta dứt chứ có gì. Mà đi từ cái chỗ nào, đi từ các ác pháp này. Mà chính ác pháp này là từ cái chỗ đó nó sanh ra ác pháp. Bây giờ chúng ta phải đốn sạch những ác pháp này cho nên TỨ VÔ LƯỢNG TÂM và TỨ CHÁNH CẦN là pháp cần thiết cho chúng ta để dứt các ác pháp. Chúng ta biết rõ được cái gốc của nó thì đi từ cái gốc đó mà chúng ta đốn dần thì cái cây khổ này nó phải tuyệt, nó phải đoạn dứt, nó không còn khổ nữa.Nếu mà không hiểu được như vậy thì chúng ta cứ tu lòng vòng, lòng vòng ở đâu mà tưởng là dứt khổ nhưng sự thật là không dứt khổ. Vì chúng ta chưa biết nó là ác pháp, mà ác pháp là gốc khổ, chớ không phải lòng ham muốn của chúng ta là gốc khổ đâu. Tại vì lòng ham muốn nên nó mới sanh ra ác pháp đây.
Vậy thì chúng ta đi từ cái chỗ tu TỨ CHÁNH CẦN và TỨ VÔ LƯỢNG TÂM thì ác pháp nó sẽ dứt. Ác pháp dứt thì giải thoát dứt, sanh tử dứt. Ở đây quý thầy cần phải hiểu: Do tiêu dùng mà tham dục sanh, nếu tiêu dùng không có bất cứ loại nào thì tiêu dùng diệt, mà tiêu dùng diệt thì tham dục diệt, tham dục diệt thì sân diệt, sân diệt thì si diệt. Biết rõ như vậy nên Phật dạy SANH đã đoạn thì PHẠM HẠNH mới xong, con người mới giải thoát.Tại sao vậy? Bởi vì đời sống như quý thầy đã thấy lộ trình thứ 2 thầy đã vạch ra đó: Đời sống tu sĩ trắng bạch như vỏ ốc, tức là chúng ta đã tiêu dùng đó, đã diệt sạch rồi. Vì chúng ta đâu có tiền bạc mà tiêu dùng, muốn gì cũng đâu có được. Cho nên ngay đó là chúng ta đã sanh đã tận rồi, ngay đó chúng ta đã thấy cái chỗ mà cái bước mà chúng ta đoạn dứt được cái pháp ác là ngay đời sống của chúng ta phải là đời sống phạm hạnh. Mà đời sống phạm hạnh là đời sống không còn tiền bạc tiêu dùng, không còn muốn gì được nữa hết. Nghĩa là đi xin ăn rồi, bây giờ người ta cho ăn ngon thì ngon, ăn dở thì dở chứ không nói: cho tôi ăn như vậy là không được, thiếu dưỡng chất chết tôi đi thì tôi tu không được, mấy ông không có phước đâu.Cho tôi ăn cho ngon, tôi tu được đặng mấy ông có phước thì cái đó là cái sai rồi. Cho nên ở đây chúng ta phải đoạn diệt để cho được cái tham dục của mình. Mà đoạn diệt cái tiêu dùng trước. Người tu sĩ thì không còn tiêu dùng nữa rồi. Ba y một bát, thiểu dục tri túc rồi còn cái gì nữa mà tiêu dùng. Không có thì chúng ta đến xin Phật tử. Chúng ta đến xin họ có cho là cho mà không cho thì chúng ta cũng chịu thôi. Về thí dụ cái y này rách rồi, đã mục rồi mà đến xin người ta nói bây giờ tôi chưa có để rồi hôm nào tôi có tôi sẽ cúng dường cho thầy, bây giờ thì tôi chưa có.Thì mình cũng thôi về chắp vá lại mà mặc đi, để cho kín thân chứ đừng để lõa lồ thôi chứ cũng chưa dám đòi hỏi ai hết. Đó là mình đâu có tiêu dùng được, mình đâu có muốn được. Còn bây giờ các vị có tiền đâu đó, thôi cái này rách bỏ đi, đi ra chợ mua may sắm cái khác, chớ để gì mà rách rưới như vậy. Còn mình không có nữa thì đâu có tiêu dùng được, cho nên phải chắp vá lại mà sống.
Đó là đời sống của tu sĩ như vậy. Cho nên trong thời đức Phật các thầy thấy bảy, tám mươi tuổi, các vị tỳ kheo trong thời đó bảy, tám mươi tuổi đi lụm khụm mà vẫn phải đi xin ăn chớ không được tỳ kheo khác mà xin về cho cái vị đó ăn. Cho nên nghe qua các bài kệ của trưởng lão, ni kệ hoặc tăng kệ chúng ta thấy sao mà đời tu sĩ lúc bấy giờ, lẽ ra thì họ nhập diệt cho rồi chứ để chi lê thê mà đi xin quá khổ như vậy, mà đi đường non núi nữa, quá vất vả. Phải nương cây gậy lụm cụm mà đi xin ăn. Bởi vì người ta đã thấy nhơn quả của người ta, người ta vui vẻ để người ta trả chứ không phải người ta không thấy. Biết rõ như vậy nên Phật dạy:Sanh đã đoạn thì phạm hạnh mới xong, con người mới giải thoát.
Chúng ta truy tìm biết như vậy bây giờ chúng ta mới biết đâu là sống đúng đời sống của người tu sĩ đạo Phật. Trắng bạch như vỏ ốc, không còn triền phược và những sợi dây vật chất, thương ghét trói buộc, chỉ còn một lòng từ bi vô bờ bến. Tuy là biết rõ như vậy, trước là để lập hạnh sống xuất gia 3 y 1 bát, sống vô gia đình không nhà cửa, không chùa to tháp lớn, một thân một mình tiêu diêu an lạc, có duyên thì giúp người không duyên thì ẩn bóng. Nhưng lúc ta còn đang tu thì phải siêng năng dứt bỏ pháp ác và trau dồi pháp thiện. Như hồi nãy thầy đã kể ra: tham là do dục mới có tham. Vậy chúng ta phải trạch pháp câu này để dứt bỏ:
Tham lam là một tánh xấu cực ác, nó làm cho ta đau khổ và người khác đau khổ. Từ đây đứng trước mọi vật dù miếng ăn, manh áo tốt xấu ngon dở ta cũng phải từ khước viễn ly xa lìa, xem nó là rắn độc, là quỷ dữ, là ác thú trong tâm ta.
Đó là cái câu pháp hướng để quý thầy nhắc nhở để cho cái tâm mình đừng có tham ăn, tham mặc, tham y tham áo, tham của cải tài sản, tham tiền, tham bạc. Để chúng ta dứt bỏ tất cả những cái đó, để chúng ta không còn bị tâm tham nữa. Bởi vì tâm tham nó làm cho ta khổ và người khác khổ.
Nhớ nhắc đi nhắc lại câu này nhiều lần cho đến khi trước cái ăn và tất cả những vật dụng gì mà ta không còn ham muốn gì hết thì mới xong. Nghĩa là đứng trước cái ăn, tức là cái vật thực hàng ngày của mình, tất cả những cái vật dụng hàng ngày mà cần thiết cho đời sống tu hành của mình chứ đừng nói chi như người ngoài đời bằng cách này bằng cách khác thì tâm ta chẳng còn ham muốn một vật gì hết. Thì lúc bấy giờ chúng ta mới thiểu dục tri túc, mới biết đủ đó, thì đó là lúc chúng ta mới xong.
Vậy phải nghiêm chỉnh tu hành đừng xem thường nó, nó được đức Phật gọi nó là một loại độc trong 3 thứ độc. Đó thì cái tham đức Phật gọi nó là một loại độc chứ không phải là nó thứ thường. Cho nên trong tam độc là tham sân si, nó là cái độc đầu tiên của 3 thứ độc đó. Vậy thì quý thầy đã hiểu được nó là thứ độc chứ không phải là cái thứ thường. Đến phần này gọi là trau dồi ý hành, nó rất vi tế và khó khăn vô cùng. Vậy quý thầy cần phải siêng năng đừng để thất niệm nhưng cũng phải vừa với sức của mình. Đó một lần nữa Thầy nhắc quý thầy đó, tu vừa sức của mình mà nhớ đừng để thất niệm, khi đang tu thì đừng để thất niệm, để vọng tưởng xen vô thì quý thầy hoài công rồi đó. Lúc bấy giờ chúng ta đặt cái niệm cho vững chắc không được để thất niệm. Cho nên trong kinh điển của Phật dạy khi đặt niệm rồi thì không được thất niệm, phải luôn luôn ở trong cái niệm cho nó rõ ràng, cho nó tỉnh táo chớ không được để cho nó lờ mờ nữa. Của mình thành tựu hay không thành tựu là do ở chỗ quyết tâm, có muốn ra khỏi cuộc đời dục lạc đầy cạm bẫy này hay không. Nếu quý thầy không muốn xa lìa cuộc đời dục lạc thế gian thì xin quý thầy đừng tu hành theo đạo Phật. Vì chẳng có ích lợi gì cho những người còn say mê dục lạc thế gian. Vì mình còn ham mê dục lạc thế gian, còn thích ăn thích ngủ, còn thích nói chuyện thì quý thầy đừng có theo đạo Phật. Tu uổng công lắm, mất cái thì giờ mà chẳng lợi ích cho mình, mà còn nợ đàn na thí chủ nữa. Cho nên khi quý thầy thấy nó còn thích thôi quý thầy đừng đi. Bởi vì cuộc đời thế gian quý thầy phải đoạn dứt nó. Chứ quý thầy mà còn ham thích nó một chút xíu thôi thì không có thể được. Sau này thầy sẽ đọc một câu kệ có một chú Sadi chú đi tu mà chú nhớ mẹ chú, do chỗ này mà chú không thành tựu được đạo giải thoát. Thì các thầy biết một chú Sadi 7,8 tuổi mà đi tu làm sao không nhớ mẹ mình, vậy mà về nhà bà mẹ khuyên một lời nói, chú về chú nỗ lực chú rời bỏ tình thương đó để rồi chú nỗ lực chú trở thành một bậc Alahán. Đó là những mẩu truyện của Trưởng lão tăng kệ trong thời đức Phật như vậy đó.
Thứ hai, sân là lòng giận dữ, lòng giận dữ rất khó dằn, nó là pháp ác. Khi tâm ý khi nó tức giận người ta có thể giết người không gớm tay, không sợ tù tội và cũng không sợ chết. Do thế mới biết lòng sân rất dữ. Khi mà người ta giận người ta không còn sợ chết, sợ tù sợ tội gì hết, người ta giết người người ta không có gớm tay đâu, cho nên cái lòng sân dữ lắm, không phải hiền lành đâu.
Cho nên chúng ta thấy bây giờ người ta chửi mình, người ta mắng mình, mình sân đó, mình ráng mình nén xuống chớ trong lòng tức lắm. Còn người đời chưa biết người ta không nhẫn, người ta không nén, người ta ăn thua đủ, người ta không nhịn ai hết, cái sân này tới cái sân khác, nó đưa đi đến chỗ có thể giết nhau, đi nằm nhà thương hay đi ở tù. Muốn biết người tu hành, nghĩa là mình muốn biết người tu hành được giải thoát ở mức độ nào thì chúng ta chỉ cần nhận ở cái lòng sân của họ là dễ biết. Thấy họ sân là biết họ tu ở mức độ nào rồi. Cho nên có nhiều vị tu hành rất lâu năm, ở rừng ở núi mà khi đụng việc chúng ta thấy tâm sân họ bùng khởi lên thì chúng ta biết là họ chẳng có được gì hết, chỉ qua cái hình thức ép của họ, qua cái sự tu tập của họ có cái vẻ khổ hạnh bằng cách này cách khác nhưng tâm sân của họ chưa xả được thì tham sân si đều là còn đủ chứ chưa hết.
Lòng sân còn thì lòng tham còn. Lòng sân còn thì ngu si còn.Bởi vì chính mình ngu si nên mình chưa có Minh được. Do đó vậy mà cái si còn thì tham còn, sân còn. Người ta nói xấu nhau cũng vì lòng sân thù hận, người ta giết nhau cũng vì lòng sân thù hận, người ta cướp đoạt của nhau cũng vì lòng sân thù hận. Bởi vậy sân là một pháp ác, một pháp cực ác lớn. Trong 10 điều ác lòng sân là ác nhất. Muốn tu tập dứt bỏ lòng sân ta hãy tu tập và trau dồi TỨ VÔ LƯỢNG TÂM, khi nào lòng Từ bi hỉ xả có được thì lòng sân mới hết được. Nhưng TỨ CHÁNH CẦN cũng có pháp tu. Vậy ta phải trạch pháp ra câu này để dùng nó mà hướng tâm tu tập:
Ý sân là một hành động cực ác, đầy tội lỗi, làm cho ta khổ, người khác khóc, ta phải từ bỏ dứt trừ, phải mạnh dạn và quyết tâm xa lìa nó, từ bỏ nó, xem nó như thú dữ ác độc, như quỷ dữ la sát.
Đó là những câu hướng tâm để chúng ta thấy lòng sân của chúng ta dữ tợn lắm, như quỷ dữ vậy, như la sát vậy. Dùng câu này hướng tâm Như Lý Tác Ý phải ngồi kiết già lưng ngay thẳng, bởi vì chúng ta biết những pháp ác, cực ác thì chúng ta càng ngồi yên tĩnh, càng ngồi kiết già để thân tâm gom lại một điểm mà chúng ta xua đuổi, chúng ta đánh đuổi nó mới được. Chứ còn chúng ta ngồi như cái ghế này mà ngồi mà dùng để xoa cái tâm tham, tâm sân, tâm si của chúng ta không được. Như bình thường chúng ta ngồi cái ghế thường như thế này mà chúng ta tập trung cái niệm ở trước mặt để chúng ta xoa cái tâm đừng giết hại chúng sinh thì còn có thể được. Nhưng đến khi cái ý mà dừng tham sân si, 3 cái ác độc này nó không đơn giản đâu. Cho nên phải ngồi khoanh chân gom nó lại, tập trung cái niệm lại, do đó mới đủ cái sức dùng pháp hướng mới có thể đánh mạnh nó ra được.
Cho nên chúng ta phải biết tu, biết cách thức chứ nếu mà không biết cách thì chúng ta cũng không có kết quả đâu. Phải ngồi kiết già lưng ngay thẳng, đặt pháp hướng trước mặt, dùng hết sức tinh thần xua đuổi như xua đuổi một con chó điên. Nghĩa là mình biết nó, biết cái tham sân si của mình là con chó điên đó, nếu mình không xua đuổi mạnh thì nó cắn mình chết, nó cắn mình điên đó. Cho nên mình phải đem hết sức của mình ra xua đuổi như xua đuổi một con chó điên. Như vậy chúng ta phải biết cách thức chúng ta ngồi kiết già là chúng ta gom hết toàn lực đánh đuổi một con chó điên để không nó đem lại cho chúng ta tai họa là điên khùng.
2.Ý sân từ đây phải chấm dứt, phải từ bỏ không được phóng khởi. Nghĩa là mình nhắc nó từ đây bất kỳ hoàn cảnh nào không được phóng khởi ra. Đó là câu mình hướng tâm để đoạn dứt nó.
3.Ý sân phải chấm dứt ngay. Đó mình chỉ nói câu ngắn như vậy: chấm dứt, ngay. Ra lệnh như vậy là lâu ngày chúng ta dùng cái sức tinh thần của chúng ta, cái pháp hướng nó sẽ hiệu quả đến cùng. Cho nên đến cuối cùng thì ngay cái chỗ người ta vừa chửi mình thì ngay đó nó chấm dứt ngay liền, ở trong đầu của mình nó phóng ra chấm dứt ngay. Ngay đó tâm mình thản nhiên không sân nữa. Thì quý vị thấy cái pháp hướng nó hiệu quả đến mức độ đó. Nó ngắn chừng nào thì cái lực của nó lại mạnh chừng nấy. Mà cái câu hướng mà dài thì cái lực nó yếu chừng nấy. Cho nên pháp hướng khi mà dứt, từ bỏ, thì pháp hướng càng ngắn thì lực càng mạnh, cái tinh thần càng mạnh. Còn pháp hướng mà dài đó là pháp hướng trau dồi chứ không phải pháp hướng.
Đó là Thầy nhắc như vậy để sau này quý thầy trí tuệ thông minh sáng suốt tùy theo đó mà quý thầy trạch ra những pháp hướng cho nó đúng với môi trường, đúng với tâm của mình để cho mình tu tập.
Trau dồi lòng thương yêu để phát triển tâm lành ngăn ngừa tâm ác, quý thầy phải trạch pháp dùng pháp hướng dẫn tâm thương yêu chúng sanh. Bây giờ mình trau dồi cái tâm thương yêu của mình:
Ý sân giận dữ chửi mắng nạt nộ người khiến cho người ta sợ hãi, đau khổ. Ta phải thương yêu họ, không được làm cho họ sợ hãi. Vậy từ đây ta không nên chửi mắng, la hét mà phải thương yêu an ủi, giúp đỡ họ đừng sợ hãi.
Đó là cái câu trau dồi cái tâm thương yêu của mình đó. Cho nên câu này không dùng cái nạt nộ hay ra lệnh mà chỉ xoa dịu nhẹ nhàng, an ủi nó, để cho nó lần lượt lớn lên lòng thương yêu mà không có la hét làm cho người ta sợ. Mỗi khi mà chúng ta tức giận la hét gì đó thì chúng ta nhớ phải thương người cho nên nó dịu xuống liền tức khắc mà nó không có la hét.
5. Đời là khổ ta không nên sân để làm cho người, vật khác đều khổ thêm. Thấy ai sân ta nên thương họ, ta phải tập thương họ cho chân thật.
Đó là những cái điều mà chúng ta xoa dịu, làm cho tâm của chúng ta thấy người sân là chúng ta thương. Nhắc nhở chúng ta thấy cái người giận dữ là chúng ta thương. Và chúng ta cũng biết trạch pháp ra: đời đã là khổ rồi cho nên sân lại làm cho người khác, vật khác đều khổ theo vì vậy mà cái tâm không được làm vậy nữa, phải thương yêu. Đó là cái câu ám thị để trau dồi cái tâm thương yêu của chúng ta, để nó phá đi cái tâm ác của chúng ta là sân.
Đến đây thì chúng ta lại còn phải dùng ĐỊNH VÔ LẬU mà tu TỨ CHÁNH CẦN nữa. Thì các thầy phải thấy công trình tu tập của chúng ta phải sử dụng liên tục những cái định, trừ ra có cái định Hiện tại an lạc trú là 4 thiền là chúng ta không sử dụng ở trong này thôi. Dùng ĐỊNH VÔ LẬU tu TỨ CHÁNH CẦN là ta phải ngồi kiết già lưng thẳng, đặt niệm sân trước mặt rồi tác ý đi tìm cái sân từ đâu có, từ đâu sanh, từ đâu diệt, cứ như thế chúng ta phát sinh trí tri kiến giải thoát, làm cho ta hiểu rõ cái ý sân, bẻ vụn cái ý sân, làm cho tan vỡ cái ý sân không còn đất đứng nơi tâm ta nữa.
Nghĩa là trong khi chúng ta quán xét tự nó phóng ra, nó làm cho chúng ta thấu suốt được cái sân từ đâu đến, từ đâu có, từ đâu không, cho nên chúng ta biết rất rõ. Do biết rất rõ đó thì nó bẻ vụn cái ý sân của chúng ta, nó làm cho tan nát cái ý sân ra, nó làm cho ý sân không còn đất đứng nơi tâm ta. Đó là chúng ta dùng định vô lậu mà phá tâm sân. Thì chúng ta biết áp dụng ở trong TỨ CHÁNH CẦN bằng ĐỊNH VÔ LẬU, bởi vì ĐỊNH VÔ LẬU nó không phải dùng pháp hướng mà nó dùng cái tri kiến nó quét sạch, nó suy tư nó đi tìm nguồn gốc của tâm sân rồi nó suy tư từ cái sân đó nó khổ như thế nào, làm sao… nó quét sạch ra. Nó làm cho tâm của chúng ta không còn sân đứng được ở đó. Phải đặt niệm này trước mặt, đừng cho thất niệm, luôn luôn lúc nào mà tới chúng ta thấu suốt được rồi thì chúng ta mới xả nghỉ, còn chưa có thấu suốt được thì chúng ta đừng có xả nghỉ ngang, mà chúng ta phải được liên tục, đừng có để thất niệm trong thời gian truy tìm cái sân thì nó mới được.
Phải đặt niệm này trước mặt đừng cho thất niệm, có như vậy tu TỨ CHÁNH CẦN câu hữu Vô lậu định. Đó bắt đầu chúng ta tu TỨ CHÁNH CẦN mà chúng ta câu hữu qua ĐỊNH VÔ LẬU đó thì các thầy thấy mình phải khéo léo, mình phải áp dụng cho đúng cách, chứ nếu mà mình cứ tu TỨ CHÁNH CẦN không thì mình không thông suốt được cái tham sân si của mình. Do đó mà mình nhắc ở ngoài da của nó không thì nó không có thấm đâu. Cho nên chúng ta dùng cái ĐỊNH VÔ LẬU, do nhìn cái lậu hoặc của tham sân si này như thế nào vì vậy mà chúng ta đốn sạch ở trong gốc nó, đập tan nó từ trong gốc sân của nó, dứt được ý sân của nó. Thì quý thầy thấy tuyệt diệu không. Cho nên mình biết câu hữu được pháp này với pháp kia, cho nên mình câu hữu với ĐỊNH VÔ LẬU mà mình đạt được như ý nguyện của mình là tâm sân dứt. Thì như vậy là Thầy dạy quý thầy có cách thức để tu tập, có cách thức để câu hữu, chứ đâu phải là thiếu cái sự câu hữu đó: mình cứ ĐỊNH VÔ LẬU là mình cứ tu ĐỊNH VÔ LẬU còn tu TỨ CHÁNH CẦN là cứ phải tu TỨ CHÁNH CẦN. Không phải đâu. Chính vừa nãy mà chúng ta tu tập TỨ CHÁNH CẦN mà chúng ta tu tập lòng thương yêu của mình tức là câu hữu với TỨ VÔ LƯỢNG TÂM đó. Những cái mà chúng ta câu hữu thầy nhắc quý thầy mới biết, mà Thầy không nhắc thì quý thầy không biết đâu. Đó là những cái chúng ta câu hữu với nhau, pháp này câu hữu với pháp kia để chúng ta thực hiện cho đạt được cái mục đích của chúng ta là giải trừ tâm ác của chúng ta, 10 điều ác ra khỏi tâm của chúng ta, không còn đất đứng ở đó.
Si.Bây giờ đến cái phần ngu si của ý chúng ta đây. Si là vô minh, là trạng thái ham ngủ, ham ăn. Tức là cái si của chúng ta nó hiện ra trạng thái ham ăn ham ngủ. Đó là cái si đó. Vì vậy mà chúng ta biết cái trạng thái ham ăn ham ngủ của chúng ta là si. Cái người nào mà còn thích ăn, thích ngủ là người đó đang si, chứ chưa phải là thông minh. Mặc dù bây giờ họ là thông minh, là nhà bác học đi nữa, là những con người mà học tiến sĩ đi nữa mà còn ham ăn, ham ngủ thì đó là những người si chứ không phải là những người không si đâu. Muốn đoạn dứt pháp ác này quý thầy phải tu Chánh niệm tỉnh thức định.
Đó, thì bây giờ muốn đạt được cái chỗ si này chỉ có CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC định thôi, nó mới có sức tỉnh thức, chứ còn nếu không nó ham ăn ham ngủ à. Mà nó tỉnh thức thì nó diệt trừ cái ăn, do đó nó mới có tỉnh thức, nó mới tu ĐỊNH VÔ LẬU nó mới quét sạch được cái ăn, nó mới thấy cái ăn là bất tịnh. Thì từ cái chỗ này nó câu hữu với cái kia nó kết hợp, nó làm cho chúng ta có một cái lộ trình tu tập rất là dè dặt, rất là kỹ lưỡng, rất là dày mịch không để cho các pháp ác xen vô được. Bởi vì chúng ta có những cái pháp nó làm như mạng lưới mà không cho pháp ác rơi trên đó được, nó đánh bại, nó đánh bạt ra hết. Nó không còn chỗ nào để pháp ác lọt vào tâm chúng ta được. Nhờ các pháp này mà chúng ta câu hữu liên tục, mà chúng ta đánh các pháp ác ra khỏi tâm chúng ta. Vì vậy đưa chúng ta ra con đường giải thoát rất là rõ ràng và cụ thể. Cho nên CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC là chúng ta phải đi kinh hành nhiều, theo hành động đi mà chúng ta tỉnh thức thì không còn lười biếng, không còn buồn ngủ nữa. Đó nó phá cái si rất rõ, cái trạng thái si của chúng ta.
Muốn phá và dứt ác pháp si mê này thì quý thầy phải phá vô minh. Đó, hồi nãy là đi kinh hành là để tỉnh thức thôi. Còn bây giờ chúng ta si tức là vô minh chứ gì. Muốn phá vô minh thì phải làm sao? Chớ đâu phải là tỉnh thức không? Tỉnh thức không mà nó không hiểu gì hết thì cái tỉnh thức đó để ngồi suốt ngày chơi cho nó thanh thản thôi chứ có làm gì. Bây giờ chúng ta phải dùng sức tỉnh thức này để mà chúng ta tu tập Định CHÁNH NIỆM TỈNH THỨC. Làm cho chúng ta có sức tỉnh thức, từ sức tỉnh thức đó chúng ta mới phá Vô Minh. Mà phá Vô Minh thì nó phải có Minh. Muốn phá Vô Minh quý thầy phải học hiểu những lời Phật dạy, Thầy dạy. Muốn phá được cái vô minh đó thì mình phải là người học, chớ mình không học thì mình không biết, mà mình không biết thì biết đâu měnh lŕm. Chẳng hạn bây giờ nói rằng đời khổ, quý thầy cho rằng đời đâu có khổ. Đó là cái vô minh của quý thầy. Nhưng khi nghe nói khổ, vạch cho ra từng ly từng tý mới thấy thật đây là khổ. Quý thầy mới thấy được cái khổ, mà thấy được cái khổ là vén được cái vô minh. Vậy quý thầy đã Minh. Minh là nhờ sự học hỏi những cái gì của người ta đi qua rồi người ta dạy lại cho mình, để mình thấy được, mà mình thấy được đó là cái minh của mình. Cái nào chưa hiểu cần phải hiểu cho rõ, nghĩa là cái lời dạy đó cái nào chưa hiểu thì mình phải hiểu cho rõ, hiểu cho rõ là phải hiểu cho đúng vì hiểu sai tức là vô minh. Theo những điều mà từ lâu quý thầy chưa biết, bây giờ được học hiểu quý thầy đã biết và biết rất rõ đó là phá si, dứt trừ si, tức là phá vô minh. Phá vô minh tức là minh, minh là hiểu rõ cái nào ác, cái nào thiện. Như hồi nào tới giờ thầy chưa có dạy Thập thiện, cho nên quý thầy đâu nghe nói là các pháp ác rồi các pháp thiện. Bây giờ dạy các pháp ác, các pháp thiện thì quý thầy biết có 10 pháp ác, có 10 pháp thiện; sao là ác, sao là thiện; thì như vậy là quý thầy đã Minh rồi đó. Đã biết được 10 rồi, còn hồi đó thầy chưa nói 10 các thầy biết pháp ác chứ chưa biết nó 10 hay 20 hay gì đó, chưa có biết đâu. Còn bây giờ đã được học các thầy biết đó là pháp ác, đó là pháp thiện. Mười cái pháp ác này, 10 cái pháp thiện này, hoặc là tất cả các pháp khác như thế nào như thế nào, thì bắt đầu quý thầy minh rồi đó. Vì vậy Minh tức là mình không theo ác pháp mà vô minh thì mình theo ác pháp thì mình sai lệch. Minh là hiểu rõ cái nào ác, cái nào thiện, cái nào đúng chân lý, cái nào sai chân lý, cái nào đúng nhân, cái nào đúng quả, cái nào cần trau dồi, cái nào không cần trau dồi, cái nào cần dứt bỏ, cái nào không cần dứt bỏ, cái nào tùy, cái nào chỉ, cái nào ức, cái nào quán, cái nào diệt, cái nào xả, cái nào hướng, cái nào ly, cái nào khởi, cái nào diệt, cái nào khổ, cái nào không khổ, cái nào còn khổ, cái nào hết khổ, cái nào sân, cái nào không sân, cái nào tham, cái nào không tham và biết rất rõ, đó là minh. Tất cả những cái mình biết rõ như Thầy kể ở trên thì đó gọi là Minh. Mình biết cái này khổ, cái này không khổ, cái này tham, cái này không tham, cái này ác, cái này không ác, đó là những cái đó gọi là Minh. Nhờ có Minh mà si hết. Nghĩa là mình rõ rồi thì cái si kia nó hết rồi, mình không có lầm nữa cho nên gọi là hết.
Khi có minh thì chúng ta hãy tinh tấn chuyên cần tu tập, không phí bỏ thời gian vô ích, một lòng quyết tâm, quyết dứt bỏ các pháp ác. Bây giờ mình đã minh rồi mà mình lười biếng thì các pháp ác nó còn không? Còn. Cho nên khi mình đã biết rõ rồi thì mình mới chuyên cần siêng năng tu tập để trau dồi thân tâm của mình để dứt bỏ thì nó mới hết chớ, chớ không phải biết rồi để khơi khơi nó hết đâu. Nói tôi minh rồi tôi biết, bởi vì cái minh này là cái minh của mình huân tập sự hiểu biết của người khác mình mới hiểu thôi, cho nên cái này Phật dạy đó là cái tri kiến chứ chưa phải là tri kiến giải thoát. Còn tri kiến giải thoát của mình mà Thầy nói ngồi để mà phá cái vô lậu, tự nó phóng ra, rồi tự nó tìm hiểu ra, rồi nó quán xét nó thấu suốt được cái lý đau khổ hoặc cái lý nào đó, rồi nó xả đi cái lý đó đi, nó làm cho không còn lậu hoặc thì cái đó gọi là tri kiến giải thoát. Còn bây giờ cái minh này mới là cái tri kiến của chúng ta thôi. Tức là chúng ta nhai lại những hiểu biết của người khác để cho mình hiểu cái đó đúng sai thôi, đó là cái tri kiến đúng, còn nếu mình nhai lại cái tri kiến sai thì nó thành kiến chấp, tà chấp hay thân chấp, do đó nó đưa chúng ta đi lầm lạc tới chỗ càng gây thêm pháp ác nữa, cho nên càng đem đến sự khổ đau.
Quý thầy ngồi kiết già lưng ngay thẳng trước mặt tưởng ánh sáng ngày như đêm rồi dùng pháp hướng NHƯ LÝ TÁC Ý:
Tâm u tối si mê như đêm đen, ta hiện giờ thấy nó sáng suốt như ban ngày không còn đen tối nữa.
Đây là tu cái Định sáng suốt đây, để cho chúng ta, từ đó nó mới có cái sự sáng suốt. Nó mới như cái lý nó tác ý ra, những tri kiến giải thoát của chúng ta mới phát ra được. Vậy thì khi tu cái Định sáng suốt này thì thứ nhất chúng ta được tỉnh thức. Chúng ta ngồi giữ tâm thanh thản thì nó sáng suốt ngày như đêm, đêm như ngày. Còn nếu mà chúng ta chưa có đủ tỉnh thức thì chúng ta phải tu tập dùng cái tưởng để thấy cái tâm chúng ta si mê như đêm đen, bây giờ nó sáng suốt ngày như đêm, đêm như ngày, nó sáng suốt như ngày, nó không còn u tối nữa.
Do cái tưởng sáng suốt này nó làm cho tâm của chúng ta luôn ở trong chỗ sáng suốt đó và nó phát triển tâm thanh thản tức là tâm tỉnh thức. Đó thì chúng ta phải thấy được mấu chốt tu cái chỗ này gọi là tu cái tâm sáng suốt hoặc tu cái ĐỊNH SÁNG SUỐT. Cái chỗ này là chỗ thêm phần để chúng ta biết chứ còn trước kia Thầy dạy quý thầy giữ cái tâm thanh thản tức là giữ cái tâm sáng suốt của mình. Còn bây giờ là chúng ta chưa đủ cái tỉnh thức, cái Chánh niệm tỉnh giác cho nên cái sức tỉnh chưa có thì giữ tâm thanh thản nó không có được lâu, do đó chúng ta mới ngồi, mới tưởng là cái tâm của chúng ta si mê như đen tối (BBT:BN,15,00:34:57)(BBT:CĐ,15B,E00:45:53) mà bây giờ nó phải sáng suốt như ban ngày, nó không còn đen tối nữa. Đó là chúng ta dùng nhắc nó để chúng ta ngồi đây chúng ta dùng cái tưởng để thấy (BBT:CĐ,16A,B00:00:00)luôn luôn lúc nào cũng sáng suốt ở trước mắt của chúng ta. Do ánh sáng tưởng tượng đó mà nó giúp cho chúng ta sáng suốt.(BBT:BN,15,00:35:12)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét