BĂNG SỐ 21
1. Điệu hý: khẩu, tưởng, mong
cầu.
((BBT:CĐ,21A,B00:00:00)Cái chân gãy cái giò nó nữa, coi nó muốn chết đó chứ đâu có sung
sướng gì. Thế mà nó ở ngoài thì người ta vỗ tay khen: ‘Đó là điệu hý á”. Thầy
giải thích như vậy, dùng cái danh từ đó, như vậy thì quý thầy chắc hiểu nó rồi.)
(BBT:BN,19,B00:48:16)(BBT:CĐ,21A,B00:00:20)
Nếu người tu theo Đạo Phật
diệt trừ hết điệu hý, cho nên Phật cấm mình không có cho vui chơi gì hết
đó, các thầy có thấy không? Cho nên vui chơi nó là điệu hý đó, nó sẽ
không an trú được đâu.
Nếu người tu theo Đạo Phật diệt
trừ hết điệu hý, an trú trong cảnh tịch diệt được chăng? Đó, bây giờ có cái người mà hỏi Đức Phật á, bây giờ
nếu mà nói như vậy là do cái này nó tưởng ra nó mới có tham dục, bây giờ mình
muốn diệt tham dục thì tức là mình phải diệt hết cái điệu hý này đi thì chắc
chắn là nó hết chứ gì. Thì hỏi ông Phật, ông Phật nói: “Không có trừ bỏ được
điệu hý mà có thể an trú cảnh giới tịch diệt”. Nghĩa là.. Ở câu này Thầy xin
đọc lại để cho nó được rõ ràng hơn: “Nếu người tu theo Đạo Phật diệt trừ hết điệu hý, an trú trong
cảnh tịch diệt được chăng? Hay không trừ bỏ được điệu hý mà có thể an trú
trong cảnh giới tịch diệt được chăng?”. Nghĩa là hai câu hỏi nó rất
rõ ràng, một câu hỏi thứ nhất là nói mình diệt trừ hết điệu hý thì mình có an
trú trong cảnh tịch diệt được chăng? Mà hay là không trừ bỏ hết điệu hý này thì
mình cũng có thể an trú được trong cảnh giới tịch diệt chăng?
Đây bây giờ Phật
trả lời đây, tu sĩ mà không trừ hết điệu hý mà an trú trong cảnh giới tịch diệt
thì sao được,phải hông? Nghĩa là mình còn vui làm sao mình an
trú trong cảnh tịch diệt được, cho nên ông Phật ông trả lời một câu bằng cách
trả lời luôn cả hai câu: “Vì thế gian có nhiều cõi, chúng sanh đều y cứ theo loại cảnh ấy
và giữ gìn chắc chắn không thể rời bỏ, đồng thời họ cho đây là thật, ngoài ra
là hư dối”. Đó, nghĩa là thế gian thì người ta chấp cứng trong
những cái vui đó, điệu hý đó, cho nên người ta cho những cái đó là cái vui, cái
hạnh phúc của họ, cho nên ngoài ra thì nó không thật, và nó hư dối hết, chỉ có
những cái đó là cảnh giới của họ, dục lạc của họ, thích thú của họ mà thôi. Cho
nên, nếu mà cái người mà muốn được ở trong cảnh giới tịch diệt, an trú thì phải
ly trừ hết những cái điệu hý thì nó mới có an trú trong cảnh giới đó được. Vậy
mà Đức Phật trả lời nè: “Tu sĩ không trừ hết điệu hý mà an trú cảnh giới tịch diệt sao
được”, Đức Phật nói như vậy đó thì chúng ta
biết rõ.
“Vậy có bao nhiêu điệu hý?”, Có người hỏi Đức Phật thêm đó, có bao nhiêu điệu hý đó. “Có ba điệu hý: một là về khẩu,
hai là về tưởng, ba là về mong cầu”.Quý thầy thấy ông Phật ông
dạy chúng ta từng cái chi tiết nhỏ để chúng ta hiểu biết được mà chúng ta phân
ra để diệt cái lòng tham dục của chúng ta. Một người mà còn vui theo thì tức là
mình còn thích nói chuyện với nhau là còn vui theo chứ gì, mà còn vui theo tức
là điệu hý rồi. Nghe người ta thuật lại chuyện đông chuyện tây mình khoái lắm
chớ, nghe người ta thuật lại chuyện cổ tích rồi mình nghe cũng thích chứ.
Đó thì tức là mình còn đang ở trong cái chỗ điệu hý…. Đó là điệu hý về khẩu.
Về khẩu,về khẩu hành thì có ba điệu hý: một là hại mình, cái sự
vui chơi đó nó làm cho mình có hại, rồi hai là hại người, cái chuyện mà vui
chơi đó nó có thể làm hại người đó, cái điệu hý đó nó có thể làm hại, và ba là
hại cả hai, nghĩa là hại mình mà hại người. Trong cái điệu hý đó nó có xảy ra
về khẩu thì một là mình nói ra mà hại mình, hai là mình nói ra hại người, ba là
mình nói ra hại cả hai, cả mình và cả người. Đó là Đức Phật phân tích cho chúng
ta thấy là về cái khẩu thì mình có những cái điều kiện đó.
“Nếu mà xả bỏ lời nói hại mình,
hại người hại cả hai và nói đúng lời nói chân thật, không hại mình, không hại
người, không hại cả hai thì chuyên niệm không tán loạn, thành vô lậu”. Đó, Đức Phật nói, nói ra cái lời nói về miệng mình nói
ra lời nói mà hại mình thì không nên nói đó là điệu hý thứ nhất. Điệu hý thứ
hai là nói ra lời nói mà hại người thì không được nói. Mà cái điệu hý thứ ba,
là nói ra lời nói hại mình hại người thì không được nói. Cho nên mình phải nói
như thế nào, nói như thế nào để cho đúng cách? Nói lời nói đúng như thật, không
hại mình, không hại người, mà không hại cả hai thì chuyên niệm không tán loạn,
thành vô lậu. Vậy thì mình nói lời nói mà không hại ai hết thì cái đó nói sao,
quý thầy thấy chưa? Là không nói, phải không? Không nói là độc cư, thì
nó đâu có hại ai. Cho nên bây giờ nó chuyên niệm chứ gì, cho nên tâm không tán
loạn, còn mình nói là tán loạn, rõ ràng không? Đó là mình dứt trừ cái điệu hý
thứ nhứt về khẩu của mình đó, có đúng không? Nhờ vậy mà chúng ta biết rằng,
diệt điệu hý tức là chúng ta diệt lòng tham của mình chứ gì, đi từ gốc nhỏ đó
chúng ta diệt ra chứ gì, vậy thì chúng ta sống độc cư không nói tức là không
hại mình, không hại người, không hại ai hết, do đó là tâm không tán loạn, thành
ra vô lậu. Thấy chưa, nội cái miệng của mình được cái vô lậu rồi đó.
Về phần tưởngcũng có ba: “Tưởng mà hại mình, tưởng hại người, tưởng hại cả hai. Nếu xả bỏ
tưởng ấy và dùng tưởng như thật, không bị hại mình, hại người, hại cả hai thì
chuyên chú nhớ mãi không quên, sáng suốt thành vô lậu”. Không
tưởng thì các thầy nghĩ thấy Đức Phật dạy như vậy thế nào? Nghĩa là ngồi
đừng có tưởng tầm bậy, mà không tưởng tầm bậy thì nó có hại ai đâu, phải không?
Mà không hại người, không hại mình, không hại cả hai thì lúc bấy giờ có tưởng
nữa hông? Mà không có tưởng vậy thì nó chuyên chú nhớ mãi cái gì các con biết
không? À nó nhớ mãi có một cái tâm của mình thanh tịnh, yên lặng,
thanh thản đó thôi. Cho
nên sáng suốt thành vô lậu, đúng không? Ông Phật dạy rất đúng. Như vậy là mình
phá tâm tham dục của mình rất dễ dàng đâu có gì khó, ờ biết cách là như vậy. Vì
vậy cho nên bây giờ ngồi đừng có tưởng, ngồi đây mà tưởng về nhớ nhà thì cái đó
là thế nào? Điệu hý rồi còn gì đâu, nhớ cái này nhớ cái kia là điệu hý rồi. Bởi
vậy ông Phật ông dạy để chúng ta biết rất rõ những cái điều kiện, mà chúng ta
ngồi một tâm niệm thì chúng ta biết nó thuộc cái loại nào. Cho nên ở đây
nếu mà Thầy không giảng cái này ra thì Thầy thấy thiệt là cái lời ông Phật dạy
là phí cho ổng, ổng mệt mỏi quá rồi, ổng giảng ra cho chúng tỳ kheo trong thời
đó mà bây giờ người ta cứ bỏ cái này, người ta nói cái gì mênh mông ở trên trời
đất á, mà không dạy cho chúng ta biết từng cái chút này để mà chúng ta ly để mà
chúng ta được cái tâm vô lậu. Thấy cái này rồi, chúng ta biết cái tâm tư của
mình, à bây giờ nó ở trong tưởng nè, tưởng điệu hý này, miệng mình nó nói thì
mình biết nó là khẩu điệu hý này, biết nói như vậy là hại mình, hại người, hại
cả hai, thôi nhất định là không nói, như vậy là mình ở trong cái Chánh niệm của
mình tức là nó thành vô lậu. Thì cái tưởng nó cũng như vậy, cho nên nó cũng
thành vô lậu.
Về mong cầu cũng có ba, sự mong cầu của mình mà, mình ngồi mình mong
cầu cũng có ba cái điệu hý của nó: “Hại mình, hại người, và hại cả hai. Nếu xả bỏ sự mong cầu ấy và
mong cầu đúng cho thật, không hại mình, hại người, hại cả hai thì mong cầu đúng
như thế sẽ chuyên chú nhớ mãi không quên, thành vô lậu”.Mà sự
mong cầu mà không hại mình không hại người, không hại cả hai hết thì cái sự
mong cầu đó mong cầu cái gì quý thầy biết không? Đó tức là sự mong cầu sự giải thoát nơi
tâm của mình, thành ra không có ai dính mắc vào trong tâm mình được
hết cho nên nó thành vô lậu, có gì đâu mà khó khăn. Khi mà nó mong cầu cái gì
khác hơn mình biết liền. Mà nó không mong cầu thì tức là nó ở trong thanh thản
rồi, nó ở trong cái tâm rất là an ổn rồi, thì đó là vô lậu, tâm niệm của mình
chút nào là mình biết nó ở trong cái chỗ nào rồi. Thì như vậy là chúng ta đã
thấy được những cái điệu hý của nó rồi, như vậy là biết được cái nguồn gốc để
mà chúng ta tu về cái định vô lậu để cho nó quét sạch vô lậu, quét sạch cái tâm
tham dục của chúng ta.
2. Xả thân: hỷ thân, ưu thân,
xả thân
Bậc thánh hiền xả
thân có ba, bây giờ cái thân của chúng ta xả có xả ba cái cách của nó, hồi nãy
là do cái điệu hý, mà bây giờ chúng ta lại xả về cái thân của chúng ta, một là hỷ thân, hai là ưu thân, ba là xả thân.
Bây giờ đến cái giai đoạn
của những bậc thánh hiền tu tập, hồi nãy là những bậc phàm phu đó là chúng ta
có những điệu hý. Còn bậc thánh hiền có vui nữa không, có vui điệu hý như chúng
ta vậy nữa không? Không, hết rồi. Vậy thì bậc thánh hiền xả thân có ba: hỷ
thân, ưu thân và xả thân. Trong thân của chúng ta coi vậy chứ nó còn cái hỷ,
còn cái ưu, rồi còn cái xả của nó nữa này. Bây giờ chúng ta về bậc Thánh rồi,
chúng ta đã xa lìa những cái tham dục của thế gian rồi, bây giờ còn cái phần
thân của chúng ta để nó như thế nào đây. Cho nên bậc thánh nó có ba phần này.
Hỷ thân cũng có ba: hại mình, hại người, hại cả hai, bởi vì khi mình đã đứng vào trong những
bậc Thánh hiền rồi thì mình coi chừng cái thân của mình, nó cũng có thể làm hại
mình, hại người và hại cả hai. Nếu xả bỏ hỷ ấy, chỉ dùng hỷ đúng như thật,
không hại mình, hại người và hại cả hai nhờ đó chuyên chú mãi không quên, đây
là thọ cụ túc giới. Bây giờ đó mới là một vị bậc thánh hiền, mới gọi là thọ cụ
túc giới đây, chứ không phải như hồi nãy là vô lậu đâu, đây là thọ cụ túc giới,
nó mới đầy đủ cái giới của vị tu sĩ đây. Nếu mà chúng ta dùng cái hỷ, mà cái hỷ
đó như là cái hỷ mà chúng ta tu hỷ vô lượng tâm đó, cái hỷ vô lượng tâm đó nó
sẽ giúp chúng ta xả được không hại mình, hại người, hại cả hai. Cho nên chúng ta biết cái hỷ đó
là hoan hỷ, vui theo với mọi sự mọi vật. Do đó
chúng ta không làm hại một người nào hết, không làm khổ ai hết, không làm khổ
mình khổ người nữa. Do đó mà chúng ta đã thực hiện Tứ vô lượng tâm thì chúng ta
thấy cái hỷ này rất là cần thiết cho cái sự tu tập của chúng ta. Do đó thì
chúng ta nhớ mãi không quên do cái lòng hỷ này. Thì đó là chúng ta mới thọ cụ
túc giới.
Về ưu thân cũng có ba: hại mình, hại người, hại cả
hai. Chữ ưu đây là sự
buồn khổ trong cái thân của mình. Thân mình nhức chỗ này, thân mình đau chỗ
kia, lói chỗ nọ, là cái sự buồn khổ của cái thân đó. Nếu xả bỏ ưu thân này,
dùng ưu thân đúng như thật, không hại mình, không hại người, không hại cả hai
đây gọi là thọ cụ túc giới. Nghĩa là chúng ta dùng cái ưu thật, nghĩa là đừng có lấy cái đau
khổ của mình mà làm cho mình khổ sở, đó là cái sai. Mà lấy cái đau khổ, phiền toái
của chúng sanh làm cái chỗ thương xót thì đó là chúng ta đã thọ cụ túc giới đó. Như
thầy dạy từ bi hỷ xả đó, quý thầy tu tập về cái lòng thương yêu của mình đó. đó
là cái chỗ về ưu thân có ba đó, không hại mình hại người, hại cả hai tức là
thực hiện tâm từ bi của mình. Đó gọi là xả về ưu thân của mình. Đây gọi là thọ
cụ túc giới thứ hai.
Về xả thân cũng có ba: có cái mình xả mà hại
người, có cái mình xả mà hại mình, có cái mình xả mà hại cả hai. Cho nên mình phải xét cái nào mình xả,
mình bỏ ra, mà hại người khác. Cũng như bây giờ đó, mình tính thôi bây giờ mình
bỏ đi, mình bỏ mình đi tu đi, xả bỏ hết của cải tài sản đi, bỏ luôn cả vợ con
đi. Lúc bấy giờ vợ con hổng ai nuôi, hổng ai làm cho nó sống hết, nó khổ sở, đó
mình xả, mình xả kiểu đó hại người ta đó. Bây giờ con mình nó mới sanh ra, chưa
có ai mà chăm sóc, lo lắng, mình cứ xả bỏ con mình đi đi, thì lúc bấy giờ ai
nuôi nó. Đó là mình xả như vậy là sai. Vậy cho nên chúng ta khi mà xả những cái
gì mà ở trong thân của chúng ta cũng như xả những cái gì đó thì chúng ta phải
sáng suốt khéo léo. Cũng như bây giờ, cái thân của chúng ta như thế này, thôi
bây giờ mình chặt cái đầu nó chết đi, nó là vô thường đi, xả bỏ nó đi cho nó
không khổ nữa. Thì cái điều đó là mình xả ngu rồi, không phải là xả đúng. Cho
nên vì cái sự xả đó mà làm khổ mình hại mình đó, thì cái đó là Phật nói xả kiểu
đó là xả thân mà hại mình đó thì đừng có làm cái chuyện đó. Cho nên có một thời
tỳ kheo nghe quán thân bất tịnh rồi họ thấy cái thân này ghê gớm, họ mướn người
khác đâm cho họ chết đi. Một lúc sau Đức Phật hay được, cấm không có cho làm
cái chuyện đó, không phải là cái chỗ như vậy. Đó thì chúng ta thấy trong bước
đường nói về xả thì chúng ta phải sáng suốt xả mà không có hại mình, hại người,
không hại cả hai. Chứ có nhiều người ham tu, xả cái bỏ gia đình, chồng con. Trời
ơi, tức tối gần chết vợ con gì nói nó không biết nghe, nó bỏ nó đi tu, thiệt
là, cái ông thầy chùa nào quyên rũ nó vậy, tui đốt chùa à. Bởi vậy trong cuốn
Diệu Thiện đó, mà cô Diệu Thiện cô đi tu đó, Ông cha ông giận quá, ông đốt
chùa, các con hổng biết sao. Ông nói ông thầy quyến rũ con ông, công chúa đi
tu, ông giận ông đốt chùa, cho ớn, cho ghét. Đây gọi là thọ cụ túc giới.
3. Các căn đầy đủ trong luật
nghi của bậc Thánh hiền
Về các căn đầy đủ
trong luật nghi của hiền Thánh có chừng bao nhiêu tâm? Có người hỏi, về
các căn mà được đầy đủ trong luật nghi của Thánh hiền có chừng bao nhiêu căn?
Đó, thì Đức Phật cũng giải thích cho chúng ta thấy rằng. Cái về mà luật nghi mà đối với
các căn của chúng ta được đầy đủ của thánh hiền, về mắt thấy sắc, ta nói có hai. Nghĩa là đối với mắt thì ta thấy cái
sắc, thấy các pháp đó thì ta thấy phải có hai để cho luật nghi của giới Thánh
hiền nó phải như thế nào đúng ở trong cái chỗ căn đó.
Cho nên đối với
mắt, thì nó có hai. Một là đáng thân cận, hai là không đáng thân cận.Đó
thì các thầy thấy khi mà chúng ta thấy cái vật đó mà chúng ta đáng thân cận và
khi mà chúng ta thấy vật đó mà chúng ta không đáng thân cận. Thì chúng ta phải
thấy, khi con mắt thấy cái vật đó mà chúng ta thân cận, mà thấy cái vật đó mà
chúng ta không nên thân cận, thì cái này nó là luật nghi của Phật đó, cái luật
nghi của Phật. Mình thấy một cái gì đó mà gợi cái tâm dục của mình là không nên
đáng thân cận. Mà thấy cái đó mà tâm dục của mình không có gợi lên không có ham
thích, thì cái đó là đáng thân cận. Cũng như bây giờ, các thầy vô đây, ăn ngày
một bữa cơm, mà không cho quý thầy ăn phi thời á, thì cái đó là quý thầy đáng
thân cận. Cái thấy thực phẩm ở đây mà bắt đầu cho quý thầy không thấy thèm,
thấy khát gì hết á, thì đó là đáng thân cận. Mà các thầy thấy còn thấy thèm ăn
mà này kia thì không nên đáng thân cận, thì chỗ đó không phải chỗ tu.
Cho đến tai nghe cũng vậy
mà mũi ngửi mùi cũng vậy, lưỡi nếm vị cũng vậy, thân xúc chạm cũng vậy, ý duyên
pháp cũng vậy. Nghĩa là cũng có hai pháp, lúc thì cái mũi, cái mùi của mình,
cái tai nghe tiếng của mình, thì cái tiếng nào đáng thân cận. Cũng như nghe
Thầy thuyết giảng thì các con nghe tiếng đó là đáng thân cận. Mà nghe ca, nghe
hát, nghe mấy cô đào ở thành phố mà phát đài á, các con mở đài ra nghe ca hát. Trời,
du dương quá, tám câu vọng cổ, mười câu vọng cổ nghe trữ tình dữ tợn đó, nghe
nó muốn xịu hết đó thì các con nên dẹp mấy thứ đó đi, cái đó là không có đáng
nghe, cái tiếng đó hổng có được nghe. Còn những cái mùi thơm, mùi này mùi kia,
mùi mà làm cho chúng ta gợi lên cái thích ăn, thích mà gần gũi, thì những cái
mùi đó dẹp đi. Những cái mùi vị của đạo thì nên gần gũi, mùi vị của thế gian
thì không nên gần gũi. Còn cái lưỡi nếm vị cũng vậy, vị ngon vị đắng, vị này
kia tất cả, xa lìa nó đi, đừng có nếm những cái vị đó, nó không có được, phải
nếm cái vị Cam Lồ của sự tu hành của chúng ta mà thôi. Thân xúc chạm cũng vậy,
ý duyên pháp cũng vậy, cho nên nó cũng có hai. Đó là quý thầy nhớ kĩ để mà
chúng ta nỗ lực tu hành.
Như thế nào mà mắt thấy
sắc thì thiện pháp tổn giảm? Nghĩa là Đức Phật nói khi con mắt chúng ta thấy
một cái hình ảnh đó, mà cái thiện pháp nó bị làm giảm xuống đi mà bất thiện
pháp nó tăng trưởng thì không nên thân cận với nó. À các thầy hiểu chưa? Mà bây
giờ mắt thấy cái sắc đó mà cái thiện pháp nó tăng trưởng. Bây giờ thấy thí dụ
như có một người ăn mày đi sang qua đường của mình, đi ngang trước ngõ mình,
mình thấy cái người đó đói khổ quá tội nghiệp, mình lấy gạo mình cho người đó,
hay lấy cơm cho người đó, hay lấy thực phẩm cho người đó, hay lấy tiền cho
người đó, thì cái đó là mình thân cận cái đó. Còn mình thấy một cái người uống
rượu mà mình nhào vô mình uống rượu với họ. Thì thôi thôi đừng đừng, thấy cái
này thì thôi, đó là ác pháp nó tăng trưởng rồi đó, mà thiện pháp nó giảm xuống
thì mình tránh xa cái bọn uống rượu đi. Như vậy đó là mình mắt thấy sắc mà
thiện pháp nó tổn giảm thì ngay đó là mình lui đi. Thấy người ta bài bạc thôi
đừng có rớ vô, vì đó là ác pháp rồi. Bất thiện pháp nó sẽ tăng trưởng lên mà
thiện pháp nó giảm, vậy cho nên mình tránh xa đi.
Hai, mắt thấy sắc mà thiện pháp tăng
trưởng, bất thiện pháp đoạn giảm, tổn giảm thì nên đáng thân cận. Đây là các
căn đầy đủ luật nghi Thánh hiền. Đó
thì quý thầy thấy chưa, bởi vì mình muốn cho cái luật nghi của Thánh hiền mình,
cái oai nghi cái tế hạnh của luật của mình đầy đủ, thì mình có con mắt, mắt tai
mũi miệng thân ý của mình đối với cái pháp nào đáng thân cận và pháp nào không
đáng thân cận. Thấy thiện pháp tăng trưởng thì thân cận mà ác pháp tăng trưởng
thì mình không được thân cận. Đó, Phật dạy cho mình từng chút để mình giữ oai
nghi, thấy cái luật nghi tế hạnh của mình ở trong những cái chỗ mà mình có thể
tiếp xúc. Chớ đâu phải là Đức Phật dạy luật nghi mà không có cái hiểu biết như
vậy thì quý thầy sẽ bị phạm hết sao. Cho nên trong cái dạy về giới luật Thầy
dạy rất kĩ về cái vấn đề này để cho quý thầy thấy được cái chỗ tu tập của chúng
ta trong cái giới hạnh cho nó nghiêm chỉnh, biết nó được cái nào là đúng, thế
nào là sai ở trong cái oai nghi chánh hạnh của bậc Thánh hiền.
4. Cứu cánh phạm hạnh
"Có bao nhiêu cứu
cánh", ở đây có người hỏi Đức Phật có bao nhiêu cứu cánh? “Bị ái làm
khổ thân tâm mà diệt được thì gọi là cứu cánh”, Đức Phật trả lời đó. Bị ái tức
là bị thương ghét, bị ham muốn làm khổ thân tâm của mình á mà diệt được cái đó
là cứu cánh. Vậy thì cứu cánh có bao nhiêu. Có ba cứu cánh. Đó, Đức Phật phân
tích cho chúng ta thấy nó có ba cứu cánh. Bây giờ chúng ta diệt ái, mà nó sạch
rồi thì thân tâm của chúng ta không còn khổ được nữa thì đó gọi là cứu cánh chứ
không phải có một cảnh giới nào khác lạ hơn là chúng ta diệt cái lòng ham muốn
của chúng ta. Do đó khi mà cái lòng ham muốn nó hết á thì đó gọi là cứu cánh.
Nhưng mà có mấy loại cứu cánh. ở đây Phật nói có ba loại cứu cánh.
Một là cứu cánh phạm hạnh, tức
là Giới hạnh. Các con thấy, giới hạnh
đó. Vậy thì cứu cánh phạm hạnh, một người còn làm nghề nông, còn làm thư ký,
còn làm thầy thuốc thì cái đó có phạm hạnh hông. Không có phạm hạnh cho nên nó
còn bận tâm lo là đi vào rừng, rồi đào rễ cây về giã, rồi mới là hốt, rồi bằm,
sắc rồi sao, rồi đốt, hoặc là tẩm, rồi chế cái này chế cái kia ra rồi mới hốt
cho họ thành thang cho họ trị bệnh. Thì như vậy họ có cứu cánh không? hay
hoặc là họ đang bận công việc, họ đâu có giải thoát đâu mà gọi cứu cánh. Cho
nên không thể nào gọi cứu cánh phạm hạnh được. Mà cứu cánh phạm hạnh thì gọi là
giới hạnh.
Cái thứ hai là cứu cánh an ổn,
cứu cánh an ổn gọi là Giới đức.Một
người tu mà ngồi thiền định mà nhập sơ thiền đến tứ thiền có an ổn không quí
thầy. Rất an ổn, hỷ lạc rất tràn đầy, lúc bấy giờ ngồi như là ở trên cảnh giới
ở trên thiên đàng chứ đâu phải như ngồi dưới đất này đâu. Cho nên vì vậy gọi là
giới đức.
Ba là cứu cánh vô dư, đó là
Giới tuệ.Cái cứu cánh vô dư đó là
Giới tuệ. Các thầy thấy ba cái cứu cánh này nó ứng với ba cái giới mà chúng ta
đang học: Giới hạnh, Giới đức, Giới tuệ. Đó thì qua những bài học như vậy thì
chúng ta đã thấy biết được con đường mà chúng ta tu tập nó phải đi từng bậc nào
để mà đi vào trong những giới luật mà chúng ta đã học.
Tiếp tục thầy giảng thêm
cái phần này để chúng ta thấy được con đường mà tu tập giới luật của chúng ta
nó thực hiện như thế nào để mà chúng ta biết được cho nó rõ ràng hơn, để
mà chuẩn bị cho cái sự bước qua một cái giai đoạn mà giới tuệ cho nó thông
suốt. Chứ còn nếu không mà bước qua giới tuệ thì chúng ta thấy như mình ở trên
trời xanh á, chưa phải là ở dưới đất đâu.
5. Năm dục trưởng dưỡng
Có 5 pháp khiến dục
lạc tăng trưởng, hồi nãy chúng ta nói dục đó, tham dục, thì bây giờ cái việc mà
khiến cho dục lạc nó tăng trưởng, có năm pháp khiến cho dục lạc tăng trưởng.
Người tu sĩ Phật giáo phải xem 5 pháp này là dây xiềng xích, lòi tói,
trói chặt người tu sĩ. Không có vẫy vùng, khó mà vẫy vùng ra khỏi. Nghĩa là
phải thấy 5 cái pháp khiến cho dục lạc của thế gian nó tăng thịnh ở trong tâm
của chúng ta. Vậy đó 5 pháp đó là gì? Những sắc pháp do mắt cảm nhận,
khả ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục lạc, ái lạc. Đó, thì
cái pháp nào? Lẽ ra thì Thầy đã giảng ở trong cái chỗ mà ngũ dục lạc rồi cái
sáu dục lạc sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp đó. Nhưng mà Thầy lướt qua chỗ đó
đi, cho nên bây giờ Thầy nghĩ rằng, nếu mà không nhắc lại sơ cái này, coi như
lược sơ á, thì quý thầy, không có giảng cái phần đó thì coi như là hơi thiếu,
thay vì phải giảng cái phần đó thì cũng quá nhiều, cho nên Thầy không giảng.
Nhưng ở đây Thầy chỉ lược sơ để quý thầy thấy được cái chỗ mà sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp đó. Đó là nó lôi hút, nó cám dỗ chúng ta cũng dữ lắm.
Nhưng ở đây để chuyên qua trong cái phần giới luật của giới tuệ thì chúng ta
nhắc lại cái phần này để chúng ta thấy được cái chỗ mà chúng ta tiến vào con
đường của Đạo Phật.
Những sắc pháp do mắt cảm nhận
nó làm cho chúng ta thấy khả ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn câu hữu với dục
lạc và ái lạc.Đó thì những cái pháp đó
chúng ta thấy nó là sợi dây xiềng xích, lòi tói mà trói chặt chúng ta lắm đó.
Coi chừng những cái hình ảnh sắc pháp đó nó sẽ cám dỗ chúng ta mạnh lắm đó.Những tiếng pháp do tai cảm nhận, những âm thanh, tiếng phápđó
coi chừng nó cũng có thể là những sợi dây xiềng xích, lòi tói nó trói chặt
chúng ta lắm đó. Những hương do mũi cảm nhận, những hương thơm domũi
cảm nhận nó cũng là sợi dây xiềng xích, lòi tói trói chặt chúng ta đó. Những vị do lưỡi cảm nhận,
tức là những ngày mà chúng ta ăn món ăn ngon, ăn dở, coi chừng nó trói chúng ta
chặt lắm đó. Nó là sợi dây xiềng xích, lòi tói rất là chặt đó. Do xúc cảm nhận, do xúc thân cảm nhận.
Đó thì những điều kiện đó nó là sợi dây trói rất chặt. Năm pháp này khiến cho
con người chấp trước, mê đắm, bị trói buộc không thấy nguy hiểm của chúng,
không nhận thức sự không thoát ly chúng. Nếu mà chúng ta không nhận nó được,
thì nó sẽ trói buộc chúng ta rất chặt chứ không phải là đơn giản đâu. Thường
thường là chúng ta xem thường nó lắm nhưng mà rồi chúng ta sẽ bị nó trói chặt.
Cho nên ở đây, Phật chỉ nêu lên năm cái pháp để mà nó lôi cuốn, nó trói chặt
chúng ta.
Nhưng chúng ta còn
quên, có một cái pháp nữa tức là pháp thứ sáu đó. Do cái ý, ở đây nói nhãn, nhĩ,
tỷ, thiệt, thân, ý. Thân thì có xúc, mà ý thì nó có
khởi ra các pháp cho nên cái pháp nó làm cho chúng ta trở thành những kiến
chấp.Nó cũng ghê gớm vô cùng. Nó trói chặt chúng ta. Biết cái pháp
của mình là sai chứ chưa dám bỏ đâu. Khi mà mình nghĩ rằng con đường thiền của
tui tu đây đúng của Phật rồi mà sự thật nó trật lất à, nó hổng đúng. Mà họ nói
nó là đúng rồi, họ bỏ hổng có được. Cũng như họ tu tập thiền xuất hồn, họ nói
đây là xuất hồn tôi có xuất hồn được rồi, cho nên từ đó họ không bỏ được. Đó là
cái pháp, cái pháp làm cho họ dính mắc. Nó cũng cám dỗ dữ lắm. Khi mà đọc được
cái bài nào đó họ thích thú, cũng chẳng hạn như có người đọc sách của ông
Krisnamurti, trời ơi! nó hay quá, quá chừng hay. Do đó mở miệng ra thì cứ
Krisnamurti không ở trỏng à. Mà cuối cùng thì ông ta chỉ có miệng không à, chứ
không có giải thoát như Krisnamurti chút nào hết. Cho nên cuối cùng cái đó gọi
là cái kiến chấp của pháp. Mà cái đó nó lôi cuốn cũng mạnh lắm. Hở ra chút nào
thì ông ta dương cổ ra mà khạc ba cái thứ đó. Nó không phải là con đường giải
thoát, mà là con đường tà, một con đường sai, mà lý luận nghe nó siêu việt dữ
lắm. Cho nên từ đó chúng ta bị cái lầm chấp đó, chúng ta thấy nó hay, cho nên
chúng ta bị dính nó rồi. Nó cũng làm chúng ta cũng thích thú cũng say mê, cho
nên nó trói buộc chúng ta rất chặt. Cho nên ở đây thì Phật nói năm, chứ sự thật
ra nó là sáu. Sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp mà, chớ đâu phải là cái thứ
thường đâu.
6. Năm triền cái
Ờ bây giờ tiếp tục, chúng
ta sẽ học cái phần này. Bởi vì chúng ta nghe triền cái rồi nghe nào là kiết sử
mà chúng ta không hiểu nó thì chúng ta biết ở đâu mà chúng ta dẹp những cái
triền cái này. À bắt đầu chúng ta phải học cái này.
Có năm triền cái được gọi là
chướng ngại, được gọi là màn che, triền phược trong giới luật của bậc Thánh.Nghĩa là năm cái này nó làm cho chúng ta, nó làm che mất
cái giới luật nghi của các bậc Thánh. Nó làm cho chúng ta không giữ trọn được
các bậc Thánh là năm cái triền cái này. Cho nên một cái người mà học về giới
luật, mà không thông được năm cái triền cái này á, thì chúng ta bị nó che. Bởi
vì cái cái là cái màn che, nó che ngăn, nó làm cho chúng ta không có thấy được,
cho nên chúng ta phạm giới. Còn chúng ta thấy được, chúng ta không có phạm
giới. Cho nên trong cái luật của bậc Thánh hiền á, mà khi mà chúng ta rõ được
năm triền cái này á, thì chúng ta không còn bị nó che mất cái luật của chúng ta
đi. Còn nếu mà không rõ thì nó bị che mất đi, nó làm chúng ta phạm giới.
Một, là dục cái, tức là tham
cái đó. Hai là sân cái. Ba là hôn trầm thùy miên cái. Bốn là trạo hối cái. Năm
là nghi cái.Đó là năm cái được gọi là
ngũ triền cái đó, năm cái sự ngăn che làm chúng ta mờ mịt, làm chúng ta phạm
giới của bậc Thánh hiền đó. Thì đó là năm cái này.
Dục cáihay là tham cái, tức là cái lòng ham muốn của chúng ta,
nó ngăn che, nó làm chúng ta phạm giới. Bởi vì mình ham muốn, thí dụ mình thấy
cục đường á, hoặc miếng kẹo hoặc cái bánh, mình thèm ăn rồi. Thì bắt đầu, mình
lấy mình bỏ miệng mình nhai nuốt đi. Thì tức là cái lòng tham muốn của mình đó
đó, mà nó che đi, làm cho mình phạm giới phi thời. Phải không, quý thầy thấy
rất rõ không. Cho nên chỉ một chút xíu thôi là mình bị phạm giới rồi. Chỉ một
chút à, nó ham muốn cái đó thì nó bị che cái giới luật đi. Thì cái đó là mình
bị phi thời mất.
Sân cái, tức là cái tâm sân hận của chúng ta, giận dữ lên thì nó
làm chúng ta phạm vào những cái giới luật. Lời ăn tiếng nói chúng ta thô lỗ,
thì tức là nó phạm vào cái giới luật đó rồi. Nó chửi mắng người ta, nó nạt nộ
người ta, nó làm dữ tợn thì đó là phạm phải giới luật về khẩu nghiệp của chúng
ta.
Ba là hôn trầm thùy miên cái.Hôn trầm là ngủ gục, thùy miên là ngủ. Những cái người mà
ngủ này á, họ thường thường là họ bị phi thời. Cho nên trong cái vấn đề hôn
trầm thùy miên này, nó mới sanh ra cái nghi, à cái si. Mà cái si, cái si cái,
tức là cái ngu si, cái vô minh á thì gọi là hôn trầm thùy miên. Cái tức là si,
nên gọi là tham sân si đó, nó là ba cái độc. Thì hôn trầm thùy miên là cái
trạng thái của cái người ngu si. Mà ngu si thì nó làm cho người ta vô minh,
người ta không có thấy cái đúng, cái sai, cái nào là hại, cái nào không hại,
cái nào là đúng chân lý, cái nào không đúng chân lý. Vì cái si mà, làm sao đúng
được, cho nên do đó, nó bị lầm chấp. Cũng như bây giờ, mình chấp một cái pháp
nào đó, mình cứ cho nó đúng, tức là do cái si mê của mình, bị cái kiến chấp.
Cũng như mình lầm chấp cái thân của mình có cái ngã ở trong này, có cái thật ở
trong này. Đó là cái lầm chấp, mà cái lầm chấp đó là cái si, si mê. Mà cái si
mê đó nó hiện ra cái tướng hôn trầm thùy miên, tức là cái người mà ngu si á, là
cái người tham ngủ. Cái người mà ham ngủ, ngủ gà ngủ gật là mấy người ngu si
lắm, họ không có thông minh. Mặc dù họ thông minh cái gì kệ họ, nhưng đối với
Phật pháp đối với sự giải thoát tu hành, họ là cái người ham ngủ thì họ là cái
người ngu si. Họ không sáng suốt được, họ không thấy được cái chân lý đúng là
cái chỗ giải thoát. Mà họ cái người ngu si, hôn trầm thùy miên đó, những hạng
người đó luôn luôn chạy theo dục, chứ không bao giờ mà họ thoát ra khỏi dục.
Bốn là trạo hối cái, trạo hối cái là những cái loạn tưởng, những cái vọng
tưởng nó liên tục, nó từ cái này đến cái khác, nó làm cho họ nhớ tiếc thương
cái này, nhớ tiếc thương cái kia. Ngồi đây mà nhớ chuyện quá khứ không đó. Thì
cái chuyện đó là trạo hối của họ, gọi là trạo hối cái. Nó che làm cho không có
thấy được cái tâm của họ đang dày vò đang đau khổ, đang nhớ cái này, đang tiếc
cái kia đó, gọi là trạo hối.
Năm là nghi cái:Khi mình đến mình học ông thầy nào đó, dạy mình, mình
nghi ông thầy, ổng chưa có tu chứng, như thế này như thế khác. Thôi mình học
mấy bữa, bỏ đi. Như mình thấy cái vị đó tu hành, mình đâu có hiểu được họ như
thế nào trong một ngày, hai ngày đâu. Làm sao trông vào được, ông thầy này ông
ở bẩn quá à, không thể được. Rồi mình ở với ông thầy này, ông ở khổ hạnh quá à,
ở cũng hổng không được, ông này ông ăn uống ngày có bữa, vậy mình sống sao nổi
mà tu, ông thầy này ông làm cái kiểu cách của ổng, chứ chưa chắc ổng đã chứng.
Do đó mình nghi ổng đi, mình nghi ổng tức là mình phải bỏ ổng rồi, mình không
làm sao mình tu. Cho nên, những cái nghi đó là nó che mờ mà mình không thấy
được. Hoặc là ông thầy đó ông thể hiện qua thử thách người đệ tử. Cái người đệ
tử tưởng là ông thầy này còn phàm phu quá, thấy kiểu cách của ổng không phải
của Thánh. Nhưng mà không ngờ là người ta thử thách mình, nhưng mà cuối cùng là
mình bị người ta gạt mình rồi mình đâm ra mình nghi. Từ đó mình sẽ mất chỗ đứng
của mình tu tập.
Bởi năm triền cái này mà người
tu sĩ bị che khuất, bị trói buộc, bị triền phược, bị chướng ngại, khiến cho
người tu sĩ phạm giới. Đó thì năm cái
triền cái đó sẽ làm cho người tu sĩ phạm giới, đều là do năm cái triền cái đó.
7. Năm hạ phần kiết sử
À thì chúng ta đã biết
được năm cái triền cái rồi. Thì bây giờ chúng ta học thêm, năm cái hạ phần kiết
sử. Bởi vì về kiết sử thì nó có năm hạ phần kiết sử và năm thượng phần kiết sử.
Nếu mà chúng ta không học thì chúng ta làm sao biết được. Do đó chúng ta thấy
triền cái nó cũng giống mà lại là kiết sử nó cũng giống như nhau, nó không khác
nhau. Mà chỗ nào là kiết sử, chỗ nào là cái. Chúng ta phải phân biệt được cái
chỗ này.
Năm hạ phần kiết sử:
- Một là tham.
- Hai là sân.
- Ba là si.
- Bốn là mạn.
- Năm là nghi.
Tham tức là hồi nãy
là dục cái đó. Thì chúng ta thấy nó che ngăn nó làm cho chúng ta không
thấy gọi là cái. Mà nó làm cho chúng ta bị trói buộc, bị dính mắc đó, thì
đó là kiết sử. Kiết sử có nghĩa là nó trói chúng ta rồi nó sai chúng ta, nó làm
cho chúng ta chạy theo nó gọi là kiết sử. Cho nên
khi mà chúng ta bị một cái tâm tham, mà nó kiết sử á thì chúng ta bị nó trói
chúng ta rồi nó sai chúng ta gọi là kiết sử. Mà khi một cái tâm tham mà của
chúng ta nó bị mờ ám nó làm cho chúng ta phạm giới đó, thì cái đó là dục cái.
Chúng ta không rõ cho nên do cái tâm ham muốn đó mà nó xảy ra nó làm chúng ta
phạm giới. Thì đó là dục cái. Chẳng hạn là, như bây giờ đó mình bị che mờ, mình
thấy một cái cô phụ nữ đi ngang qua, trong tâm mình khởi lên có cái tâm dục,
thì do đó là mình bị cái tâm dục mình nó che đi. Tức là nó tâm tham dục đó, nó
che đi. Do đó cái ý mình khởi lên, mình thấy cô ta đẹp, chứ mình chưa khởi gì
hết, thấy cô ta đẹp thì ngay đó là mình bị che mờ đi, do cái ý đó mình đã bị
phạm giới. Đó, còn bây giờ thì kiết sử thì nó lôi chúng ta chạy theo nè cười
cợt, nói chuyện với cô ta rồi đó, thì cái chuyện đó là kiết sử. Bây giờ nó lại
gần hơn đó, hồi đó nó che chúng ta, rồi chúng ta hổng thấy, chúng ta khởi mà
khởi ý thích thôi. Thì bắt đầu cô này ngó mình cái, liếc cái rồi, mình cũng ngó
theo liếc theo, bắt đầu bây giờ mình đi theo gót cô ta, tìm cách gợi chuyện
nói. Thì như vậy, đó là mình đã bị kiết sử nó trói mình đó.
Sân nó cũng vậy, mà
si. Ở đây chỗ si mà gọi là năm hạ phần kiết sử á thì Phật còn có một cái tên
gọi là giới cấm thủ. Nghĩa là cái si nó làm cho mình, dính mắc, giữ
gìn cái đó trở lại. Nó làm cho mình không có thấy cho nên mình không có buông
ra được, mình không có ly ra được. Chạy theo hoài mà không có biết mệt mỏi. Đó
là gọi là si, cho nên Phật còn gọi là giới cấm thủ.
Mạn, tức là, ở đây
Phật còn gọi chữ mạn là thân kiến. Nghĩa là mình chấp cái thân của mình. À cái
phần mà năm hạ phần kiết sử này á, là thay vì mạn là ngã mạn, là kiêu mạn thì ở đây mạn của
cái năm hạ phần kiết sử này thì Phật cho là thân kiến. Tức là mình
chấp cái thân của mình là có thật, có thật ở trong thân này, có cái thật ở
trong này. Ở trong cái thân tứ đại này, nó có cái thật ở trong này. Cho nên đó
gọi là thân kiến là kiến chấp, tức là chấp cái thân có thật. Cho nên chữ mạn
đây là chỉ cái thân kiến, chứ không phải mạn là ngã mạn, cao ngạo, mà đây là
thân kiến. Cho nên năm hạ phần kiết sử này là chắp cái thân mình, do có vì vậy
mà có những vật chất xung quanh là cái năng sở của nó, nó trói buộc mình nó làm
cho mình bị cái mạn này.
Nghi thì chắc chắn là nãy
Thầy có giảng ở nghi cái rồi, bởi vì cái nghi này nó nghi rồi bắt đầu nó đi
theo dõi rồi nó này kia nọ, nó đủ cách nó lôi cuốn mình đó, gọi là nghi. Mà nó
cái kiết sử thì nó lôi mình đi theo cái sự nghi đó, mà nó không bao giờ mà rời
gọi là kiết sử. Cho nên đây gọi là năm hạ phần kiết sử.
8. Năm thượng phần kiết sử
Năm thượng phần kiết sử
thì như thế nào?
- Một thì sắc tham.
- Hai là vô sắc tham.
- Ba là mạn.
- Bốn là trạo cử.
- Năm là vô minh.
Vô minh ở đây chúng ta
phải hiểu đó là si đó, là hôn trầm thùy miên như hồi nãy đó là ở trên cái kia.
Còn chữ si ở chỗ năm hạ phần kiết sử này á là giới cấm thủ, tức là bị dính mắc,
nó không rời ra được, nó giữ chặt, nó trói buộc ở cái vật chất đó rồi, làm cho
chúng ta chặt ở trong đó. Cho nên cái si này nó bị mờ mịt, nó vô minh nó không
thấy mà chính cho đó là cái chấp của mình. Như bây giờ thân kiến, mình chấp cái
thân của mình là thật, vì giới cấm thủ có cái si, cho nên mình coi đó là thật.
Ai nói gì mình cũng chẳng nghe hết, tức là mình bị si tức là giới cấm thủ đó.
Còn ở năm thượng phần kiết
sử này, sắc tham nghĩa là có một cái hình ảnh, có một sắc tướng nào đó, làm cho
mình chạy theo cái sắc đó, trói buộc mình chạy theo sắc đó, tức là sắc tham. Vô
sắc tham tức là mình ngồi mình tưởng tượng ra hình sắc này sắc kia thấy thích
thú ở trong đó, đó là kiết sử vô sắc tham.
Ba là mạn, tức là ở chỗ
mạn này là cao mạn, kiêu mạn chứ không phải mạn là thân kiến nữa đâu. Tức là nó
coi mình là trên hết á. Thì cái mạn cũng có nghĩa là thân kiến, cũng có nghĩa
là cao ngạo, cũng có nghĩa là chấp ngã.
Trạo cử, như hồi nãy ở
trạo hối đó. Trạo cử là nó lăng xăng, nó nghĩ chuyện này đến chuyện kia, lung
tung. Đó là năm thượng phần kiết sử. Thì cái triền miên của cái tư tưởng nó nối
tiếp nhau, nó gây cho chúng ta có cái sự liên tục trói buộc nhau ở trong sự
triền miên suy nghĩ đó, thì cái đó là trạo cử của kiết sử, năm thượng phần kiết
sử.
Vô minh tức là si thì si
vô minh nó cũng giống như những cái si kia, nhưng mà cái si này nó thể hiện qua
cái chỗ, vô mình mờ không thấy rõ năm thượng phần kiết sử này, không có thấy rõ
cái chân lý giải thoát của Đạo Phật. Còn cái si hồi nãy đó là hôn trầm thùy
miên á, đó là cái sự ngu si của một cái mất tỉnh thức, nó không sáng suốt. Còn
cái chỗ vô minh này, nó có minh. Cái chỗ vô minh của thượng phần kiết sử này á
là cái người này có thể là một nhà bác học, một nhà tiến sĩ học, rất thông
minh, thông minh mọi mặt của thế gian, nhưng họ không có thông minh con đường
giải thoát của họ, không có trí tuệ hiểu biết con đường giải thoát của Đạo
Phật, khổ, tập, diệt, đạo cho nên họ không có giải thoát được họ. Thì vậy cái
vô minh này gọi là si, họ không thấy được cái chân lý giải thoát, mà họ thấy
toàn là chạy theo cái danh, lợi, chạy theo cái danh của thế gian, cái lợi của
thế gian, cái sắc của thế gian, cái ăn, cái uống, cái ngủ của thế gian. Họ làm
cái gì họ cũng lo phục vụ cho những cái đó. Thì họ gọi là vô minh, chứ họ thông
minh lắm chứ hổng phải. Họ làm ông giám đốc, bà giám đốc chứ hổng phải nhỏ đâu.
Họ là ông lớn không chứ hổng phải nhỏ đâu, nhưng mà họ vẫn vô minh là vì
họ không giải thoát. Cho nên chữ si của năm thượng phần kiết sử thì chúng ta
phải hiểu nó nằm ở chỗ, nó chạy theo những thứ thông minh của dục lạc, chứ
không phải si theo cái kiểu mà buồn ngủ mà như mấy thằng làm biếng đó đâu, như
là triền cái đó đâu. Đó thì phải hiểu như vậy, thì chúng ta mới hiểu được những
cái danh từ ở trong kinh điển của Đạo Phật để chỉ cho cái tên của nó như thế
nào.
9. Bảy kiết sử
(tóm chung năm hạ phần kiết sử
và năm thượng tầng kiết sử)
Và về phần kiết sử mà gọi
chung á. Thì Đức Phật có cho nó là bảy cái kiết sử. Nghĩa là hồi đó thì 5 cái
hạ phần kiết sử, 5 cái thượng tầng kiết sử, tức là 10 cái kiết sử. Nhưng mà Đức
Phật tóm lại thì cho chúng ta biết là có 7 cái kiết sử. Đó là:
- Một: ái kiết sử.
- Hai: sân kiết sử.
- Ba: kiến kiết sử.
- Bốn: nghi kiết sử.
- Năm: mạn kiết sử.
- Sáu: hữu tham kiết sử.
- Bảy: vô minh kiết sử.
Đó, thì chúng ta thấy rõ
ràng là bảy cái kiết sử này mà gom chung nó là 10 cái kiết sử kia, năm hạ phần
kiết sử và năm thượng phần kiết sử. Gộp lại thì nó chỉ có 7 kiết sử, tắt lại
thì có 7 kiết sử mà thôi. Ở đây thì những kiết sử cũng là ái kiết sử tức là dục
kiết sử hay là tham kiết sử thôi chứ không có gì. Sân thì biết rồi, kiến thì
thân kiến biết rồi, nghi quý vị cũng biết rồi, mạn cũng biết rồi. Hữu tham kiết
sử các vị cũng biết rồi. Mà vô minh kiết sử cũng biết rồi. Hữu tham tức là có
khởi một cái lòng ham muốn, Hữu là có mà, có khởi một cái lòng ham muốn tức là
có kiết sử liền tức khắc. Như vậy là chúng ta đã rõ hết bảy kiết sử.
10. Bảy tùy miên
Vậy thì rõ bảy kiết sử thì
chúng ta phải rõ thêm bảy tùy miên. Tùy miên đây không phải là thùy miên. Thùy
miên là buồn ngủ. Còn tùy miên, tùy là theo, miên là liên tục. Theo liên tục,
cho nên cái này được gọi là theo liên tục đó thì gọi là bảy tùy miên. Cho nên,
có nhiều người không hiểu á, thấy ở trong kinh sách có chỗ sao để thùy miên, có
chỗ sao để tùy miên, họ không hiểu. Họ không hiểu cái chỗ danh từ người ta
dùng. Và người ta ta cũng không hiểu bởi vì cái chữ tùy với chữ thùy, nghe cái
âm nó gần như là giống nhau. Nhưng nó cách xa lắm. Chữ thùy là nó ngủ, mà chữ
tùy là nó theo. Đó, phải hiểu như vậy thì chúng ta mới thấy cái chỗ bảy tùy
miên này. Nó có bảy tùy miên, chứ không phải nó có hôn trầm thùy miên không.
Cái kia là ngủ nghỉ, ngủ gục thôi, nó khác.
Cho nên bảy tùy miên này
nó như thế nào?
Một là dục ái tùy miên.Nghĩa là cái lòng tham ái, tham dục của mình á, nó miên
man nó thích thú ở trong đó nó kéo dài chúng ta, nó thích lắm, nó kéo dài thời
gian miên miên ở trong đó đó. Cái người mà có cái tâm dục nó miên man ở trong
những cái hình ảnh của các cô gái mà khiêu gợi họ đó, họ không bao giờ quên
những hình ảnh đó đâu. Cho nên nó làm cho họ miên man ở trong chỗ thích dục đó.
Sân tùy miên cũng vậy.Người ta chửi mình cái bắt đầu suốt ngày đó ở trong lòng
nó cứ liên tục nó cứ phiền não, phiền não hoài đó, gọi là tùy miên sân đó. Đó,
mình phải hiểu chỗ đó. Ngay sân rồi thì mình dứt đi liền, không, để nó kéo dài
từ ngày này sang ngày khác, ba bốn bữa mới cười cười được chút. Chứ cái mặt héo
xèo à. Đó là nó bị tùy miên sân đó.
Kiến tùy miên cũng vậy.Luôn luôn lúc nào mình cũng chấp những cái ý nghĩ của
mình, cái gì của mình đúng, luôn luôn mình cứ cho đúng, luôn luôn đúng, liên
tục hoài, luôn luôn khi nào cũng cho đúng đó. Coi chừng cái đó nó kéo dài hoài,
nó không bao giờ cho mình thoát ra khỏi những tà kiến nữa. Nhiều khi những cái
tà kiến của mình, mình cứ cho là mình đúng, rồi mình cứ miên mật, liên tục ở trong
đó, mình cứ cho nó rằng đúng, đúng, đúng, đúng, không bao giờ sai hết, ai nói
gì cũng trật, chỉ có mình là đúng thôi. Thì cái đó là cái tùy miên đó, tùy miên
kiến tùy miên.
Nghi tùy miên cũng vậy.Nghi người nào nghi chết thì thôi à, không có chịu suy
nghĩ coi người ta có đúng hay sai, người ta có ăn trộm hay không? Mà cứ nghi
người ta ăn trộm, cứ để nghi ăn trộm hoài à, mà người ta có ăn trộm đâu.
Đó là nghi tùy miên.
Mạn tùy miên cũng vậy.Ngã mạn cống cao luôn luôn lúc nào hở ra cũng nghênh mặt
ở trên trời á, đi thì hổng ngó dưới đất, ngó trên trời coi thiên hạ không ra
gì, coi người ta như kiến, cỏ đó. Đó là mạn tùy miên.
Hữu tham tùy miên. Lòng ham muốn
của chúng ta, có cái gì cũng ham muốn, liên tục ở trong đầu. Thấy cái gì cũng
ham, thấy cái gì cũng ham đó, gọi là hữu tham tùy miên, thấy vật gì nhỏ lớn gì
cũng tham hết, cũng đem nhét, cất hết. Đó là tham tùy miên đó.
Vô minh tùy miên. Là luôn luôn lúc nào cũng hổng thấy hiểu biết gì hết à,
cái gì cũng chấp, cái gì cũng dính, cái gì cũng mắc hết à, lúc nào nó cũng miên
mật ở trong cái đầu của người đó hết. Đó gọi là vô minh tùy miên, không có hiểu
cái gì hết, cái gì cũng bị dính mắc hết.
Đó là những cái phần mà
chúng ta học về những cái từ để chúng ta biết được những cái trạng thái của tâm
chúng ta nó rơi vào ở trong những cái trạng thái nào của kiết sử, của năm triền
cái, của bảy cái tùy miên. Chúng ta biết được những cái chỗ đó để mà chúng ta
biết được cái tâm niệm của mình nó đang ở cái dạng nào, mà chúng ta diệt trừ nó
chớ không có để. Nói như vậy có quá nhiều, quý thầy cũng khó nhớ, do đó quý
thầy cũng cần đọc đi đọc lại nhiều lần để nhớ những cái này. Khi tâm chúng ta
khởi ra chúng ta biết nó nằm ở trong cái kiết sử nào, cái dục cái nào, như thế
nào? thì chúng ta mới loại trừ nó ra được. Còn nếu không á thì chúng ta khó mà
loại trừ ra được đâu.
À bây giờ thầy đọc lại chỗ
tùy miên con, để cho các con kiểm tra lại bảy. Một là dục ái tùy miên, hai là
sân tùy miên, ba là kiến tùy miên, bốn là nghi tùy miên, nghi tùy miên các con,
năm là mạn tùy miên, sáu là hữu tham tùy miên, bảy là vô minh tùy miên. Đủ rồi
phải không?
11. Giới tuệ
Để tiếp tục chương trình
giáo án này, quý thầy học đến giới tuệ. Sau thời gian đã qua, đã được học giới
hạnh, giới đức và bây giờ là học giới tuệ.
Giới tuệ phải được
đặt trên nền tảng của giới đức, nếu không đặt trên nền tảng giới đức thì khó mà
xây dựng ngôi nhà giới tuệ được. Nghĩa là không tu tập xong
giới đức thì không thể nào tu tập giới tuệ được, cũng như các thầy không tu tập
giới hạnh được mà vội tu giới đức thì không được(BBT:BN,19,E1:37:49)(BBT:CĐ,21A,E00:44:20).Ví
như trường học ngoài đời có ba cấp, (BBT:CĐ,21B,B00:00:00)(BBT:BN,19,B1:37:52)một là Tiểu học, hai là Trung
học, ba là Đại học. Nếu học chưa xong Tiểu học thì làm sao lên Trung học học
được? Nếu học chưa xong Trung học mà lên Đại học thì làm sao học được. Vì vậy
quý thầy muốn tu theo Đạo Phật thì quý thầy phải tu tập lớp sơ thiện, tức là
giới hạnh. Khi đã tu tập lớp này xong mới tiến lên lớp trung thiện, giới đức.
Sau khi đã tu tập xong lớp trung thiện xong quý thầy mới tiến lên lớp tu tập
hậu thiện, là giới tuệ.
Đó thì quý thầy thấy nó
phải có từng bước, từng bước. Cũng như bây giờ thí dụ như cái lớp mà sơ thiện
là cái lớp giới hạnh, mà cái lớp giới hạnh thì quý thầy biết rằng đó là cái lộ
trình của cái người tu sĩ, mà giờ qúy thầy còn ở trong cái chiếc áo của người
cư sĩ, còn gia duyên còn làm những công việc, còn bao nhiêu nghề nghiệp để sinh
sống thì thử hỏi quý thầy không có thực hiện được cái lớp đó, mà giờ quý thầy
ngồi cái lớp giới đức để tu thiền định có được không? À như vậy là quý thầy
không có học cái lớp tiểu học mà nhảy lên trung học học thì ngồi đó chỉ ngó
thôi chứ làm gì, người ta cho bài ra chỉ còn có nước cắn ngòi bút chứ làm sao
mà làm. Đó, thì quý thầy thấy cái điều đó là một cái điều quý thầy đã lạc ở
trên con đường tu tập. Cho nên cái ba y một bát mà mình vẫn chưa xong mà mình
vội mình ngồi tu thiền thì chẳng qua mình vào hang quỷ, chứ thiền gì mà thiền
đúng được. Bởi vì đức hạnh của con người là cái giới hạnh là phải dẹp tất cả
đời sống của thế gian mới đi vào con đường này được.
Bởi vậy đến giới tuệ, quý
thầy mới thấy cái lực của giới tuệ, nó tuyệt vời không thể nào tưởng tượng
được. Bởi vì người ta phải dẹp hẳn cái thế gian, cái đời sống của thế gian,
hoàn toàn là người ta thực hiện cái đời sống của bậc tu sĩ rồi. Do đó mới
đến giới tuệ này, chúng ta mới thấy cái sự siêu việt của con người chứ đâu phải
là tầm thường. Cho nên muốn đi được vào cái chỗ này mà quý thầy còn sống ở
trong cái thế gian thì thử hỏi làm sao mà quý thầy được. Cho nên cái lớp sơ
thiện mà không được thì làm sao mà cái lớp mà đại học, cái lớp mà giới tuệ
được, cái lớp mà hậu thiện được, đâu có phải chuyện dễ đâu.
Lẽ ra người dạy đạo tu
hành không thể dạy mênh mang như thế này được.Nghĩa là đối với Thầy, là một
người mà dạy đạo thì không bao giờ mà dạy mênh mang như thế này nhưng vì cái
giáo án tu tập của đức Phật đã có sẵn mấy ngàn năm. Nghĩa là cái giáo án của
đức Phật đã để lại trong kinh sách của chúng ta mấy ngàn năm rồi, chứ không
phải là ít, 2541 năm chứ đâu phải ít, thế mà đến bây giờ chưa có ai sắp xếp lại
được những cái thứ lớp này. Cho nên ở đây thì vì vậy mà Thầy phải dạy mênh mang
như vậy, chứ còn lẽ ra mà dạy đạo là dạy tùy theo từng căn cơ của mỗi người.
Giờ đến đây là phải sống đúng cái hạnh của người tu, nghĩa là phải bỏ hết của
cải tài sản, dẹp hết nghề nghiệp, đến đây chỉ ôm bát đi xin thôi. Cái đó là cái
giới hạnh thứ nhất, chấp nhận được thì vô tu, không chấp nhận được thì thôi.
Chứ còn tu lơ mơ mà như thế này á, thì tốn của đàn na thí chủ, chứ có lợi ích
gì đâu, nó có đi đến chỗ nào được đâu. Cho nên khi mà chấp nhận đời sống xuất
gia tu hành rồi thì phải ba y, một bát rồi. Đó là cái giới hạnh
Về cái giới đức thì bắt
đầu bây giờ mình đã ly được rồi thì ngay đó giới đức mình có thể tiếp tục mình
tu được rồi, đâu có gì khó đâu. Thì quý thầy thấy cái điều kiện tu tập phải rõ
như vậy, còn bây giờ Thầy dạy mênh mang như thế này thì thử hỏi có ai trong lớp
mình có giới đức được chưa? Chưa! Phần nhiều thì chúng ta đang ở trong lưng
chừng chứ chưa phải là rõ nét đâu, khó lắm chứ không phải dễ đâu.
Nhưng vì giáo án tu tập
của đức Phật đã có sẵn mấy ngàn năm nhưng chưa ai sắp xếp, có lớp lang có kĩ
thuật, thấp cao cho rõ ràng để người tu tập được dễ dàng, vì thế Thầy
phải sắp xếp có lớp lang, có kĩ thuật nên mới dạy mênh mang như thế này. Vả
lại, nếu Thầy không làm điều này thì nhìn trước nhìn sau còn có ai làm được, và
làm sống lại giáo lý của đức Phật. Nghĩa là bây giờ nhìn trước, nhìn sau thì
Thầy thấy chưa có một vị thầy nào, chưa có một người nào mà có thể gánh vác cái
trọng trách này được. Cho nên buộc lòng Thầy phải dạy cách thức mênh mang như
thế này. Chuyện mà các thầy chưa tu tới mà phải nói gọi là dạy mênh mang đó, vì
phải tu tới đâu là dạy tới đó chứ không dạy cái kiểu này được.
Cho nên, ngày xưa đức Phật
dạy đệ tử của ngài cũng vậy, khi tu đến đâu thì Ngài dạy tới đó. Mà người nào
chưa tu tới đâu thì Ngài chưa có dạy tới những cái mà chưa có thể mà dạy cho họ
được. Còn bây giờ vì những cái điều kiện, nó có những cái điều kiện cần phải
làm cho nên Thầy phải làm mà thôi, chứ dạy như thế này nhiều khi gieo vào trong
tâm tư của quý vị những cái tưởng giải trong đó không à, rồi những cái tưởng
tượng của các vị trong đó không à, chứ không phải là cái tốt lành gì hết. Cho
nên Thầy không có mong muốn làm cái điều này.
Cho nên từ cái ngày mà
thầy tu hành xong, Thầy ra thất á. Thầy không bao giờ thầy muốn viết một bài
kinh nữa, Thầy đã hiểu biết những cái lầm lạc đó, vì viết bài kinh là giết
người ta chứ chưa phải là độ người ta đâu. Bởi vì người ta, khi mà người ta
hiểu nó hay á, thì người ta bị dính nó rồi. Khi mà người ta chưa tu tới đó,
người ta tập chưa có căn bản, đầu chưa có mà người ta tập người ta thấy cái hay
đó bắt đầu người ta tập cái đó, thì cái tưởng của người ta nó sanh ra. Nó sanh
ra thì nó là ma chướng của họ chớ đâu phải chuyện dễ. Cho nên cái viết kinh
sách là một cái tai hại.
Cho nên thời đức
Phật, Ngài không có viết kinh sách, và người nào dạy tới đâu là tu tới đó. Rồi
sai thì Ngài nhắc nhở, chớ cũng không cho ai mà lấy lá buông hoặc lấy lá thốt
nốt mà ngồi mà viết chữ lên đó hết để mà ghi nhớ lại như bây giờ đâu. Còn bây
giờ chúng ta ghi nhớ vậy, nó làm cho cho đầu óc của chúng ta không có sống độc
cư, không có sống trầm lặng được. Thường thường là chúng ta hay quên, mà chúng
ta tu tập, vốn tu tập chứ không phải vốn để nhớ. Tu tập để giải thoát chứ không
phải để nhớ một cái bồ chữ đó đâu, một cái tủ đựng kinh sách đó đâu.Cho nên
chúng ta vốn để nhớ, nhớ mà cái tâm của chúng ta trở thành một cái tủ đựng kinh
sách. Từ đó cái giải thoát nó không có(BBT:BN,19,E1:44:38)(BBT:CĐ,021B,E0:05:55),(BBT:CĐ,21B,B0:05:55)(BBT:BN,20,B0:00:00) mà nó chỉ toàn là có cái tri kiến mà
thôi. Đó là cái tai hại mà khi mà Thầy dạy đạo thày biết cái này rất là rõ
ràng, không phải là một cái chuyện đơn giản.
Vì vậy, mà về cái vấn đề
giáo lý của nhà Phật. Bây giờ phải sắp xếp mà nhìn trước, nhìn sau thì ai là
cái người mà làm cái này. Cho nên Thầy buộc lòng phải làm mà làm với cái sự bất
đắc dĩ của mình, chứ không phải làm với cái sự mà cầu danh, cầu lợi ở trong này
đâu. Thầy chỉ mong có người tu hành chứng đạo, chứ không phải mong cho người ta
có kiến thức hiểu biết như thế này đâu. Cho nên, cái viết ra là một cái tai hại
rất lớn. Cái nói ra khi mà người ta chưa tới là một điều tai hại cho tư tưởng,
làm hư hoại tâm hồn của họ, làm hư hoại tư tưởng của họ. Còn hiểu rồi, nó dính
mắc ở trong đó, nó khó mà giãy dụa, nên họ đâu còn mà thanh thản được. Họ bị
cái lời nói của Thầy, họ bị những dòng chữ của Thầy làm cho chi phối tâm hồn
của họ. Cho nên họ đâu còn là một tờ giấy trong sạch nữa, họ bị Thầy gạch mực ở
trong đó quá nhiều rồi. Cho nên những cái điều này là cái điều mà bất đắc dĩ
Thầy phải làm thôi.
Bây giờ quý thầy bắt đầu
tu, học tập Giới tuệ.
Khi tu tập Giới đức xong
thì toàn thân của quý thầy chỗ nào cũng được thấm nhuần, thuần tịnh, trong
sạch. Nghĩa là khi mà tu tập Giới Đức rồi thì thân tâm của quý vị nó thuần
tịnh, nó thấm nhuần, rất là trong sáng và thanh tịnh, rất là sáng suốt. Nghĩa
là lúc bấy giờ khi mà Giới Đức mà thực hiện xong rồi thì nó thuần tịnh
lắm! Tâm hồn của quý vị nó không còn ô nhiễm một chút gì ở thế gian, nó không
còn có khởi một sự ham muốn dục lạc của thế gian, mặc dù là có bao nhiêu sức
cám dỗ của nó cũng không lôi cuốn được quý vị nữa. Cho nên nó gọi là thuần
tịnh, thấm nhuần, thuần tịnh, trong sáng. Đó, thì bắt đầu bây giờ quý vị mới
học Giới Tuệ thứ nhất của cái tâm này đây!
“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản”.
Như vậy nghĩa là lúc bây
giờ cái tâm của quý vị nó đang ở trong cái trạng thái như vậy đó. Những cái
danh từ mà Thầy chỉ đọc ra đây để cho quý thầy nghe được cái tâm của mình như
vậy đó. Thầy đọc lại một lần nữa để quý thầy xét cái tâm của mình khi đã tu
Giới Đức xong thì luôn luôn cái tâm của quý vị bao giờ nó cũng ở trong cái
trạng thái này:
Với tâm định tĩnh - rất định tĩnh, không có gì làm cho nó chao động
được hết, thuần tịnh - thuần là thanh
tịnh, nó không còn bị cái gì mà dơ bẩn ở trong đó, cho nên nó không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến -
nhu là mềm, nhuyến là nó mềm dẻo, dễ sử dụng -
cái tâm của quý vị bây giờ dễ sử dụng, sai sao nó làm vậy hết, nó không bao giờ
có chỗ cứng đầu cứng cổ như bây giờ đâu, vững chắc -
luôn luôn nó rất vững chắc, cái sự nhu nhuyến đó nó mềm dẻo vậy chứ nó rất là
vững chắc, nó không có bị chao động, nó bình thản, nó thản nhiên, nó thanh
thản, nó không cái gì làm mất cái sự bình thản, thản nhiên của nó được. Đó là
lúc bây giờ các vị đã học tu tập được cái Giới Đức rồi thì cái tâm của quý vị
nó đến ở mức độ này. Mà nó đến ở mức độ này thì quý
vị mới tập luyện được cái Giới Tuệ, chứ còn nếu không thì quý vị không bao giờ
mà thực hiện được cái Giới Tuệ này đâu.
“Lúc bây giờ vị Tỳ kheo dẫn tâm
hướng đến Chánh trí, Chánh kiến”. Bây
giờ chúng ta mới dẫn tâm, tâm nó được thanh tịnh như vậy rồi thì quý vị mới dẫn
cái tâm của quý vị đến Chánh trí - tức là trí chân chính của quý vị, rồi cái
Chánh kiến - cái hiểu biết chân chính của quý vị thì vị ấy biết rõ, biết rất
rõ. Nghĩa là người đó mà dẫn cái chánh trí với chánh kiến của mình thì biết rất
rõ:
“Thân này của ta là do sắc
pháp, do bốn đại mà thành, do cha mẹ sanh mà có, do nhờ cơm cháo nuôi dưỡng mà
lớn, nhưng nó lại vô thường, biến hoại, phiền toái, đoạn diệt, hoại diệt. Trong
thân này chỉ có thức uẩn là bị trói buộc, là bị quên mất”.
Nghĩa là khi người
đó mà có sức định tĩnh của tâm như vậy rồi thì hướng tâm đến Chánh trí thì bây
giờ mới nhìn thấy cái thân này nó rõ ràng như vậy và biết được cái thức nó
đang bị trói buộc trong cái thân này, nó đang bị trói buộc ở trong đó và nó bị
lãng quyên mất đi và bây giờ nó đang hiện ra được. Đó, thì bây giờ mới thấy
được cái chỗ mà Thức thức nó
đã từ lâu chúng ta nói thân ngũ uẩn của chúng ta mà, Sắc – Thọ - Tưởng – Hành –
Thức đó, thì cái Thức này từ lâu nó nằm ngủ yên đó, nó bị trói buộc, cột chặt,
không làm việc gì được hết. Tất cả mọi “thằng khác” thì làm việc, còn
riêng nó thì nó nằm im lìm đó, nó như là ngủ quên vậy, như người ta không có
nhớ nó được vậy. Thì đó là khi mà chúng ta dùng cái sức định tĩnh của tâm chúng
ta mới nhìn thấy được cái Thức của chúng ta nó đang bị ngủ quên, bị trói buộc
từ lâu tới giờ vậy đó.
Bây giờ là lúc cần thiết
dùng đến nó, nó sẽ làm các phận sự mà ta sai bảo trong khi tu tập Giới Tuệ. Đó,
bây giờ nhìn nó mình thấy nó từ lâu bị trói buộc, nó bị bỏ quên lãng đi, vì vậy
bây giờ mình mới cần thiết mình mới dùng nó để cho mình sai nó làm những phận
sự sau này, cho nên mình sai nó cái gì thì nó cũng nghe theo hết.
Như vậy là khi mà
chúng ta dùng được cái Chánh kiến, Chánh trí chúng ta mới quan sát lại nó, khi
mà tâm chúng ta đã ở trong cái thanh tịnh, cái thuần tịnh này thì chúng ta mới
có sai được cái Thức thức của
chúng ta, mới dậy nó làm việc ở trong cái Giới Tuệ của nó mới được.
“Ví như một hòn ngọc lưu ly bảo
châu đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế
trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Một sợi dây được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây
màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hoặc màu nâu chúng ta đều nhìn thấy rõ
sợi dây ấy màu gì, rõ ràng, không sai một chút nào”.
Nghĩa là đức Phật
ví như cái lúc mà cái tâm của chúng ta thuần tịnh như vậy mà chúng ta hướng đến
chánh trí, chánh kiến mà thấy cái Thức của chúng ta bị trói buộc, bị ngủ quên,
giống như chúng ta xỏ một sợi dây qua một hàng ngọc bảo châu trong suốt, cho
nên sợi dây màu vàng là chúng ta thấy vàng, màu xanh là chúng ta thấy xanh, màu
đỏ chúng ta thấy đỏ, nó không có thấy màu khác và không có mờ mịt chút nào hết.
Đó là đức Phật đem cái ví dụ như vậy để chúng ta thấy rằng cái tâm mà chúng ta
thuần tịnh rồi thì chúng ta mới dùng cái tri kiến và cái chánh kiến, cái chánh
trí của chúng ta, chúng ta thấy được cái Thức của chúng ta, thấy được cái thân này vô thường, biến hoại, nó luôn luôn là bị
hoại diệt, thay đổi, nó làm cho chúng ta phiền toái, đau khổ và đồng thời cái
mà chúng ta đang cần dùng nó thì nó bị bỏ quên đi. Đó là cái
Thức thức của chúng ta bị bỏ quên đi, chúng ta không thấy, nó bị trói buộc, nó
bị bỏ quên, nó không có làm việc gì được hết. Bây giờ là lúc chúng ta cần thiết
phải đánh thức nó dậy, phải dựng nó dậy để sai bảo nó làm công việc trong sự tu
tập Giới Tuệ của chúng ta. Nghĩa là chúng ta muốn tu tập
Giới Tuệ thì chúng ta phải đánh thức Thức của chúng ta dậy thì chúng ta mới tu
tập được Giới Tuệ. Còn Thức thức chúng ta không có dậy thì
không có tu tập được Giới Tuệ. Đó, quý thầy hiểu chưa?
Mà khi đó chúng ta phải
thực hiện Thiền định rồi thì chúng ta đánh thức nó dậy. Mà Thiền định tức là
Giới Đức, mà Giới Đức xong thì mới có được cái này. Còn nếu mà Giới Đức chưa
xong thì thử hỏi làm sao có được.
Hôm nay quý thầy đã thấy
từng cái chỗ mà chúng ta vô cái đoạn đầu chúng ta đã đánh thức được cái Thức
thức của chúng ta bằng cái chánh trí, bằng cái chánh kiến của chúng ta.
“Đó là Giới Tuệ thứ nhất trong
Giới luật của đức Phật mà cũng là một kết quả tu tập thiết thực hiện tại của vị
ấy”. Nghĩa là cái vị ấy mà tu được
tới chỗ này là cái Giới Tuệ của vị ấy đã đánh thức được cái Thức thức dậy rồi.
Đó là một cái kết quả thiết thực, hiện tại của vị ấy. Cái kết quả rất là vi
diệu. Đó là cái Giới Tuệ thứ nhất. Đánh thức được cái Thức đó là lúc bây giờ
mới dùng cái chánh trí và cái chánh kiến mà đánh thức nó dậy, làm cho nó bật dậy bằng cái gì? Bằng cái pháp hướng.
Đó là Giới Tuệ thứ nhất
chúng ta phải tiếp tục ở trên con đường tu tập để đánh thức cái Thức thức của
chúng ta dậy, để sai cho nó tiếp tục ở trên con đường mà thực hiện những cái
Giới Tuệ của nó, tu tập những cái Giới Tuệ của nó.
“2. Với tâm định tĩnh, thuần
tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng,
vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ kheo chú tâm hướng đến sự hóa hiện một thân do
ý làm ra, vị ấy tạo ra một thân khác từ thân này, cũng là Sắc pháp, đầy đủ các
chi tiết lớn nhỏ, không thiếu một căn nào, cũng ví như người rút một cây lao ra
khỏi vỏ lao, cũng ví như người rút thanh gươm thanh kiếm ra từ bao kiếm, cũng
ví như người lột xác một con rắn”.
Đó, khi mà chúng ta đến
đây chúng ta thực hiện cái Giới Tuệ của chúng ta mà cái Giới Tuệ thứ hai này là
chúng ta sai cái Thức thức của chúng ta phải làm việc. Bây giờ từ ở trong một
cái thân này phải biến ra một cái thân khác, hiện ra một cái thân khác mà làm
cho được đầy đủ cái thân đó cũng là Sắc tướng cũng vậy, rồi các căn nó cũng
vậy, lớn nhỏ mắt tai mũi miệng nó cũng y như cái thân của chúng ta mà nó hiện
ra nó ngồi ý như hai người ngồi như là một. Như vậy là chúng ta đã thực hiện
được cái Giới Tuệ thứ hai của chúng ta. Đó là cái phần thứ hai để nói lên cái
sức làm chủ, sai khiến của cái trí tuệ của chúng ta lúc bấy giờ điều khiển thân
và tâm của chúng ta nó phải thể hiện qua cái trí tuệ của chúng ta chứ không còn
làm sai khác được cái ý của chúng ta.
“Đó là Giới Tuệ thứ hai trong
Giới luật của đức Phật mà vị ấy đã đạt được một kết quả tu tập thiết thực, hiện
tại, vi diệu và thù thắng”.
Các thầy nghĩ coi bây giờ
từ chỗ Thiền định mà nhập Tứ thiền rồi mình ngưng các hành trong thân của mình
rồi, mình ngưng hơi thở mình rồi thì bắt đầu cái tâm của mình nó thuần tịnh rồi
thì bắt đầu mình dùng tri kiến mình đánh thức cái Thức thức của mình dậy. Mình
đánh thức cái Thức thức mình dậy rồi bắt đầu mình sai khiến nó, bắt đầu mình
dùng nó. Bây giờ nó sử dụng cái thân này phải biến ra một thân nữa y như nhau,
cũng có các căn mắt tai mũi miệng thân ý đàng hoàng, mặc y áo giống nhau, thì
nó ra nó ngồi đây một cái thân nữa. Lúc bây giờ quý thầy thấy cái Giới Tuệ nó
như thế nào? Có thù diệu không? Có vi diệu không? Mà nó thiết thực, nó cụ thể,
nó hiện tại chứ không phải nói cái chuyện mù mờ, vu vơ đâu! Lẽ ra cái này khi
nào mà quý thầy tu tới đây Thầy mới giảng, và đồng thời giảng thì phải có một
người thực hiện cho được. Còn cái này thật ra thì đây là xếp thành một cái giáo
án chứ nó chưa phải là quý thầy tu tới. Chứ trong thời đức Phật nói ra là có
chứng minh liền tức khắc chứ không phải nói vu vơ như thế này! Còn bây giờ mà
Thầy làm trò xiếc cho mấy thầy coi thì cái điều đó là cái điều quá là ngu si
chứ chưa phải là người biết Phật pháp. Cũng như bây giờ thí dụ như nói về Tẩu
hỏa nhập ma thì phải có một người bị thì cái đó là chứng minh cho cụ thể, còn
như hồi nãy Thầy đã nói lẽ ra thì không được giảng mênh mông như thế này mà chỉ
giảng những cái nào người ta tu tập mà thôi. Còn giảng mênh mông như thế
này nhiều khi nó làm cho người ta bị lạc hướng mất đi, người ta tưởng tượng quá
nhiều.
Nói đến cái Giới Tuệ này
thì Thầy thấy nó là siêu việt, người thế gian không thể lường được. Thành ra
Thầy nói tới đây dường như người ta nói Thầy nói láo, nhưng mà nó là một sự
thật! Nó không phải là nói láo đâu! Bởi vì kinh sách của Phật còn đặt, nhưng mà
bây giờ cái người thể hiện ra thì chưa có ai thể hiện cho nên người ta vẫn nói
đó là Phật cũng là nói láo chứ không phải là không nói láo. Nhưng mà Thầy đã
biết cái điều nói láo hay không nói láo,Thầy biết chứ làm sao ai biết được.
Cho nên hôm nay vì cái
giáo án mà buộc lòng Thầy phải giảng hết những cái gì mà Phật đã dạy ở trong
Kinh, không thể nào mà thiếu một cái gì và bỏ một cái gì được. Vì đây là một
cái đường đi của đạo Phật đã để lại cho chúng ta là một cái gia tài rất quý báu
mà không giảng hết thì Thầy thấy có một cái lỗi của mình là nhìn tới nhìn lui
không ai làm được cho nên phải nói.
Bây giờ về cái phần Giới
Tuệ thứ ba.
“3. Với tâm định tĩnh, thuần
tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình
thản như vậy, Tỳ kheo dẫn tâm hướng đến Dục Như Ý Túc, (Bây giờ tới Tứ Như Ý
Túc đó, bây giờ là Dục Như Ý Túc đó), vị ấy chứng được Dục Như Ý Túc, một thân
hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân”.
Trước thì đức Phật chỉ ra
Giới Tuệ đầu tiên là một thân hiện ra một thân, các căn mắt tai mũi miệng đều
y, quần áo đều mặc y giống nhau không khác. Đó là mới có biến ra một thân mà
thôi. Các thầy thấy phải đi tuần tự chứ không thể nào mà nghe nói cái biến ra
nhiều thân một lần được đâu! Chúng ta phải tập tuần tự, cho nên khi mà chúng ta
hướng ra một thân biến ra một thân được rồi thì bắt đầu bây giờ mới tới giai
đoạn chúng ta một thân biến ra nhiều thân. Bây giờ nó mới tới Dục Như Ý
Túc đó! Chứ hồi đầu nó chưa phải Dục Như Ý Túc đâu! Chúng ta mới tập
luyện cho cái Thức thức của chúng ta sống dậy biết điều khiển mà thôi, chứ chưa
phải hoàn toàn là đủ cái Dục Như Ý Túc đâu! Bây giờ bắt đầu chúng ta mới tới
nữa thì chúng ta mới thấy được cái Giới Tuệ thứ ba này chúng ta mới thấy một
thân nó hiện ra nhiều thân.
“Một thân hiện ta nhiều thân,
nhiều thân hiện ra một thân”, nhiều
thân nó gộp lại một thân rồi một thân nó hiện ra nhiều thân, “hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách đá, qua tường, qua núi
như đi ngang qua hư không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền như ở trong
nước, đi trên nước không chìm như đi trên đất liền, ngồi kiết già đi trên hư
không như con chim, với bàn tay chạm rờ mặt trăng mặt trời, những vật có đại
oai lực, có đại thần lực”.
Như vậy nghĩa là
đức Phật ví dụ như mặt trăng mặt trời nó cao xa, nó lớn như vậy đó mà bàn tay
của chúng ta vói tới chúng ta rờ mặt nó được. (Kiểu này chắc rờ mặt trời chắc
cháy tay). Có đại oai thần như vậy có thể tự thân bay đến
cõi Phạm thiên. Lúc bấy giờ cái người đó có thể bay đến cõi
phạm thiên được.
“Ví như một người thợ gốm khéo
tay với đất sét, khéo nhồi nhuyễn, có thể làm các loại đồ gốm tùy theo sở
thích”. Đức Phật ví như người tu
tới Giới Tuệ thứ ba này họ cũng như một người thợ đồ gốm khéo tay, với cục đất
sét mà nhồi rất nhuyễn rồi thì cái người thợ gốm này muốn làm cái chum, cái
chén, cái gì họ làm cũng được hết, thậm chí họ nắn cả tượng Phật hoặc bình sứ,
bình bông cái gì họ khéo tay cũng làm được hết. Thì ví dụ như chúng ta tu tới
đó bây giờ chúng ta muốn làm cái gì cũng được hết, không phải 72 phép biến như
là Dương Tiễn, cũng như là Tôn Ngộ Không đâu! Có 72 à! Còn ở đây nó vô lượng
chứ đừng có nói! Quý thầy phải hiểu rằng đường lối của đạo Phật không phải tập
luyện có 72 phép biến đâu! Mà đây là chúng ta muốn cái gì được cái nấy hết, cho
nên ví như một ông người thợ gốm mà với cục đất sét ông nhồi rất nhuyễn rồi bây
giờ ông chỉ có nắn, ông muốn nắn con bò, con trâu, con voi, con ngựa gì cũng
được hết à. Một người đạt đến chỗ này thì họ muốn nắn cái gì cũng được hết như
vậy đó!
“Ví như một người thợ ngà voi
khéo tay với ngà voi đẽo dũa có thể làm các loại đồ ngà tùy theo sở thích”. Nghĩa là người thợ đó khéo tay thì lấy cái ngà voi
đó họ làm cái gì cũng được, không có gì khó khăn đối với ông hết. “Ví như người thợ vàng (thợ kim hoàn đó) khéo tay với vàng khéo
tinh luyện có thể làm tất cả đồ trang sức bằng vàng tùy theo sở thích”. Đó
là đức Phật ví dụ như những người làm ra những điều đó thì cũng như là chúng ta
đang ở trong một cái tâm định tĩnh như vậy mà chúng ta dùng cái thần lực của
chúng ta, cái oai lực của chúng ta, chúng ta có thể làm tất cả những cái gì
cũng được hết chứ không có khó khăn gì hết.
Đó là Giới Tuệ thứ ba trong
Giới luật của đức Phật. Đây là cái
Giới Tuệ thứ ba thôi chứ chưa phải là nó hết những Giới Tuệ của Phật đâu! Mới
bắt đầu nghĩa là bước qua đầu cái Giới Tuệ là chúng ta thấy có những sự vi diệu
tuyệt vời rồi đó.
“Đó là Giới Tuệ thứ ba trong
Giới luật của đức Phật mà vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện
tại, thù thắng, vi diệu, khó nghĩ lường”.
Bây giờ cái đầu óc
của chúng ta nghĩ không có ra được cái này đâu! Thầy nói bây giờ mấy người nghĩ
sao mà cái thân này biến ra ngàn thân, mấy người nghĩ đi! Cách thức nào làm cho
được đi! Nghĩ sao cho ra không? Thế mà người ta đạt được đến cái mức độ này
người ta làm ra được. Nó đâu phải là chuyện khó đâu, nhưng mà bây giờ lấy cái
đầu óc phàm phu mà nghĩ thì chắc chắn là không có được rồi. Cho nên khó nghĩ
lường, ở đây nó vi diệu, thù thắng mà thiết thực, hiện tại chớ không phải là
đợi ngày mai ngày mốt đâu! Bây giờ muốn là bây giờ được, mà ngày mai muốn là
ngày mai được. Muốn hồi nào là được hồi nấy. Phật lại nói thêm: “Tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu”. Trong
thời gian hiện tại mà thiết thực, cụ thể chứ không phải nói mơ hồ như cái bóng
ma, bóng khói, như đám mây mờ mờ ảo ảo đâu! Nó là một sự thật như vậy!
“4. Với tâm định tĩnh, thuần
tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình
thản, như vậy Tỳ kheo dẫn tâm đến Thiên nhĩ thông. Tỳ kheo với Thiên nhĩ thông
thanh tịnh, siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng nói của chư Thiên và của loài
người dù ở xa, ở gần cũng đều nghe rõ không sai. Ví như một người đang đi qua
đường nghe tiếng trống lớn, tiếng trống nhỏ, tiếng loa, tiếng xập xả, tiếng
kèn, tiếng kẻng. Người ấy nghe biết rõ ràng. Cũng vậy, vị Tỳ kheo tâm định tỉnh
hướng tâm Thiên nhãn thông nghe thấy rõ ràng cũng vậy.
Đó là Giới Tuệ thứ tư trong
Giới luật của đức Phật mà vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện
tại, thù thắng, vi diệu, khó nghĩ lường”.
Quý thầy thấy khi tâm
người ta như vậy thì người ta dẫn tâm người ta đến Thiên nhãn thông hoặc là
Thiên nhĩ thông, hoặc là Tha tâm thông, tất cả những cái này đều là những điều
kiện mà những vị đó đã tu tập ở trong Giới Tuệ và họ đã đạt được.
“5. Với tâm định tĩnh, thuần
tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình
thản như vậy, vị Tỳ kheo dẫn
tâm và hướng tâm đến
Tha tâm thông”.
Ở đây Thầy nhắc nhở
quý thầy hai danh từ: Dẫn tâm và hướng tâm.
Dẫn tâm là như thế nào và hướng tâm là như thế nào? Sau này Thầy dạy tới các
pháp Thầy sẽ giải thích chỗ này cho. Còn bây giờ thì chúng ta học suông qua
thôi. Bây giờ hướng dẫn đến Tha tâm thông đây!
“Tỳ kheo sau khi dẫn tâm đi sâu
vào tâm chúng sanh (hướng tâm, dẫn tâm mình đi sâu vào tâm chúng sanh) của loài
người, với tâm thuần tịnh, trong sáng, vị ấy biết được như sau: Tâm của chúng
sanh có Tham biết là có Tham, tâm không có Tham biết là tâm không có Tham. Tâm
của chúng sanh có Sân biết là tâm của chúng sanh có Sân, tâm không có Sân biết
là không có Sân. Tâm của chúng sanh có Si biết là tâm có Si, tâm không có Si
biết là tâm không có Si. Tâm chuyên chú biết là tâm chuyên chú, tâm tán loạn
biết là tâm tán loạn. Đại hành tâm biết là đại hành tâm, không phải đại hành
tâm biết là không phải đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng biết là tâm chưa vô thượng,
tâm vô thượng biết là tâm vô thượng. Tâm Thiền định biết là tâm Thiền định, tâm
không Thiền định biết là tâm không Thiền định. Tâm giải thoát biết là tâm giải
thoát, tâm không giải thoát biết là tâm không giải thoát”.
Đó, khi mà được cái Giới
Tuệ thứ năm này thì quý vị làm cái gì, tu tập đúng sai thì vị Thầy người ta đều
biết hết nhưng mà người ta không nói ra thôi, người ta lần lượt điều khiển,
hướng dẫn cho người tu đúng thôi, chứ người ta biết quý vị còn ở trong tâm nào
người ta biết hết chứ không phải là người ta không biết. Người ta sử dụng được
cái tâm của người ta cho nên người ta phải thông suốt quý vị hết. Chứ nếu người
ta không sử dụng được cái tâm của người ta thì làm sao người ta biết quý vị!
Nhưng người ta không muốn làm quý vị bất mãn, không muốn làm cho quý vị trái ý,
người ta tùy thuận quý vị nhưng người ta lần lượt hướng dẫn nhỏ nhẹ để cho quý
vị sửa lần lần để đi vào con đường đúng mà thôi! Bởi vì người tu người ta hiểu
biết cái kiến chấp của quý vị nó rất nặng, nó không phải dễ dàng một ngày một
bữa mà nó cởi ra được, mà phải tuần tự người ta khéo léo để giúp cho quý vị cởi
ra.
“Ví như một người đàn bà soi
mặt mình trong một tấm gương trong sáng suốt, nếu mặt có tì vết liền biết mặt
có tì vết, nếu mặt không có tì vết thì biết là không có tì vết, da mặt trắng
biết là da mặt trắng, da mặt đen biết là da mặt đen, mặt có nốt ruồi biết là
mặt có nốt ruồi, mặt không có nốt ruồi biết là mặt không có nốt ruồi, mặt có
vết thẹo biết là mặt có vết thẹo, mặt không có viết thẹo biết là không có vết thẹo”.
Đó, đức Phật ví dụ như một
người đàn bà cầm cái gương soi vậy, thấy cái mặt mình như thế nào thì biết rõ,
thì cái người có được cái Giới Tuệ thứ năm này thì người ta dẫn tâm vào tâm của
chúng sanh, vào tâm các thầy, các thầy tu như thế nào người ta biết hết chứ
không phải người ta không biết đâu! Đó là như chúng ta soi một cái gương cũng
như người phụ nữ mà soi một cái gương trên mặt vậy đó! Họ biết họ rõ như thế
nào thì cũng ví như một người mà người ta đã có được Giới Tuệ thứ năm này thì
người ta thấy cái tâm chúng sanh nó cũng như vậy đó!
“Đó là Giới Tuệ thứ năm trong
Giới luật của đức Phật vị này đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại,
vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.
Chúng ta thấy tới Giới Tuệ
thứ năm chúng ta đã thấy được thông suốt được những cái tâm sai khác của chúng
sanh như thế nào, tu được hay không người ta biết hết, tu đúng tu sai người ta
biết hết chứ không phải là người ta không biết.
“6. Với tâm định tĩnh, thuần
tịnh, trong sáng, không cấu uế, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến,
dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, như vậy vị ấy dẫn tâm hướng tâm đến Giới tuệ
Túc mạng minh – đó bây giờ mới
hướng đến Túc mạng minh đây, vị ấy nhớ đến các đời sống
quá khứ như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời,
ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn
đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành
kiếp. Vị ấy nhớ rõ ràng sanh tại chỗ kia ta có tên như thế này, dòng họ như thế
này, giai cấp trong xã hội như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến
mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia ta được sanh ra tại chỗ nọ, tại chỗ
ấy ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp trong xã hội như thế
này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại
chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây. Như vậy như vị Tỳ kheo nhớ đến nhiều đời sống
quá khứ cùng với các nét đại cương và chi tiết rất rõ ràng”.
Đó, đức Phật ví dụ
như chúng ta dùng Túc mạng minh thì chúng ta thấy nhiều đời nhiều kiếp mình như
vậy đó chứ không là thấy ít đâu!
“Ví như một người đi từ làng
mình đến làng khác, từ làng ấy đi đến một làng khác nữa và từ làng này trở về
làng mình, làng của mình, người ấy nghĩ: Ta từ làng của mình đi đến làng kia,
nơi đây ta đã đứng như thế này, đã ngồi như thế này, đã nói như thế này, đã yên
lặng như thế này. Từ nơi làng nọ ta trở về làng của ta.
Đó là trí tuệ thứ sáu trong
Giới luật của đức Phật vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại,
vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.
Đó thì quý thầy thấy người
ta thấy nhiều đời nhiều kiếp người ta như là mình đi từ làng này đến làng khác
rồi mình trở về làng mình như vậy. Nghĩa là thấy từ quá khứ rồi trở về hiện tại
là cái vị đó cũng như mình ngồi tu đây bắt đầu mình trở về quá khứ nhiều đời
nhiều kiếp…
Bây giờ bắt đầu chúng ta
tiếp tục bài học vừa rồi là thuộc về Giới Tuệ.
“Đó là Giới Tuệ thứ sáu trong
Giới luật của đức Phật. Vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại,
vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.
“7. Với tâm định tĩnh, thuần
tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng,
vững chắc, bình thản, như vậy Tỳ kheo dẫn tâm hướng tâm đến Giới Tuệ về sanh tử
của chúng sanh, tức là Thiên nhãn minh. Vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh, siêu
nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh, vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ
liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do
Nghiệp của chúng tạo ra. Này các con! Người thường hay làm điều ác hạnh về
thân, lời nói và ý nghĩ do vô minh, không rõ theo tà kiến, phỉ báng xuyên tạc
giới luật và pháp môn của các bậc Thánh hiền, chạy theo tà kiến, tạo các tà
nghiệp, nuôi sống tà mạng… Những người này sau khi hết phước báu hiện tại, khi
thọ, khi thân hoại mạng chung để lại cho thế gian chứng nghiệm một sự đau khổ
của các vị ấy, cực kỳ đau khổ. Đến khi mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú,
đọa xứ địa ngục. Hiện giờ họ đang phè phỡn trên mồ hôi nước mắt của đàn na thí
chủ. Còn ngược lại những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời
nói và ý nghĩ, không theo tà kiến, luôn luôn theo chánh kiến của Phật dạy nên
không phỉ báng, thêm bớt Giới luật và giáo pháp của đức Phật, thường theo Giới
luật của Phật không làm khổ mình khổ người, không làm các tà nghiệp, không nuôi
dưỡng bằng những thực phẩm bất tịnh có ác pháp, có sự chết chóc đau khổ bằng
sinh mạng của chúng sinh. Những người này sau khi thân hoại mạng chung được
sanh lên thiện thú, cõi trời, cõi người, hưởng đầy đủ phước báu, không có thiếu
thốn một vật gì cho cuộc sống. Với Thiên nhãn minh thuần tịnh siêu nhân thấy sự
sống chết của chúng sanh rất rõ ràng, ví như một người ở trên tòa lầu đài có
thượng đài giữa ngã tư đường, môt người có mắt nhìn xuống thấy rất rõ, sẽ thấy
những người đi vào nhà, từ nhà đi ra đi qua đi lại trên đường, ngồi ở giữa ngã
tư đường hay trèo lên đài thượng rất rõ ràng không thiếu một chi tiết nào hết.
Đó là Giới Tuệ thứ bảy trong
Giới luật của đức Phật vị ấy đã đạt được kết quả Giới Tuệ này thiết thực, hiện
tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.
“8. Với tâm định tĩnh, thuần
tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng,
vững chắc, thanh thản như vậy, vị Tỳ kheo dẫn tâm hướng tâm đến Lậu tận trí, vị
ấy biết như thật đây là Khổ, biết như thật đây là nguyên nhân của Khổ, biết
như thật đây là Khổ diệt, biết như thật đây là con đường đưa đến Khổ diệt; biết
như thật đây là những Lậu hoặc, biết như thật đây là nguyên nhân của những Lậu
hoặc, biết như thật đây là sự diệt trừ các Lậu hoặc, biết như thật đây là con
đường đưa đến diệt trừ các Lậu hoặc. Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như
vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi Dục lậu,
thoát khỏi Hữu lậu, thoát khỏi Vô
minh lậu, đối với tự thân đã giải thoát
như vậy sự hiểu biết khởi lên một cách rất rõ ràng “Ta đã giải thoát. Sanh đã
tận, phạm hạnh đã xong, việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại này không
còn có đời sống nào khác nữa!”.
Đó là cái Tuệ thứ
tám của vị này nó hiện ra thì đó chứng đạt được cái lý Tứ Diệu Đế. Cho nên trong Ngũ lực thì đức
Phật có nói là cái Tuệ lực là cái gì? Tuệ lực là Tứ Diệu Đế.
Cho nên thấy thật, chứng thật, thấy rõ. Khi mà chúng ta nghe nói Tứ Diệu Đế
chúng ta nghe nói Khổ, đời là khổ, rồi nguyên nhân Khổ, rồi cảnh giới thoát
Khổ, rồi tám cái nẻo để đưa đến cảnh giới thoát khổ đó thì chúng ta hiểu biết
như vậy, đó chúng ta mới ngộ được cái chân lý của đạo Phật mà
thôi. Còn ở đây khi mà cái Giới Tuệ của chúng ta thực hiện được là cái Lậu
tận minh thì chúng ta sẽ thấy được cái nguyên nhân Khổ, khổ thật chứ không phải
là ngộ mà đây là chứng cái lý Khổ. Cho
nên Phật mới dạy là khi mà cái trí tuệ đó, cái Giới Tuệ đó mà nó hiện ra thì
chúng ta thấy: đây là Khổ, đây là chứng thật cái sự khổ chứ
không phải nói đây là Khổ như chúng ta biết nó khổ thường thường đâu! Mà
đây là cái sự chứng thật! Biết như thật tức là biết thật sự, thấm cái lý ở
trong đó do sau những ngày tu tập cái Định vô lậu mà nó thấm nhuần, nó mới thấy
như thật được, thì đây là nguyên nhân của khổ thật, chúng ta biết rõ là lòng
ham muốn khổ thật, nhưng bây giờ chúng ta hiểu nó là biết cái nguyên nhân khổ là
lòng ham muốn, nhưng mà chúng ta đoạn trừ không được, nhưng mà thời gian chúng
ta nghiền ngẫm đặt cái niệm đó trước mặt mà chúng ta nỗ lực thực hiện cái niệm
đó bằng cái pháp hướng. Tùy theo cái pháp mà chúng ta nổ lực thực hiện, tâm
chúng ta nó thấm được cái lý đó, nó chứng được cái lý đó cho nên bây giờ mới
gọi là cái trí tuệ Vô lậu, nó thực hiện ra chúng ta mới thấy được nó như thật,
biết nó như thật như vậy! Cho nên mới biết đây là khổ thật, đây là nguyên nhân
khổ thật, đây là cái nơi hết khổ, đây là cái chỗ mà chấm dứt khổ và đây là con
đường dẫn đến hết khổ.
Và kế đó thì đức Phật lại
nhắc lại thêm cho chúng ta thấy bốn cái Khổ đế này rõ ràng nhưng mà đức Phật
xác định cho chúng ta thấy bốn cái Khổ đế nó nhằm vào những cái lậu hoặc của
chúng ta để chúng ta thật thấy nó.
“Biết như thật đây là những lậu hoặc, biết như thật đây là nguyên
nhân của những lậu hoặc, biết như thật đây là diệt trừ các lậu hoặc, biết như
thật đây là còn đường đưa đến diệt trừ các lậu hoặc”.
Thì chúng ta sống ở trong
cuộc sống chúng ta hàng ngày là chúng ta phải thấy cái mấu chốt của lậu hoặc là
nó như thế nào. Cái lậu hoặc là cái khổ, mà nguyên nhân của lậu hoặc là lòng
ham muốn của chúng ta, mà diệt hết lòng ham muốn thì sẽ hết cái lậu hoặc, mà
hết lậu hoặc thì đó là Niết bàn, là cái cảnh hết khổ. Mà muốn được như vậy thì
chúng ta phải thấy được con đường đưa đến hết cái khổ đó tức là đoạn diệt cái
lòng ham muốn thì con đường đó thì chúng ta thấy muốn cho hết cái lậu hoặc ở
trong tâm của chúng ta thì con đường đó là Bát chánh đạo – Tám cái nẻo mà chúng
ta cần phải tu tập.
Cho nên ở đây cái Giới Tuệ
nó giúp cho chúng ta biết rằng, chỉ bảo cho chúng ta biết rằng con đường nào sẽ
đưa chúng ta đi đến tận diệt cái lậu hoặc. Sau khi học xong Giới luật thì bắt
đầu chúng ta sẽ học đến tám cái nẻo này, và tám cái nẻo này thì chúng ta phải
biết từ cái Chánh kiến cho đến Chánh định, mà từ Chánh kiến đó chúng ta phải tu
như thế nào, phải tập luyện như thế nào ở trong những cái Chánh kiến. Bắt đầu
chúng ta phải tu những cái Định gì đối với Chánh kiến đầu tiên như bây giờ
chúng ta tu cái…Nói ví dụ như bây giờ chúng ta bắt đầu tu thì chúng ta phải tu
trong Chánh kiến, phải phòng hộ cái Chánh kiến của chúng ta. Phòng hộ Chánh
kiến chúng ta tức là phòng hộ mắt tai mũi miệng thân ý của mình. Tức là Phật
gọi là Thánh phòng hộ sáu căn.
Như vậy mới đầu vô mà được
Chánh kiến là phải phòng hộ mắt tai mũi miệng của mình, cho nên tâm của chúng
ta bây giờ nó không bị nhiễm trước, không bị đắm trước các đối tượng, các pháp
cho nên khi phòng hộ nó thì chúng ta đâu thấy vật nào. Sau đó thì chúng ta phải
dùng trên cái mắt tai mũi miệng của chúng ta, chúng ta phải tu tập cái sức tỉnh
thức để khi chúng ta nhìn mọi vật mà chúng ta thấy không có cho cái tâm của
chúng ta làm cái duyên trở thành sự dính mắc của vật đó, thì đó là chúng ta
phải tu Chánh niệm tỉnh thức. Cho nên phòng hộ thì trước tiên, mà đây là mới có
tu cái nẻo Chánh kiến mà chúng ta phải phòng hộ nó rồi.
Rồi đến khi mà mắt
của chúng ta nhìn các vật được, trước đó phòng hộ để cho chúng ta luyện tập cái
sức tỉnh thức. Sau khi tập luyện tỉnh thức được thì chúng ta mới cho mắt
của chúng ta nhìn các vật, do đó chúng ta thấy nó tỉnh thức trong mọi vật cho
nên nó đã làm cho tâm chúng ta không còn khởi ham muốn mọi vật nữa. Vì vậy
lúc bấy giờ chúng ta đã tu hai cái Định, và hai cái Định đó để giúp chúng ta
trong Chánh kiến, và bây giờ chúng ta mới quét sạch, trong cái nhìn của chúng
ta nó sẽ sanh ra lậu hoặc. Do đó chúng ta phải tu cái Đinh vô lậu nữa! Từ đó nó còn có những cái
khó khăn của nó vi tế nữa, cho nên chúng ta phải đi đến cái Định Hiện tại an
lạc trú để chúng ta quét sạch lậu hoặc, chứng được Tam minh mới quét nó ra
được, cho nên con đường đi chúng ta phải ba bốn thứ Định trong một cái Chánh
kiến. Từ cái Chánh kiến rồi thì cái Chánh Tư duy thì cũng phải tu như vậy. Rồi
Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh niệm, Chánh định chúng ta cũng phải
tu trong mấy cái định này chứ đâu phải là tu có một cái không.
Rồi còn phải tu trong cái
hành tướng, cái nhân tướng, cái đặc tướng của cái Chánh kiến, Chánh tư duy,
Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh định, Chánh tinh tấn, chớ đâu phải
là có một cái không. Cho nên giảng về Tứ diệu đế đâu phải là đơn giản mà nói
suông suông được. Cho nên nó còn rất nhiều điều mà Thầy cần phải nói để cho quý
thầy biết rằng con đường của đạo Phật rất là kỹ lưỡng, trên bước đường hướng
dẫn cho một người tu đạt đến chỗ giải thoát hoàn toàn của tâm họ. Chớ đâu phải
là dạy sơ sơ trên cái nhân tướng là nói mình phải thấy đúng hiểu đúng như thế
này thế khác bằng thiện pháp như Thầy dạy cách thức đơn giản thì người ta chỉ
có được một chút ít nào giải thoát mà thôi, làm cho tâm hồn họ được an ổn mà
thôi, chớ không thể nào như một vị tu hành phải hiểu cho rõ cho đúng.
Đến đây là cái Giới Tuệ
thứ tám mà chúng ta nhận ra được những cái lậu hoặc chúng ta còn hay là hết.
“Ví như tại dãy núi lớn có một
hồ nước thuần tịnh, trong suốt tận đáy hồ, không cấu nhiễm, một người có mắt
đứng trên bờ hồ sẽ nhìn thấy con hến, con sò, con ốc, những hòn đá, hòn sạn,
những đàn cá bơi lội qua lại hay đứng lại một chỗ rất rõ ràng không có mờ mịt
chút nào, không có chỗ nào còn che dấu được mắt họ”.
Đức Phật ví dụ khi mà tâm
của chúng ta mà cái Lậu tận minh nó hiện ra rồi thì cái tâm của chúng ta bây
giờ nó thuần tịnh, nó trong cũng như là cái nước hồ mà trong suốt mà chúng ta
đứng trên hồ rồi nhìn xuống đáy hồ thấy tất cả những vật ở dưới đáy hồ rất rõ
ràng. Phật ví dụ tâm chúng ta đến cái chỗ Giới Tuệ thứ tám này thì nó trong
suốt như vậy đó. Nó thanh tịnh trong suốt, nó không còn một chút tham dục nào
trong đó, nó không còn một chút bất tịnh nào trong đó, cho nên nó trong suốt
như vậy! Khi tu đến đây rồi thì cái tâm của chúng ta dễ sử dụng tất cả mọi thứ,
điều khiển nó như thế nào thì nó làm được tất cả như thế nấy.
“Đó là Giới Tuệ thứ tám trong
Giới luật của đức Phật, vị ấy đã đạt được kết quả Giới Tuệ này thiết thực, hiện
tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.
Tóm lại, tám Giới Tuệ
trong đạo Phật là tám loại trí tuệ thanh tịnh, siêu việt trong kinh Sa môn quả.
Đó là ở trong kinh Sa môn quả nó nếu ra tám cái loại trí tuệ đó như vậy. Nhưng
ở đây chúng ta còn phải hiểu thêm cho đúng khi một người thọ trì tu tập đúng
pháp của Phật là phải bắt đầu từ Sơ thiện, Trung thiện và Hậu thiện.
Sơ thiện là Giới luật, còn
gọi là Giới bổn Patimokka. Trung thiện gọi là Thiền định, còn gọi là Bốn thiền,
hay gọi là Tứ thánh định. Nếu gọi Thiền định của đạo Phật như vậy chưa đủ. Ta
nên xem lại Giới Đức của đạo Phật có phân làm 10 loại Định. Nghĩa là trong
cái Thiền định của đạo Phật chia làm 10 loại Định chứ không phải như chúng ta
nói rằng Bốn cái Thiền định đó đâu!
Có 10 loại Định. Vậy thì
10 loại Định nó như thế nào? Thầy xin kể ra cho quý thầy nghe.
Thứ nhất, Định niệm hơi thở. Đó là cái thứ nhất mà cái
người tu bắt đầu vào để mà tu tập là phải ổn định hơi thở. Vì khi mà chúng ta
ăn uống điều độ mà chúng ta giữ được hơi thở điều hòa thì cơ thể chúng ta không
có bệnh tật. Như quý thầy biết rằng vốn đạo Phật ra đời là một y vương để trị
bệnh cho chúng sanh. Bệnh chúng sanh có hai loại
bệnh: Bệnh thứ nhất là thân bệnh. Bệnh thứ hai là tâm bệnh. Mà
đức Phật dạy cho chúng ta để trị thân bệnh thì bằng cách ăn uống điều độ ngày 1
bữa chớ không được ăn nhiều và hơi thở được ổn định, điều hòa thì cơ thể không
có bệnh đau (BBT:BN,20,E0:43:41).(BBT:CĐ,21B,E00:45:01).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét