BĂNG SỐ 49
Quý thầy có thấy các
thiện pháp tăng trưởng không? À, nó tăng trưởng rất nhiều, nó làm cho chúng ta
thấy không còn bận tâm lo lắng, không còn sợ hãi, không còn sợ trộm cướp, không
còn gì hết. Như vậy là chúng ta thấy an ổn không? Quá an ổn cho nên thiện pháp
tăng trưởng, làm cho chúng ta không còn mất mát gì hết, chúng ta thấy an vui,
ngủ rất yên mà không sợ cái gì hết.
Còn bây giờ chúng ta
các pháp này, các sắc pháp này nó làm cho chúng ta quá lo lắng. Cũng như bây
giờ quý thầy giữ một cái chùa, mà cái chùa để cho người ta phá hoặc là người ta
vô người ta rinh Phật, người ta rinh các chuông đồng hết rồi, quý thầy thấy có
khổ không? Khổ quá, khổ quá, cho nên mình làm trụ trì mà để mất như vậy Phật tử
họ đến họ nói này nói kia là chịu không nổi rồi, đó không phải là ác pháp
không? Ở trong chùa lại có cái tượng bằng vàng nữa, cái ông Phật Thích Ca bằng
vàng mà cở độ chừng ba ký lô à, mà để ngồi trong góc đó là chắc chắn là không
thế nào mà chúng không lấy được hết. Cho nên phải đem ông Phật này giấu ở trong
rương hoặc đem chứ không dám để trên bàn Phật thờ đâu. Như vậy là phải sợ sệt
đủ thứ hết, cho nên do đó những pháp đó là những pháp gì? Pháp ác. Cho nên vì
vậy, thôi đem cái ông Phật này ra tiệm kim hoàn nào đó, làm ơn ông chẻ nó ra,
ông nấu ra làm đồ nữ trang bán đi, chứ để tui ở trong chùa cực quá đi, tui giữ
ổng cũng mệt tui.
Đó như vậy chúng ta
đã xa lìa các ác pháp, các sắc pháp đó, nó không là những thiện pháp được. Cho
nên dù là ông Phật đẹp tốt nhất chúng ta cũng rất sợ hãi. Cho nên chúng ta nghe
ở những nơi chùa mà có những ông Phật bằng những loại quý giá, bằng những ngọc,
bằng những vàng bạc châu báu, bằng những loại mà quý, thì hầu như ông thầy ở đó
quá lo lắng, hở ra là sợ người ta rinh ông Phật đó mất đi.
Cho nên ở đây Thầy
nói chỉ ở trên cái tượng Phật thôi, mà người ta chỉ gắn hột xoàn ở giữa cái
trán của ông Phật thôi, mà ông Phật để đó người ta cũng lo nữa, cái hột xoàn
quá lớn rồi, nói chói sáng ra, nó nhiều màu sắc nó chói sáng ra. Thì do đó
người ta cũng cạy cái đó ra mà người ta lấy nữa. Vì vậy mà hầu hết là trong
những cái chùa mà có những ông Phật mà bằng những vật báu là cái tai họa lớn
cho ông thầy đó, chứ không phải sung sướng gì hết. Còn cái chùa bằng tranh,
bằng vách, bằng lá ông thầy ngủ ngon lắm không lo gì hết. Mà tượng Phật bằng
đất thì chắc không ai rinh đâu. Cho nên, càng sung sướng chúng ta bằng mấy.
Còn trái lại mà cái
chùa nó càng sang càng đẹp, nào là gạch ốp lát đồ này kia coi chừng chúng ta cứ
tối ngày phải chùi rửa, không có chùi rửa thiên hạ họ nói này nói kia ông thầy
gì ở dơ quá trời, cái chùa mà gạch ốp lát dày bóng như vậy mà ông không chùi
rửa, người ta nói này nói kia mình khổ lắm.
Cho nên cái chùa mà
nền đất thì khỏe lắm, không có cực khổ gì nhiều. Do đó, là cái thiện pháp, nó
không phải là ác pháp. Còn tất cả những cái sang đẹp của thế gian nó cũng không
phải là vĩnh viễn, mà trường tồn nhưng nó làm cho chúng ta phải khổ sở với nó
tức là ác pháp.
À, “Lại
tiếng nào do tai phân biệt”, như
vậy bây giờ chúng ta thấy hồi nãy là sắc, lại các sắc nào. Bây giờ do tiếng nào
mà nó đem đến cho chúng ta những cái thiện pháp mà tăng trưởng và ác pháp mà
suy giảm thì cái tiếng đó thì chúng ta nên tăng trưởng.Cũng như bây giờ quý
thầy nghe cái âm thanh Thầy thuyết giảng mà đem đến lòng thiện, đem đến sự tu
tập của quý thầy thì cái tiếng đó là tiếng tốt. Còn cái tiếng mà nghe nó rỉ ra,
rỉ rả làm cho chúng ta nghe nó thương vay khóc mướn, làm cho chúng ta đau sầu
khổ muộn, nghe nó thương nhớ cái này, thương nhớ cái kia thì những tiếng đó nó
có tốt không? Nó không có tốt, những cái tiếng mà chửi lộn đánh mắng cũng không
tốt đâu. Cho nên vì vậy, chúng ta nên xa lìa những cái âm thanh đó. Mà
hãy gần gũi với những cái âm thanh mà dạy đúng chánh pháp để chúng ta ly tất cả
những thế giới vô thường hoại diệt này, ly tất cả các thế giới vô hội, vô chủ
này, ly tất cả các thế giới mà tham ái này, khao khát này không bao giờ cùng
tận, chúng ta phải ly nó ra. Tức
là chúng ta phải chọn lấy những cái tiếng nào đúng mà những tiếng nào sai.
Rồi
đến “Cái loại hương nào do mũi mà phân biệt”, cái
hương nào mà là hương giải thoát, cái hương nào làm cho chúng ta đam mê. Chúng
ta nghe mùi hoa, mùi này kia, mê quá, thơm quá. Sự thật nó làm cho chúng ta đam
mê. Cái mùi hương đạo đức, cái mùi hương nhân quả, là cái mùi hương đó nó làm
cho chúng ta giải thoát, giải thoát. Cái mùi hương đó nó đi ngược gió, nó đi
bốn phương được. Còn cái mùi hương mà của loài hoa nó chỉ đi theo cái chiều gió
xuống thôi, nó không có thể đi ngược gió trở lên. Còn cái mùi hương của đạo đức
nhân quả nó sẽ đi ngược gió nó là những mùi hương rất tốt. Cho nên chúng ta nên
chọn lấy những mùi hương tốt nó sanh ra thiện pháp, nó làm cho chúng ta không
làm những hành động ác. Do đó chúng ta nên chọn lấy những mùi hương tốt đó.
À, “Cái
loại vị nào do lưỡi phân biệt”. Ở đây những cái loại vị mà phân biệt
ngon dở, ngọt bùi của thế gian là cái loại vị đó là loại vị bất tịnh, ảo giác,
chúng ta hãy xa lìa đi, còn có loại vị mà ly dục ly bất thiện pháp nó sanh ra
những cái hỷ lạc của cái ly dục ly bất thiện pháp thì chúng ta hãy chọn cái đó đi.
Như vậy thì, ở trong bốn thiền chúng ta thấy, từ cái thiền thứ nhất cho đến
thiền thứ tư nó do chúng ta ly những cái vị, cái vị mà thế gian nó làm cho
chúng ta ly ra hết, do đó chúng ta mới thọ hưởng được những cái vị mà xuất thế
gian, cái vị đó nó làm cho chúng ta liên tục, mãi mãi, có kéo dài mãi cái sự hỷ
lạc của nó mãi. Còn cái loại vị mà hiện bây giờ chúng ta đang thọ hưởng của thế
gian, thì bỏ vô miệng thì thấy ngon, mà nuốt vô cổ thì hết ngon rồi, nó chỉ
chớp mắt à, nhai nhai có một chút cái rồi nuốt vô cái sạch không còn thấy ngọt
nữa. Cái loại vị đó chúng ta nên lìa nó, đi bỏ nó đi.
Năm, “Cái loại xúc chạm nào mà do thân phân biệt”, cái
loại xúc chạm thí dụ như xúc chạm gây cái sự cảm xúc khoái lạc cái này cái kia,
gây sự êm ấm như nệm mút, như là chăn lông, như cái này kia làm chúng ta thấy
êm ấm thân của chúng ta bằng cách này hay cách kia. Thì từ đó chúng ta phải xa
lìa nó đi. Đó là những cái nó cám dỗ, nó quyến rủ chúng ta khao khát mà không
bao giờ hết được. Do đó chúng ta hãy tìm lại những sự xúc chạm bằng cái tâm
thanh tịnh của chúng ta, bằng cái thân thanh tịnh của chúng ta đang ở trong
những cái sự thiền định thì sự xúc chạm đó là cái xúc chạm làm chúng ta làm tâm
chúng ta bất động, bất dao động. Lúc bấy giờ đó là những cái pháp chúng ta cần
phải đi theo cái đường đó mà các thiện pháp tăng trưởng và ác pháp nó suy giảm.
Sáu, “Loại
pháp nào do ý phân biệt, khi thân ta thân cận bất thiện pháp tăng trưởng, thiện
pháp suy giảm, thì loại pháp ấy nên xa lánh”. À, bây giờ có những cái lời dạy, mà
cái lời dạy đó nó đem cho chúng ta đến cái ác pháp thì tức là chúng ta không
đến. Cũng như bây giờ, người ta nói bây giờ câu nói đó là rất hay, nhưng mà
chúng ta gần gũi với nó, chúng ta thường hay lấy câu đó hay hoặc là lấy ý đó mà
chúng ta tranh cải thiên hạ cho mình hơn thua thiên hạ thì cái đó có phải là
pháp đúng không? Không phải pháp đúng đâu. Pháp đó nó sanh ra ác pháp tăng
trưởng, mà thiện pháp suy giảm còn cái pháp nào mà chúng ta biết nhẫn, biết
nhịn, biết nhường người ta, người ta muốn tranh luận thì thôi mình làm thinh
chẳng hơn tranh luận gì ai. Những cái pháp đó là những cái pháp để cho mình
được giải thoát và người khác cũng không thù hận mình. Vì vậy cho nên khi mà
những cái pháp như vậy thì chúng ta thân cận, chúng ta để cho cái tâm của chúng
ta được giải thoát và người khác cũng giải thoát. Cho nên khi mà đến gần với
người nào mà họ muốn tranh hơn tranh thua với mình thì mình luôn luôn nhẫn nhịn
họ, không có tranh hơn tranh thua họ, những cái pháp đó là những cái pháp mà
thiện pháp tăng trưởng.
Vì vậy mà chúng ta
biết tu tập như vậy thì đó là những cái pháp đúng, còn những cái pháp mà rống
họng mà tranh nhau hơn thua thì những cái pháp đó là những cái pháp không đúng.
Như vậy là ác pháp nó tăng trưởng mà thiện pháp nó suy giảm.
Giới
hạnh hộ trì các căn như thế nào?À bây giờ đó thì chúng ta đã học qua cái
phòng hộ sáu căn rồi, sáu căn rồi thì bây giờ tới cái Giới hành nó hộ trì các
căn của chúng ta như thế nào? Khi tìm được nơi yên tĩnh vắng vẻ ta Ngồi kiết già thẳng lưng, đặt
niệm phòng hộ sáu căn trước mắt, ta dùng trạch pháp chọn lấy một câu rồi dùng
câu đó làm pháp hướng như cái lý tác ý.
À, Phật
đi không ngó qua ngó lại, đây là câu pháp hướng đây:
“Phật
đi không ngó qua ngó lại chỉ nhìn xuống đất, quan sát từng bước đi của mình để
tránh vô tình làm đau khổ chúng sanh. Thân ta niệm Phật phải thực hiện đi giống
như Phật”.
Đó
là mình dùng cái pháp hướng này để mình nhắc, mỗi lần khi mình bước đi thì mình
nhắc trước. Tức là câu thứ nhất đó, câu thứ nhất mà pháp hướng, đây là pháp
hành của chúng ta rồi. Cho nên trước khi mà chúng ta đi hoặc là chúng ta đặt
một cái niệm phòng hộ sáu căn. Chúng ta ngồi thẳng lưng kiết già rồi chúng ta
nhắc, nhắc như vậy để sau khi mà chúng ta bước đi là chúng ta nhớ liền, chúng ta
không quên. Cho nên khi mà chúng ta bước đi thì cái thân hành của
chúng ta nó không làm, nó nhìn xuống, mắt của chúng ta nhìn xuống, nó giữ gìn
sáu căn của chúng ta, mắt tai mủi miệng thân ý của chúng ta không ngó qua ngó
lại, không nhìn lên nhìn xuống, tập trung ở dưới bước chân chúng ta đi. Mà hằng
ngày, chúng ta phải đặt niệm, trong những cái buổi yên tịnh, chúng ta ngồi,
chúng ta đặt niệm, chúng ta dùng cái pháp hướng chúng ta nhắc tâm mình. Cho đến
khi thân chúng ta bước đi là chúng ta đã nhớ liền. Hoặc là chúng ta không nhớ
thì chúng ta lại dùng pháp hướng nó nhắc một lần nữa rồi chúng ta lại bước đi. Cho
nên những câu này thì quý thầy phải thuộc lòng, phải nhớ để thuộc thành ra một
trạch pháp để nhắc chúng ta. Ở
đây Thầy xin nhắc lại câu này:
“Phật
đi không ngó qua ngó lại chỉ nhìn xuống đất quan sát từng bước đi của mình để
tránh vô tình làm đau khổ chúng sanh. Thân ta niệm Phật cũng vậy, phải thực
hiện đi giống như Phật”.
Đó là mình phải nhớ
câu nói đó, đó là khi ngồi thì mình đặt cái niệm này trước mặt, dùng trạch pháp
này mà nhắc mình. Đó là các pháp để phòng hộ sáu căn của chúng ta. Khi bước đi,
khi làm những việc gì thì chúng ta cũng nhớ những cái điều đó.
Câu thứ hai:
“Sáu
căn tiếp xúc sáu trần dính mắc các pháp tạo biết bao nhiêu điều khổ cho kiếp
người. Thân ta niệm Phật thì phải giống như thân Phật phòng hộ sáu căn đi đứng
nằm ngồi, ý tứ từng hành động nhẹ nhàng, thanh thản, không mong cầu, không ước
muốn, chỉ biết khoan thai bước đi mà thôi”.
Đó là câu thứ hai để
mà chúng ta hướng tâm nhắc nó. Thí dụ như bây giờ, chúng ta ngồi kiết già, lưng
thẳng chúng ta nhắc câu thứ nhất để cho mỗi ngày chúng ta làm cho thân tâm
chúng ta thấm nhuần cái chỗ mà thân hành, cái chỗ mà hộ trì sáu căn của chúng
ta. Câu thứ hai, tiếp tục câu thứ hai chúng ta nhắc lại lần nữa.
Và câu thứ ba, đây
là câu thứ ba:
“Thong
thả mà đi, thanh thản mà đi, mắt nhìn xuống bước đi, tai lắng nghe bước đi,
không nhìn ngó đôi bên”.
Đó là chúng ta nhắc
nó, chúng ta hướng tâm chúng ta nhắc nó, nhắc cái thân của chúng ta để cho
giống Phật đó, để làm y như Phật đó. Đó thì quý thầy đây là pháp hành đó chứ
không phải là một cái chuyện, siêng năng tập thì quý thầy sẽ đạt được kết quả
đó, mà quý thầy không siêng năng thì quý thầy chịu lấy. Ở đây Thầy trạch pháp
ra sẵn những câu này để giúp cho quý thầy tu tập mang được kết quả tốt là phòng
hộ được sáu căn của mình không dính mắc sáu trần.
Câu
thứ tư:
“Các
pháp xung quanh ta là vô thường, là khổ, là tai hại, ta hãy nhìn và nghe từng
bước đi của ta.”
Nghĩa là bây giờ
mình ngó bên đây bên kia, pháp này pháp kia, nó đều dính vào trong mắt của
chúng ta, nó dính vào lỗ tai của chúng ta, thì nó làm cho chúng ta khổ, mà nó
là toàn là các pháp đều là vô thường hết, các sắc pháp, các sắc tướng đều là vô
thường hết. Tại sao chúng ta lại nhìn nó làm gì, cho nên chúng ta hãy nhìn bước
đi của chúng ta, mà nghe và nhìn bước đi của chúng ta, từng bước đi của chúng
ta. Thì do đó, chúng ta có cần để ý chúng không? Mà không cần để ý chúng, thì
tức là chúng ta đã phòng hộ sáu căn của chúng ta chứ gì. Đó là câu trạch pháp
thứ tư. Các thầy nhớ chưa?
Nhớ
kỹ như vậy, khi mà chúng ta không có đi thì chúng ta ngồi, chúng ta cũng nhắc
cái tâm của mình, hướng tâm và nhắc tâm của mình, hằng ngày nhắc như vậy tức là
chúng ta sẽ thấm nhuần được sự phòng hộ sáu căn. Mà phòng hộ được sáu căn tức
là chúng ta đã thoát khỏi biết bao nhiêu pháp, nó luôn luôn nó trói buộc, nó
dính mắc trong tâm ta. Cho nên muốn mà phòng hộ được sáu căn mắt tai mũi miệng
thân ý của mình không dính các pháp, thì phải hằng ngày siêng năng mà tu tập,
tinh tấn mà tu tập, chớ không thể biếng trể mà có thể, mà được. Muốn giải thoát
mà, muốn ra khỏi sanh tử luân hồi mà, muốn thoát ra bốn cái cảnh giới, thế
giới, nó vô thường, nó hoại diệt này mà, nó vô chủ, nó vô hộ này, nó vô
sở hữu này, nó tham đắm, nó không bao giờ cùng. Mà muốn ra khỏi nó, thì những cái pháp
đầu tiên này mà chúng ta không tu tập thì chúng ta tu tập pháp nào giờ. Mà
không phòng hộ nó thì làm sao chúng ta không dính mắc. Cho nên phải nhắc đi,
nhắc lại để thấm nhuần được. Vì vậy mà chúng ta đã phòng hộ được sáu căn, mà
sáu căn không dính mắc thì chúng ta sẽ thấy được sự giải thoát của chúng ta tức
thời, ngay đây, nó không còn phải đợi một cái thời gian nào nữa. Nghĩa là tu
tập đúng cách thì quý thầy thấy cái thời gian nó không mất đâu.
Năm, câu thứ năm:
“Các
pháp luôn luôn có sự cảm dỗ, thu hút, dễ khiến ta dính mắc khả hỷ, khả lạc, khả
ái. Tâm ta phải bất động trước các pháp, mắt ta nhìn xuống, tai nghe tiếng bước
chân đi ”.
Đó, mình phải trạch
các pháp ra để thấy rằng các pháp ra, để thấy các sắc pháp xung quanh của chúng
mình nó dể cám dỗ, thu hút mình lắm. Cho nên vì vậy đó, mình phải nhìn xuống
bước đi của mình, vì nó làm cho chúng ta thấy thích lắm, khả ái, khả lạc, khả
hỷ, nó làm cho chúng ta thích thú, đắm mê lắm. Cho nên, tâm ta phải bất động
trước các pháp đó, mắt ta phải nhìn xuống, tai ta phải nghe cái tiếng bước chân
chúng ta đi, đừng có nghe cái tiếng ở bên ngoài, đừng có thấy những cái sắc ở
bên ngoài. Đó là cái pháp hướng nhắc cho chúng ta hộ trì, giữ gìn phòng hộ sáu
căn của chúng ta.
Đó là những câu pháp
hướng, mà quý thầy cần phải thuộc, để hằng ngày đặt niệm trước mặt, mà quý thầy
nhớ. Chứ nếu mà quý thầy không nhớ thì quý thầy không có pháp để quý thầy tu
đâu. Nhớ kỹ như vậy thì quý thầy mới thấy càng ngày quý thầy mới thấy được thế
gian này vô thường, các pháp là vô thường, là khổ.
Câu sáu:
“Các
pháp thế gian vô thường, khổ, vô ngã, có nhiều tai ương, có nhiều nguy hiểm ta
phải buông xuống hết, không để sáu căn dính mắc sáu trần.”
Đó là một cái câu để
nhắc cho chúng ta, để mà chúng ta xả xuống không có để cho nó dính mắc đến
chúng ta. Chúng ta nhìn các pháp thế gian là khổ, là vô ngã, nó có nhiều tai
ương, nó nguy hiểm lắm.
Thí dụ như bây giờ,
các thầy thấy mình không có tiền, chớ mình mà có tiền rồi thì nó sẽ có xảy ra
những tai họa cho mình. Mình không có chùa to, mình không có tháp lớn thì nó
chưa có tai họa đâu. Còn mình có chùa to, tháp lớn nó có những sự kiện tai họa
đến cho mình, xảy ra chuyện này chuyện kia, Phật tử thì kiện thưa đầu này đầu
kia. Còn cái chùa lá hổng ai tranh giành hết. Còn cái chùa tốt thì người ta
tranh giành qua lại, mình làm ông Thầy ở giữa. Trời! Xử không có được, nói gì
họ cũng không nghe hết. Đó thì quý thầy thấy đây là mình là những người tu sĩ,
mình cứ lấy trong cái chùa của mình, mình dễ hiểu hơn hết. Còn ở ngoài đời còn
thì những bao nhiêu thứ chuyện khác, nó nguy hiểm lắm, nó tai họa. Do đó, mình
lấy những câu này để mình nhắc nhở mình, để mình xa lìa nó.
Bảy:
“Sáu
căn mắt – tai – mũi - miệng – thân - ý phải tập trung dưới bước đi, không được
phóng dật theo sáu trần sắc – thinh – hương - vị - xúc - pháp”
Đó là cái câu thứ
bảy, sáu căn tức là mắt – tai – mũi - miệng – thân - ý của chúng ta phải tập
trung với bước đi, không được phóng dật sắc-thinh – hương - vị - xúc - pháp.
Nghĩa là không được ngó qua ngó lại ở bên ngoài, tức là không chạy theo sắc –
thinh – hương - vị - xúc - pháp nữa.
Đó là nhắc nhở chúng
ta đừng có để mắt tai mũi miệng thân ý của chúng ta mà luôn luôn nó phải tập
trung dưới bước đi, không cho nó phóng dật ra ngoài, nhắc nhở như vậy thì may
ra mới phòng hộ được nó.
Bây giờ chúng ta
tiếp tục cái bài học.
Các thầy phải nhớ
rằng những cái pháp hướng này, phải nhớ cho kỹ và hằng ngày phải siêng năng mà
tu tập. Trong khi mà buổi tối chúng ta không phải ngồi mà hít thở hơi thở
không, mà nhiều khi chúng ta phải dành những cái thời gian, mà chúng ta dùng
pháp hướng này nhắc đi nhắc lại cái tâm chúng ta rất nhiều để phòng hộ sáu căn
của chúng ta tu tập. Chứ không khéo thì quý thầy sẽ không có đạt được kết quả
tốt của nó đâu. Đầu tiên là bao giờ mà bước vào đạo Phật thì chúng ta cũng phải
nhớ rằng là chúng ta phải phòng hộ sáu căn, giữ gìn mắt tai mũi miệng của mình.
Bởi vì vốn cái tâm của mình nó dễ dính mắc với sáu trần lắm! Thân tâm của mình
nó dễ dính mắc, cho nên vì vậy hở chút chút nào nó cũng dính mắc. Mà ngay bước
đầu chúng ta không phòng hộ nó thì chúng ta khó mà có thể đạt được giải thoát
được.
Cho nên muốn mà tu
tập thiền định của đạo Phật, thì cái sự phòng hộ là cái điều kiện tiên quyết
đầu tiên. Cho nên ở đây chúng ta lấy ba cái giới đầu tiên là Phật – Pháp - Tăng,
là lấy những gương hạnh giải thoát, mà chúng ta lấy đó mà chúng ta nương vào để
mà chúng ta sống một cuộc sống cho đúng cách, đúng cách. Mà muốn sống đúng cách
như vậy, thì cái pháp hướng phòng hộ này là phải phải siêng năng, chuyên cần tu
tập. Mà nếu không siêng năng, chuyên cần tu tập thì chắc chắn quý thầy sẽ khó
mà đạt được.
Những lời mà Thầy
tâm huyết hôm nay Thầy nói đến giai đoạn giới hành này là rất quan trọng, vì
chúng ta sống trong thiện pháp mà không có cái pháp hành thì không thể nào mà
chúng ta sống được. Nói chúng ta phòng hộ sáu căn mà chúng ta không có pháp
hành, thì chúng ta chỉ giữ nó có một lúc thôi, chúng ta đi nhìn xuống đất chỉ
một lúc thôi, mà không bao giờ chúng ta có thể mà, có thể mà giữ gìn nó mãi
được. Còn hằng ngày chúng ta mà chuyên cần, siêng năng, siêng năng mà chuyên
cần pháp hướng nhắc tâm chúng ta mãi như vậy nó thấm cái lý. Khi đi ra, tự nó,
nó đã nhìn xuống đất, nó không còn nhìn. Nó đã thấy được thế gian này, thế giới
này là vô thường, là khổ, là hoại diệt. Cho nên nó chẳng còn ham muốn cái vật
gì nữa hết. Do cái sự nhắc này, nó làm cho chúng ta giữ gìn thân tâm của chúng
ta, mắt tai mũi miệng của chúng ta rất là thanh tịnh, nó không còn bị đắm nhiễm
nữa.
Nhớ
như vậy thì quý thầy mới siêng năng, phải siêng năng hết sức mà tu tập, vì rồi
đây Thầy cũng không còn nhắc nhở quý thầy nữa. Do
vì vậy, thì chỉ còn quý thầy lấy những cái bài này, mà nghe những cái lời của
Thầy nhắc nhở ở trong băng, lời của Thầy nói ở trong băng vẫn còn nhắc nhở vẫn
còn, nhưng trực tiếp mà như ngày hôm nay, một vị Thầy bằng xương bằng thịt mà
nhắc nhở quý thầy thì chắc chắn là không còn nữa. Chỉ còn cái lời của Thầy ghi
ở trong băng này, nhắc nhở quý thầy mà thôi. Dù bất kỳ ở đâu, lời nói này vẫn
còn, nhưng các Thầy sẽ không thấy Thầy nữa.Do vì vậy, cho nên các
thầy phải nhớ kỹ, phải nổ lực, phải siêng năng những cái lời này, là những cái
lời tâm huyết, là những cái lời kinh nghiệm trên bản thân tu tập của Thầy, mà
Thầy nói ra để cho quý thầy biết, mà chính đức Phật dạy chúng ta ở trong kinh
điển của Phật, cũng là những lời mà Thầy biết là những lời tâm huyết của Phật.
Phật nói Như Lý Tác
Ý, như cái lý giải thoát đó mà chúng ta nhắc nhở, chúng ta tác ý thì chúng ta
mới phòng hộ được sáu căn; như cái lý mà tác ý thì chúng ta mới nhập được định;
như cái lý mà chúng ta tác ý, chúng ta mới thực hiện các cái oai lực, đại thần
lực, đại oai lực, đại minh lực mới được. Còn không có Như Lý Tác Ý làm sao có
được những cái đại thần lực, đại oai lực, đại minh lực được. Nên cái Như Lý Tác
Ý này là cái pháp tuyệt vời. Quý thầy phải nhớ kỹ, đừng có để quên, mà hằng
ngày phải trau dồi thân tâm của mình liên tục, không được gián đoạn, lúc nào
chúng ta cũng cần mẫn, vì con đường sanh tử không thể chờ quý thầy đâu, nó đến
là nó đến, chớ không thể nào mà nói nó phải hoãn lại cho quý thầy một giây lát
được. Cho nên phải siêng năng khi chúng ta còn một chút hơi, thì chúng ta sẽ nổ
lực thực hiện chứ đừng có để tới chừng giờ co tay, giật chân rồi thì tu không
có kịp nữa đâu. Nhớ như vậy thì quý thầy mới có thể thực hiện được con đường
này.
Trên đây là trạch
pháp để phòng hộ sáu căn, nhờ Giới hành phòng hộ sáu căn nên oai nghi chánh
hạnh của người tu sĩ hiện lên rất rõ nét và xét về quả tu từ bắt đầu vào đạo đã
được dạy thân niệm Phật là pháp phòng hộ sáu căn đầu tiên này. Thì ngay đây
trong hiện tại, vị tu sĩ ấy cảm thấy mình không còn dính mắc sáu trần. Nên tâm
lúc nào cũng quay hướng vào trong và nhận ra có một trạng thái ly dục ly ác
pháp, qua sự hành trì này.
Đó quý thầy thấy
chưa? Khi mà quý thầy phòng hộ được sáu căn thì ngay đó quý thầy đã thấy được
trạng thái tâm của quý thầy ly dục ly ác pháp. Phòng hộ thôi, chưa tu gì hết,
chưa có cái gì cả hết, chỉ giữ gìn mắt tay mũi miệng thân ý của mình thôi mà đã
ly dục ly ác pháp rồi. Mà ly dục ly ác áp rồi nó có một cái gì mà để chứng minh
cho chúng ta biết, nó có một cái sự giải thoát thật sự, tâm hồn chúng ta thanh
tịnh, thanh thản trước mọi pháp, làm cho chúng ta có một cái niềm hân hoan. Hân
hoan đây không có nghĩa là vui theo thế gian mà hân hoan đây là làm cho chúng
ta trở thành một người vô sự. Vô sự hoàn toàn đối với các pháp thế gian này, vô
sự hoàn toàn không còn dính mắc ở trong các pháp thế gian này, cho nên gọi là
vô sự với một tâm hồn vô sự.
Quý thầy chỉ mới tu
có bấy nhiêu đó thôi mà cũng đủ quý thầy đã được ly dục ly ác pháp rồi, còn đòi
hỏi gì nữa. Nếu quý thầy siêng năng tu tập, kết quả này càng ngày càng sâu hơn,
ly dục ly ác pháp càng ngày càng tiến tới và quý thầy sẽ nhập Sơ thiền, rồi Nhị
thiền, rồi Tam thiền, rồi Tứ thiền, rồi làm chủ sự sống chết của thân này, rồi
kết quả của nó quý thầy sẽ chấm dứt được luân hồi tái sanh.
Bởi vậy, Phật pháp
kết quả hiện tại, không có thời gian, nghĩa là đạo Phật đã dạy chúng ta khi tu
đúng, thì chúng ta không có thời gian mà gọi là phải năm ngày, mười ngày, mà
ngay trong hiện tại là có giải thoát. Tại sao vậy? Tại vì lúc bấy giờ quý thầy
chỉ dùng pháp hướng nhắc tâm mình có gò bó thân tâm mình đâu, có làm cho nó mệt
mỏi đâu, có ức chế nó chỗ nào đâu. Cho nên nó đâu có gì mà rối loại cơ thể của
quý thầy mà thấy nhức cái vai, đau cái lưng, tức cái ngực, đâu có cái gì. Ở đây
quý thầy chỉ nhắc nó phòng hộ sáu căn, khi đi phải nhẹ nhàng, khoan thai, thư
thả không có gì hết, làm sao quý thầy có trạng thái gì mà khổ đau trong thân
đâu, làm sao có những cái gì mà dích mắc trong tâm của quý thầy đâu mà làm cho
quý thầy phải giận hờn, buồn phiền, đau khổ. Cho nên ngay khi phòng hộ sáu căn
là quý thầy đã thấy được cái sự giải thoát thật sự của nó rồi. Ngay khi ngồi
thẳng lưng kiết già, cũng đâu phải ngồi cho đến khi mà hai chân quý thầy tê,
đau nhức, khổ sở để rồi quý thầy nói sau tôi ngồi thiền đau nhức. Đâu ai bảo
quý thầy ngồi dữ vậy, quý thầy ngồi trong năm phút, mười phút, quý thầy đặt cái
niệm trước mặt của quý thầy, rồi quý thầy dùng pháp hướng nhắc cái tâm phòng hộ
sáu căn của mình. Chớ đâu có bắt quý thầy ngồi một giờ, hai giờ, ba giờ để quý
thầy chịu đau, chịu khổ với cái thân của quý thầy đâu mà quý thầy nói rằng là
khổ là sở. Đạo Phật dạy cho quý thầy ngồi trong sự an lạc của ngồi, đi của sự
an lạc của đi, đó là sự giải thoát. Cho nên vì vậy, mà quý thầy dùng pháp hướng
để nhắc tâm mình thấm nhuần được đạo lý, được giải thoát của nó.
Cho nên quý thầy tu
hành mà nghe bất an trong thân và tâm của quý thầy, đó là quý thầy tu sai pháp
của Phật, tu đó là pháp của ngoại đạo cho nên làm thân của quý thầy nhọc nhằn,
khổ sở, mệt mỏi, hôn trầm, thùy miên, vô ký, đó là quý thầy tu sai. Còn quý
thầy tu đúng thì không hôn trầm thùy miên mệt nhọc gì cả. Lúc nào cũng thấy
giải thoát an vui và tỉnh táo rất là tỉnh táo.
Đây là mới bước đầu
vào quý thầy đã tu pháp phòng hộ sáu căn, thì quý thầy đã thấy quá rõ ràng sự
giải thoát cụ thể không thể nào mà chối cãi được. Điều này chứng minh hùng hồn,
không thể phủ nhận được, do thế mới gọi là Tứ Bất Hoại Tịnh, là Tín lực nghĩa
là sức lực, sức lực của niềm tin mạnh mẽ. Nghĩa là khi mà chúng ta vào mà thực
hiện sự phòng hộ sáu căn rồi, thì chúng ta tin rằng đúng là chúng ta đã giải
thoát thật sự rồi. Từ cái chỗ mà kết quả đó, cái lòng tin của chúng ta nó mạnh
mẻ vì gọi là Tín lực. Tín lực là cái lòng tin mạnh mẽ mà có giải thoát, có kết
quả giải thoát, có sự an lạc, có sự thích thú ở trong sự tu tập đó, có sự thanh
tịnh ở trong sự tập đó, thì chúng ta mới có lòng tin. Mà cái lòng tin đó làm
sao mà chúng ta rời được Đức Phật được, rời được Pháp, rời được Tăng được. Cho
nên lòng tin đó gọi là Tín lực. Đó quý thầy thấy rất rõ, cho nên Tứ Bất Hoại
Tịnh nó làm cho thân tâm chúng ta thanh tịnh mà trở thành một cái lòng tin rất
là mạnh, đó là cái sức lực tin tưởng mạnh mẽ của chúng ta.
Cái
phần thứ hai, thân Phật thường đi ăn xin. Đó bây giờ tới cái
thân Phật mà đi ăn xin đó, thì chúng ta phải tu như thế nào, để mà chúng ta
sống đúng như Phật. Thân ta niệm Phật cũng vậy, cũng vậy bây giờ mình
lấy thân mà niệm Phật mà. Do đó bây giờ, thân Phật thì đi hay đi xin, đi khất
thực đi xin ăn, thì thân ta niệm Phật cũng vậy, không làm tất cả mọi nghề nghiệp,
chỉ lấy nghề đi xin làm chánh nghiệp mà nuôi chánh mạng mà thôi. Đó chúng ta lấy cái nghề đó mà chúng
ta quyết tâm tu hành. Nghĩa là chúng ta khéo léo tổ chức như thế nào, mà chúng
ta hằng ngày có một bữa cơm đi xin ăn mà thôi. Khéo léo, khéo léo, chớ còn hiện
giờ mà chúng ta không khéo léo, mà mang bình bát đi ra xóm xin đó, thì không
khéo léo, đó là vụng về. Nó không phải như đất nước Ấn Độ, cũng không phải như
đất nước mà của Phật giáo Nam Tông, người ta có sẵn sàng những người Phật tử
cúng dường. Còn ở đây chúng ta phải khéo léo, khéo léo để cho tự người ta nấu
cơm, người ta cho mình cái gì đó thì mình ăn cái nấy.
Cũng như ở đây, Thầy
khéo léo tổ chức cho quý thầy, quý thầy chỉ đến giờ là người ta cho gì đó, mình
ra mình nhận thực phẩm đó mình ăn một ngày một bữa. Còn ở bên phái nữ người ta
cực khổ, người ta nấu nướng cái gì đó, người ta cho mình cái gì đó, mình chẳng
biết, tới giờ ăn đó mình chỉ nhận ăn, đó là khéo léo để khất thực. Còn nếu mà
mình chịu vụng, và mình chấp nhận cái đi khất thực bằng cách mà như thời đức
Phật thì đất nước chúng ta chưa cho phép, do đó, chúng ta không khéo léo. Mà
không khéo léo, thì dân tộc chúng ta sau chiến tranh thì có người nghèo, kẻ giàu,
người giàu thì cho chúng ta không nói gì, nhưng người nghèo mà hiểu Phật pháp,
họ phải nhịn bụng để cho chúng ta, cúng dường cho chúng ta bát cơm, thì họ lại
nghèo khổ nữa, thì chúng ta đâu nỡ tâm làm cái điều đó. Đó cho nên vì vậy,
chúng ta phải thấy và chấp nhận như thế nào để mà chúng ta đi xin ăn mà không
làm khổ người khác, không làm nghèo người khác. Do vì vậy, mà chúng ta khéo tổ
chức.
Chẳng hạn nào như
bây giờ, thí dụ như bây giờ muốn đi xin sống như Phật, thì mình phải tổ chức
những người cư sĩ họ có tiền bạc, họ vì Phật pháp mà hộ trì cho chúng ta tu
tập, một người, hay năm người, ba người. Bây giờ, các vị họp lại, các vị mở câu
lạc bộ, hoặc là một cái tiệm cơm chay ở tại đâu đó. Rồi chúng tôi sẽ ở gần đó,
một số tu sĩ của chúng tôi ở gần đó. Mỗi ngày chúng tôi chỉ đến xin một bữa cơm
thôi, quý vị cho ăn cái gì thì chúng tôi ăn cái nấy, chúng tôi không đòi hỏi gì
hết. Do đó, các cư sĩ đó, họ sẵn sàng họ giúp đỡ mình. Rồi tới đúng giờ là mười
một giờ hay là mười giờ, mình ôm bát, mình đến đó mình xin một bữa cơm rồi mình
trở về khu rừng, hay vị trí tu hành của mình, mình thọ thực rồi mình tu hành.
Có như vậy thôi, tức là đời sống của chúng ta chỉ lấy cái nghề đó thôi. Mà nó
không làm cho ai đau khổ hết, nó không làm cho cái xã hội nghèo đói nữa. Và cái
hình ảnh mà đi khất thực như vậy, mà tổ chức như vậy, là tổ chức đúng cách,
đúng xã hội, đúng cái thời điểm. Còn nếu mà không tổ chức được như vậy, mà ôm
bình bát đi lang thang xin thì không được, chúng ta làm như vậy sai.
Chúng ta phải hiểu
được những cái này, mà chúng ta mới có cái khéo léo, mà tổ chức để chúng ta
thực hiện được cái nghề đi xin, cái nghề đi xin để nuôi chánh mạng của chúng
ta.
Bây
giờ đó, thân Phật thường đi xin ăn, vậy thì chúng ta cũng
muốn cho mình được đi xin ăn như vậy, thì chúng ta cũng phải dùng cái pháp
hướng để nhắc nhở. Chứ nhiều khi chúng ta đi xin mà chúng ta còn ngại ngùng,
còn này kia nọ, nó chưa thấm nhuần thì chúng ta cũng khó mà có thể đi xin được.
Vậy muốn đi xin đó, thì chúng ta phải thường ngày, chúng ta phải ngồi chúng ta
tu như thế nào để mà chúng ta dạn dĩ, để mà chúng ta đi xin một cách rất tự
nhiên.
Câu
1:Hằng
ngày ta nên đặt niệm đi xin trước mắt, dùng pháp hướng. Bây giờ, mình đặt cái
niệm đi xin trước mắt mình ngồi kiết già hẳn hòi. Muốn hành động mà giống cái
hành động của Phật đi xin ăn đó thì mình phải đặt cái niệm đi xin trước mặt của
mình, rồi mình dùng cái pháp hướng, mình hướng như thế nào đây:
“Đi
xin là một nghề chân chánh, người tu hành ta phải đi xin như thế nào không làm
khổ mình, khổ người”.
Đó mình
đặt cái câu hỏi, cái câu pháp hướng để cho mình hướng tâm cho đúng cách. À bây
giờ đó, mình muốn đi xin, thì mình nói:“Đi
xin là một nghề chân chánh mà từ xưa đến giờ Đức Phật đã chấp nhận cái nghề đó
để nuôi cái chánh mạng của mình, không có đòi hỏi cái ngon cái dỡ, không có đòi
hỏi bằng cái này cái kia do cái dục lạc về cái ăn nó tạo ra cho chúng ta khó mà
có thể giải thoát được”.
Cho nên chỉ có đi
xin, nó mới có thể tạo chúng ta xa lìa được dục lạc của cái ăn. Vì vậy mà đi
xin như thế nào mà không làm khổ mình, khổ người. Nghĩa là đi xin như thế nào
không làm khổ mình, khổ người. Để chúng ta đặt cái niệm đó như thế nào. Như vậy
là để gì, để chúng ta có sự quán xét, khi mình đặt cái niệm đi xin trước mặt,
rồi đem pháp hướng này ra đặt ở trước mặt đó, rồi chúng ta dùng cái pháp quán
mà chúng ta suy xét. Bây giờ mình ngồi tu đây mà muốn trở thành một cái người
đi xin ăn, mà xin ăn như thế nào mà hợp lý, mà không hợp lý, đi xin như thế nào
mà không làm khổ mình, khổ người.
Đó, như vậy mình mới
đặt ra một cái pháp như vậy, bắt đầu mình đặt ra như vậy, mình trạch pháp này
ra, mình nhắc mình rồi, bắt đầu mình ngồi yên. Ngồi yên thì nó bắt đầu nó suy
tư, bây giờ mình phải tổ chức như thế nào đây, để cho cái đời sống tu hành của
mình nè, đi xin nè, mà nó có phong cách của đi xin nè, mà nó không làm khổ ai
hết. Vậy thì bây giờ mình có mấy người Phật tử thương mình, giúp mình tu hành
nè. Bây giờ tôi chỉ xin nhờ quý vị giúp đỡ tôi tu hành nè năm năm hay là mười
năm, tôi sẽ ở trong thất tôi tu hành ba năm nè, quý vị mỗi ngày giúp đỡ cho
chúng tôi, cho chúng tôi một bữa ăn thôi, quý vị nấu sau chúng tôi ăn cũng được
vậy, chúng tôi không đòi ngon đòi dỡ gì hết. Nghĩa là tới giờ đó, chúng tôi sẽ
bưng cái bát đến cái nhà của quý vị, thì quý vị vui lòng giờ đó là quý vị nấu
cơm cho cả gia đình rồi thì quý vị nấu thêm cho chúng tôi được một ít, một bữa
cơm thôi, rồi hằng ngày chúng tôi đến đây, chúng tôi xin quý vị, thì quý vị
giúp đỡ cho chúng tôi. Và mình biết rõ ràng là người cư sĩ này, họ không phải
là người nghèo, họ không phải là người đói, mà họ là người làm ăn có tiền bạc,
cho nên họ chỉ nuôi thêm mình, họ không đến nổi là họ khổ, do đó chúng tôi xin
họ. Vì vậy, họ đã bằng lòng giúp đỡ chúng ta rồi, thì bắt đầu từ đó chúng ta đã
trở thành người đi xin ăn đúng cách. Cho nên đặt cái niệm này ra, rồi chúng ta
đi tìm cái người nào giúp đỡ cho chúng mình để mình thực hiện cái chánh nghiệp,
cái nghề nghiệp chơn chánh của người tu sĩ. Đây là cái câu mà Thầy muốn nhắc
nhở quý thầy, để sau khi quý thầy rời khỏi Thầy, mà không được nương tựa nơi
Thầy nữa, mà quý thầy muốn tu hành đúng chánh pháp.
Cái thứ nhất là quý
thầy đã phòng hộ sáu căn của mình. Cái thứ hai là quý thầy phải tổ chức như thế
nào để cho mình đi xin ăn, chứ không phải là về tôi trồng ruộng, trồng lúa,
trồng khoai, trồng củ rồi tôi làm cái này cái kia rồi tôi tự lấy cái đó tôi nấu
cơm tôi ăn, tôi cất cái thất ra, rồi xung quanh đó tôi trồng đám thanh long,
tôi mới lấy tiền đó tôi mua gạo để dành tôi ăn suốt năm tôi tu. Không được đâu,
quý thầy đừng có làm cái điều đó, cái điều đó là điều sai. Quý thầy phải tính
một cái như thế nào, để hằng ngày có cái người tự người ta nấu người ta cho quý
thầy ăn thôi. Rồi người ta nấu ngon nấu dỡ mặc người ta, quý thầy chẳng biết,
miễn là mình ăn bữa đó mình no bụng thôi, chớ còn quý thầy đừng có để tiền, để
bạc hoặc thế này thế khác, quý thầy tự sắm lấy đồ ăn, đồ uống cho quý thầy, cái
đó là cái chết của quý thầy, càng lúc là các thầy sẽ xa lìa Phật pháp đó. Đó
không phải là chánh nghiệp nữa đâu. Hoặc là quý thầy về làm một đám ruộng, lấy
lúa năm chục, mười chục dạ lúa để dành cứ hằng ngày mình nấu cơm mình ăn với
muối cũng được, có gạo ăn được rồi, do đó quý thầy cũng tiêu, không có bao giờ
mà quý thầy mà có thể giải thoát được. Cho nên quý thầy phải tổ chức là mình đi
xin, đi xin kìa nó mới diệt cái ngã của quý thầy, chứ quý thầy có bồ lúa mà quý
thầy ngồi ăn thì cái ngã của quý thầy nó càng lớn, nó không có giải thoát được
đâu.
Đó là những cái mà
Thầy đặt ở đây để cho quý thầy thấy rằng khi bắt đầu mà chúng ta lấy cái thân
mà niệm Phật mà đi ăn xin, thì thân ta cũng phải đi ăn xin như vậy. Thì cái ăn
xin của chúng ta bây giờ nó phải có sự tổ chức hẳn hòi, có sự làm cho đúng cách
chứ không phải là đi ăn xin thời đức Phật được. Vì Đức Phật ngày xưa là tại vì
ở Ấn Độ nó đã quen, cái phong tục nó quen rồi, cho nên người ta quen, người ta
cho những cái người mà tu hành ăn xin như vậy. Còn ở đây mình không có được như
vậy đâu, cho nên quý thầy phải tự tổ chức, đừng có tránh, đừng có làm cái nghề
này nghề kia hoặc là về mình cất cái thất ở trong vườn cây chôm chôm, hay sầu
riêng hay là mãng cụt gì đó, tới cái mùa đó mình đi hái trái cây đó mình bán,
mình để dành số tiền, rồi do đó, mình ở trong khu vườn đó, mình ăn, mình ăn,
mình tu. Hay hoặc là trồng một đám dừa, do đó hằng ngày cứ lôi dừa đem đi bán
lấy tiền mua gạo ăn, thì quý thầy làm riết cái này thành ra quý thầy tu riết
chắc lẽ là quý thầy thành dừa hết, kêu là thành dừa chứ cũng không phải là
thành Phật được đâu. Cho nên làm cái gì là nó sẽ thú hướng cái đó sẽ thành cái
đó, nó không có kết quả được. Cho nên ở đây, đừng có nghĩ mà một cái việc gì,
một nghề gì mà quý thầy làm hết. Cho nên người ta nói mình ăn không ngồi rồi.
Không phải đâu, tôi không phải ăn không ngồi rồi đâu, hằng ngày tôi nổ lực, tôi
thật sự tôi giải thoát, thân tâm tôi không có phút nào mà tôi ngồi không được.
Còn quý vị có thể mà
ngồi không quý vị mới đi làm nghề này trồng trỉa đồ chứ còn tôi không có thì
giờ mà tôi ngồi không được. Cho nên cái mà chúng ta tu, chúng ta mới biết những
cái pháp trạch pháp ra, như thế này nó không còn thì giờ mà chúng ta đi trồng,
đi trỉa, đi nhổ cỏ, đi trồng rau, trồng cải. Còn quý thầy nói thôi bây giờ
người ta cho cơm mình, bây giờ mình cũng trồng bí, trồng bầu hay gì đó để mình
hái, để mình luộc, để mình ăn phụ thêm, nó cũng đỡ đi, do đó quý thầy đừng có
làm điều đó đâu. Người ta cho cơm với muối thì mình ăn cơm với muối, chứ đừng
có nghĩ rằng tôi ra tôi hái nấm rau lang vô tôi luộc, tôi ăn nó cũng đỡ hơn,
không có rau chắc bệnh. Nhứt định bệnh chết chứ nhất định không trồng cọng rau
nữa, chứ đừng nói chuyện.
Phải hiểu được như
vậy, đi xin ăn mà. Mà mình còn chấp hành một cái không đi xin ăn mà lại còn cái
của mình có, mình hái mình ăn thì cái chuyện đó không được.
Thí dụ như chẳng hạn
trong cái thất của quý vị có một cây cam, cây bưởi hoặc là cây nhãn hoặc cây gì
mà có trái, cái người mà người ta thường cúng dường cho quý vị gạo, đồ ăn, đồ
này kia, cơm hằng ngày cho quý vị đó, thì khi cây đó có trái thì quý vị đừng có
hái mà ăn, đừng có hái mà đem bán để dành tiền nữa, những điều đó là cái sai.
Cho nên vì vậy, quý vị kêu cái người cư sĩ mà hằng cúng dường cho quý vị đó, ở
đây bây giờ chỗ tôi ở đó có một cây mận, một cây nhãn hoặc là cây xoài gì đó mà
có trái xin nhờ cư sĩ bán cái này đi, coi ai không có giúp đỡ họ, hoặc là cư sĩ
hằng ngày đã giúp đỡ cho tôi cái bữa ăn như vậy, những cái này tôi không có ăn
phi thời được. Tôi không có lấy trái cây này mà tôi ăn phi thời. Hay hoặc là
quý thầy nói tôi không ăn phi thời nhưng bây giờ xoài của mình chín thôi để hái
năm, mười trái trưa mình ăn cơm rồi cái bắt đầu để năm mười trái mình ăn thêm
nữa, cái đó cũng sai nữa. Tất cả những cái này đều là do cái tâm tham dục của
mình ra hết. Cho nên bây giờ cái cây đó là của mình, của trong thất của mình,
nhưng mà quý thầy đừng có lấy cái trái cây đó mà quý thầy bỏ thêm vào trong bữa
ăn của mình, người ta cho cái gì đó mình ăn. Thầy không thấy ông Phật mà ở
trong vườn xoài, mà lượm xoài để ăn thêm đâu, không có đâu. Thường thường đức
Phật ở trong những vườn xoài, người ta tu hành, trong khi đi khất thực về, rồi
ngồi ở dưới bóng xoài ăn, ờ bây giờ có trái xoài chín thôi để mình hái trái
xoài đó mình ăn thêm đi, không có bao giờ mà nghe nói. Có người ta cho mình ăn
cái gì thì ăn, chớ không bao giờ hái trái cây. Còn mình nhiều khi có trái cây
rồi bắt đầu đó, bây giờ mình cũng ăn trưa, mình đâu có ăn phi thời đâu, ờ bây
giờ thôi tốt hơn là mình hái mấy cái trái xoài này để mình ăn thêm, hay hoặc là
có vài cây mãng cầu, hôm nay nó chín rồi để hái đây, trưa đây cái mình xin cơm
về để bắt đầu đó, mình để mấy trái này ra mình ăn phụ. Không, cái này không
phải của người ta cho mình, mà chính của mình, nhưng mà mình không có được
quyền hưởng cái điều đó, nó làm cho mình chạy theo cái dục lạc, thích ăn cái
này cái nọ. Cho nên mình kêu những người cư sĩ mà họ từng mà cúng dường mình,
từng sớt bát cho mình đó, giao họ những cây này, mặc dù là mình ở cái thất của
mình có những cây xung quanh đó nó có trái thì mình giao lại họ, họ bán, họ
buôn, họ ăn, họ làm gì họ làm. Rồi họ cho mình thì mình ăn, còn họ không cho
thì thôi. Nghĩa là tới bữa ăn đó họ có cho mình trái mãng cầu hoặc là trái xoài
thì mình ăn cơm, rồi mình ăn, còn họ không cho thì thôi.
Như vậy là mình giữ
đúng cái hạnh đi xin đó. Chớ còn không khéo mình nói đi xin chớ hình thức mình
còn giữ cái vật gì của mình đó thì mình ăn thì cái đó nó không đúng. Các thầy
nhớ kỹ, chúng ta tổ chức đi xin phải đúng đi xin. Người ta cho mình ăn cái gì
thì mình ăn cái nấy, chứ không có thể mà ăn hơn cái chỗ mà mình đi xin được.
Còn nếu mà thấy trong nhà mình có rồi mình muốn ăn cái gì mình ăn thì nó không
phải, mình chạy theo dục lạc rồi, nó chưa ly đâu. Đó là các thầy phải nhớ những
cái điều mà bắt đầu vào cái thân mà đi xin như thân Phật thì phải làm cho đúng
cách, đúng cách. Ngày xưa, đức Phật thì đi xin từ nhà này đến nhà khác, còn
mình bây giờ mình tổ chức có một cái nhà của cư sĩ giúp đỡ cho mình, hằng ngày
mình đến mình xin, người ta có thể nuôi mình một năm cho đến ba năm hay hoặc là
mười năm trong cái sự tu tập của mình. Rồi sau khi năm năm, mười năm mình tu
xong, mà người ta không giúp đỡ được mình, thì mình nên đi chỗ khác và mình đi
tìm những người khác để cho mình xin, mình xin ăn cho đúng cách.
Câu thứ hai:
“Chỉ
có đi xin ăn mới giải thoát được sự ăn uống, ta phải chấp nhận nghề đi xin.”
Đó
là câu trạch pháp để chúng ta có sự quyết tâm, không có thêm ăn thừa, ăn bớt ở
chỗ mà chúng ta ăn. Như vậy là câu thứ hai: “Chỉ có đi xin mới giải thoát được sự ăn uống”, chỉ có mình đi xin, mình mới được giải
thoát, còn bây giờ mình có trái xoài, trái bưởi, trái mít của mình lấy ra ăn
phụ thêm, thì như vậy có phải là của mình, mình ăn mà, chớ mình đâu có ăn trộm
ăn cắp của ai, nhưng chính chỗ đó mình vẫn chạy theo dục lạc rồi, nó không đúng
rồi. “Ta phải chấp nhận nghề đi xin”tức là pháp hướng mình
nhắc nó.
Câu 3:
“Đi
xin ăn không có quyền đòi hỏi món ngon vật lạ, vì thế chúng ta ly dục ly ác
pháp thế gian”.
Đó là câu thứ ba
trạch pháp ra đê nhắc cho chúng ta biết rằng cái nghề đi xin đó, nó làm cho
chúng ta ly dục ly bất thiện pháp.
Câu 4:
“Đi
xin ăn là một pháp môn ly dục ly ác pháp, tất cả ly dục ly ác pháp tốt nhất, ta
hãy chấp nhận đời sống đi xin”.
Đó là câu thứ bốn,
hằng ngày chúng ta đặt niệm tu tập như vậy, mặc dù bây giờ chưa làm được, nhưng
nó giúp ta lìa xa những sự thọ dụng thực phẩm hằng ngày mà chúng ta đang có.
Nghĩa là, hằng ngày bây giờ chúng ta chưa đi xin, nhưng mà chúng ta vẫn thấy,
như quý thầy ở đây đương nhiên là quý thầy xem như mình đã đi xin ở nhà bếp, đi
xin ở đằng trước của người khác cho mình ăn. Cho nên, mình đã chấp nhận được
cái nghề đi xin của mình rồi và đồng thời thì mình luôn luôn, mình luôn luôn,
mình phải nhớ là cố gắng mình thực hiện cho bằng được cái nghề đi xin này. Chứ
nếu mà không thực hiện cái nghề đi xin này, thì chắc chắn là Chánh nghiệp của
mình không có. Mà chánh nghiệp không có thì chắc chắn là mình không bao giờ
mình giữ Giới luật của Phật nghiêm chỉnh được, mà mình không có bao giờ mình
thực hiện được sự giải thoát của mình.
Cái ăn coi vậy chứ
khó lắm quý thầy, không đơn giản đâu, một chút là nó sẽ bị nhiễm đó, một chút
nó là nó sẽ luận đó, nó làm cho chúng ta dễ say mê ở trong dục lạc của nó. Cho
nên chúng ta phải sáng suốt, phải cẩn thận, phải nổ lực, phải suy tư, phải quán
xét để thực hiện đời sống đúng cách là chúng ta đi xin ăn cho nó được rốt ráo,
cho được giải thoát. Bởi vì muốn giải thoát như Phật thì phải làm sao giống như
Phật, phải làm sao tính như thế nào, suy tư như thế nào, tư duy như thế nào để
đời sống chúng ta thực hiện đúng những oai nghi tế hạnh của một đức Phật.
Ba:
Thân Phật thường hay ngồi thiền.
À, bây giờ chúng ta
thấy ông Phật thì ổng hay ngồi thiền, rồi thường đi kinh hành, chứ đâu có mà
nằm ngủ buông xuôi đâu. Thân ta niệm Phật cũng thường hay ngồi thiền như vậy.
Nghĩa là bây giờ cái thân của mình niệm Phật thì mình cũng phải bắt chước, cũng
phải sống như Phật, như thân Phật, cũng ngồi thiền như vậy.
Một: Ngồi
kiết già, lưng thẳng đứng, đặt niệm trước mặt. Đó là cái thứ
nhất.
Cái
thứ hai: Là tu định Vô lậu. Tức là chúng ta phải đặt cái niệm như đặt
niệm thân, như niệm thực phẩm để mà tu cái định Vô lậu quán xét nó vô thường,
khổ, không, vô ngã như thế nào. Quán từ trên xuống dưới coi nó bất tịnh như thế
nào, coi nó hôi thúi như thế nào, coi nó như thế nào. Đó là chúng tu định Vô
lậu.
Ba: Tu định chói sáng,
giữ gìn cái tâm của mình như thế nào để cho nó sáng suốt, để cho nó thanh thản,
để cho nó tự nhiên. Đó là tu định Sáng suốt.
Bốn: Tu định Niệm hơi
thở. Chúng ta thường tu định niệm hơi thở
Năm: Tu định Hiện tại
an lạc trú.
Sáu: Tu Tứ Niệm Xứ.
Chúng ta, thường
thường Phật đặt niệm trước mặt của mình là do chỗ ngồi thẳng lưng kiết già rồi
tu định này, định kia, định nó, tất cả các loại định cho đến, thậm chí như tu
Tứ Niệm Xứ Phật cũng đặt niệm ở trước mặt của mình, cũng ngồi kiết già rồi tu
Tứ Niệm Xứ. Ở đây tất cả các loại định, quý thầy đã có sự tu tập rồi, cho nên
Thầy không có nhắc lại như định Vô lậu nè, định Sáng suốt nè, định Hiện tại,
Định hơi thở nè, định Hiện tại an lạc trú.
Bây giờ Thầy nhắc
thêm cái định thứ sáu này là tu Tứ Niệm Xứ để cho quý thầy đại khái, nhưng sau
này Thầy sẽ dạy rõ về Tứ Niệm Xứ phải tu như thế nào, mà cái định này bây giờ
chỉ nói Đức Phật phải ngồi thiền tu Tứ Niệm Xứ, thì Thầy cũng nói sơ để quý
thầy biết thôi, sau này dạy về Tứ Niệm Xứ thì tức là dạy rõ hơn để quý thầy
biết cách thức tu tập Tứ Niệm Xứ.
Ở đây đức Phật đặt
niệm Tứ Niệm Xứ thì đức Phật quán thân trên thân nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh
niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Nghĩa là không còn tham muốn, không còn phiền
não ở đời nữa. Nhờ sống quán thân trên nội thân được chánh định và chánh an
tịnh, do đó tri kiến giải thoát được sanh khởi đối với các thân khác, ngoài tự
thân thọ tâm pháp cũng quán như vậy. Nghĩa là người tu Tứ Niệm Xứ thì trên thân
quán thân luôn lúc nào cũng tập cho nó tỉnh giác, nó ở trong chánh niệm để nó
khắc phục, chế ngự lòng tham muốn, cái lòng ưu phiền, cái lòng giận hờn, cái
lòng si mê của mình để cho mình không có còn tham muốn, si mê nữa, mình không
còn giận hờn nữa. Nhờ sống quán thân trên nội thân như vậy thì Chánh định nó
mới được và cái sự an tịnh, Chánh an tịnh nó mới có. Do đó tri kiến giải thoát
nó được sanh khởi. Vậy mà lúc nào chúng ta ở trên thân quán thân thì chúng ta
thấy rõ là thân bất tịnh, thấy rõ là thân vô thường, thấy rõ là thân khổ, thấy
rõ là thân nó không có mà do duyên hợp mà thành. Tất cả những tri kiến giải
thoát mà sanh khởi thì chúng ta thấy rất rõ rồi thấy xong thân mình, rồi thấy
thân người, thấy mọi thân cũng đều như vậy. Và chúng ta tiếp tục thọ, tâm, pháp
chúng ta cũng quán như vậy. Cũng như trên thọ quán thọ, trên tâm quán tâm, trên
pháp quán pháp rồi chúng ta cũng quán xét.
À, thân chúng ta đã
quán trên thân rồi, bây giờ bắt đầu chúng ta quán thọ, quán tâm, quán pháp cũng
như hồi nãy chúng ta ở trên thân quán thân như vậy. Mỗi loại định đều có trạch
pháp dùng để hướng tâm, dùng để tịnh chỉ, dùng để quán xét, dùng để chế ngự,
dùng để ly, dùng để từ bỏ, dùng để đứt đoạn, dùng để an trú. Đó thì, ở đây quý
thầy thấy rằng khi mà tu Tứ Niệm Xứ thì chúng ta bắt đầu từ thân rồi tới thọ
tâm pháp, nhưng luôn luôn lúc nào chúng ta cũng dùng trạch pháp hết. Dùng trạch
pháp để chúng ta dùng những cái câu để mà hướng tâm, hướng tâm chúng ta để làm
gì? Dùng để tịnh chỉ, dùng để cho nó ngưng, dùng để dứt đoạn. Rồi dùng pháp
hướng để làm gì? Để nhắc chúng ta rồi quán xét, tức là chúng ta quán, suy tư để
tìm ra những cái chưa hiểu, để thấu rõ những cái mà chưa thông rõ. Đó là chúng
ta quán xét. Dùng để chế ngự, dùng để mà chúng ta chế ngự cái lòng ham muốn của
chúng ta, chế ngự tham ưu của chúng ta, giữ vững cái tâm không có cho nó khởi
lên những sân hận, những cái hận thù, phiền não, cái đau khổ nữa. Dùng để ly,
dùng để lìa ra tất cả những cái mà nó không cần thiết, những cái làm cho chúng
ta đau khổ, dùng để từ bỏ, để dứt đoạn, dùng để an trú và chúng ta dùng cái
pháp hướng để chúng ta an trú, có khi thì dùng để dứt đoạn, có khi dùng để từ
bỏ. Cho nên tất cả những cái này, khi mà chúng ta ở trên Tứ Niệm Xứ, chúng ta
cũng đều là dùng những cái pháp, pháp hướng đó nó dùng để chúng ta quán xét,
dùng để chúng ta ly, dùng để chúng ta từ bỏ, dùng để chúng ta dứt đoạn, dùng để
chúng ta an trú được ở trong những cái tâm thanh thản, cái tâm giải thoát. Lúc
bây giờ chúng ta an trú được ở trong những cái tâm thanh tịnh.
Đó thì quý thầy thấy
một cái pháp mà chúng ta đã hiểu biết mà tu tập thì nó mang đến kết quả rất
lớn, chúng ta muốn làm sao thì nó sẽ làm y như vậy, nó có kết quả giải thoát
rất cụ thể, rõ ràng.
Số bốn:
Thân
Phật thường đi kinh hành, thân ta niệm Phật cũng vậy phải thường đi kinh hành
như Phật.
À, bây giờ ở đây quý
thầy nghe nói đi kinh hành, từ lâu quý thầy cũng biết đi kinh hành nhưng Thầy
xem thấy sự đi kinh hành của quý thầy nó chưa đúng cách, nhưng mà hầu hết quý
thầy không có hỏi. Cho nên do đó hôm nay vì giảng trạch cái này cho nên Thầy
mới giảng ra cái này để cho quý thầy biết đi kinh hành như thế nào đúng, mà đi
kinh hành như thế nào sai. Lúc nào đi kinh hành bằng một trạng thái gì, mà lúc
nào đi kinh hành bằng những trạng thái gì. Quý thầy chưa có hiểu lúc nào mà
phải đi kinh hành, mà đi kinh hành lúc đó để làm gì?
À, bây giờ thứ nhất
đó, là thân ta niệm Phật thì Phật cũng thường hay đi kinh hành nhưng tiếng
chung gọi là đi kinh hành như vậy, nhưng trong kinh hành đó nó có nhiều cái:
người ta đi kinh hành để phá hôn trầm, buồn ngủ nó khác, người đi kinh hành sau
khi ngồi tu mỏi mệt bằng cách ức chế tâm, bằng cách chế ngự tâm mình thế này
thế khác nó mỏi mệt thì cái người đó đi kinh hành thư giản nó khác, nó không
phải giống như cái người đi kinh hành đi kinh hành thường hoặc là đi kinh hành
trong chánh niệm tỉnh thức hay hoặc là đi kinh hành trong sự hôn trầm, thùy
miên. Quý thầy không biết cứ nghe đi kinh hành là cứ đi kinh hành thôi, chứ
cũng chẳng biết phân biệt cái đi kinh hành nào, tu tập cái nào cho đúng cách,
mà Thầy chưa có nghe người nào hỏi Thầy hết. Do không hỏi nhưng mà cho đến khi
Thầy giảng thì Thầy phải giảng trạch cho quý thầy hiểu. Nó khó là khó ở chỗ tu
sao cho đúng, đi kinh hành sao cho đúng đây.
Cho
nên ở đây, thứ nhất đó chúng ta phải tu tập đi kinh hành thư giản,
đi kinh hành thư giản là làm cho tâm của chúng ta nó trở về, nó không còn mệt
nhọc, nó trở về nó không còn sự khổ, không còn có sự mà khó khăn, không có sự
mệt nhọc, không có sự lười biếng trong thân của chúng ta nữa.
Khi đã tu tập mệt
nhọc, ta trạch pháp một câu dùng làm pháp hướng để nhắc tâm mình:
“Ta
đi kinh hành thư giản thân tâm, thân tâm phải thanh thản, nhẹ nhàng, vô sự
không được ức chế tâm, không được ghìm tâm, không được tập trung tâm, mà hãy vô
sự, tự nhiên như người nhàn du.”
Đó là chúng ta phải
nhắc cái câu đó để mà chúng ta thư giản cái thân tâm của chúng ta khi chúng ta
bước đi, mà tâm của chúng ta không có tập trung mạnh ở dưới bàn chân của chúng
ta đâu. Phải nhớ, đi kinh hành có lúc chúng ta phải tập trung dữ lắm, tập trung
để làm gì? Chúng ta phải hiểu được ý nghĩa của nó chứ! Còn nếu quý thầy lúc nào
cũng khơi khơi, khơi khơi đi kinh hành, đi mà thiếu điều muốn té, buồn ngũ muốn
té mà cũng đi kinh hành kiểu đó thì làm sao mà tu được. Không biết, cho nên đi
kinh hành mà thư giản thì chúng ta phải đặt cái pháp hướng, đặt cái pháp hướng
để mà nhắc cái tâm của mình. Vậy thì Thầy nhắc lại cái câu này, để quý thầy
thấy rằng khi đi kinh hành mà thư giản thân tâm chúng ta sau cái thời chúng ta
tu định Vô lậu, chúng ta ngồi chúng ta quán xét phá cái tâm lậu hoặc của mình.
Rồi bắt đầu chúng ta ngồi tu định Hiện tại an lạc trú, chúng ta nương vào hơi
thở, sau 30 phút, một giờ chúng ta có cái sự mỏi mệt, à có cái sự mỏi mệt thì
chúng ta bắt đầu chúng ta đi kinh hành để thư giản sự mỏi mệt đó. Thì như vậy
là phải như thế nào, vậy thì chúng ta phải nhắc cái tâm chứ không khéo nó quen
thói tập trung của nó trong hơi thở, đi mà cứ hít thở, hít thở, hít thở hoài
thì nó còn mỏi mệt hơn là chúng ta không đi nữa. Đó, còn hễ ngồi lại nó mệt quá
rồi bắt đầu quý thầy mới ngồi lim dim, lim dim, ngủ gật ở trong đó nữa. Khi xả
nghỉ chúng ta mới thấy rất sợ hãi, nó đâu có tỉnh táo được. Cho nên lúc bấy giờ
chúng ta đi kinh hành để thư giản, để làm cho tâm chúng ta tỉnh táo, mà nó
thanh thản, nó nhẹ nhàng, nó không phiền não. Do như vậy lúc nào chúng ta biết
lúc đó chúng ta đi kinh hành cái đúng cái sai, chớ không khéo là chúng ta không
có biết được.
Vậy thì chúng ta
phải dùng pháp hướng đây:
“Ta
đi kinh hành thư giản thân tâm (nghĩa là bây giờ mình đi kinh hành thư giản
thân tâm mình nhắc đó). Thân tâm ta phải thanh thản, nhẹ nhàng, vô sự, không
được ghìm tâm, ức chế tâm, không được tập trung tâm mà hãy vô sự, tự nhiên như
người nhàn du.”
Đó, chúng ta nhắc
như vậy đó, nhắc như vậy rồi chúng ta bước đi, luôn luôn lúc nào chúng ta cũng
thanh thản, nhẹ nhàng không bị ức chế tâm mình ở sự tập trung của bước đi hoặc
là của hơi thở. Đó là cái thư nhất, quý thầy có hiểu chưa?
Bây
giờ đến phần thứ hai: Đi kinh hành tu tập Chánh niệm tỉnh giác hay là tỉnh thức.
Bây giờ đi kinh hành
này tu tập Chánh niệm tỉnh giác đây, nó khác hơn cái kia chớ, nó làm sao mà
giống như cái kia được. Ta trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng:
“Ta
đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành.”
Đó, là bây giờ mình
đi kinh hành để Chánh niệm tỉnh thức là mình phải đi nhắc, cứ mình đi chừng khoảng
độ, chừng khoảng 3 thước, 5 thước gì đó hay 10 thước mình nhắc một lần:
“Ta
đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành”
Rồi bắt đầu mình lại
đi, rồi mình tập trung ở bước chân của mình, rất tỉnh táo ở bước chân đi của
mình. Do đó, mình lại nhắc nữa:
“Ta
đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành”,
Thường xuyên mình cứ
nhắc như vậy để biết mình đi mà nó không quên tức là Chánh niệm tỉnh giác ở
trong cái bước đi kinh hành của mình. Còn hồi nãy thì như thế nào? Đi thanh
thản, nhẹ nhàng chớ không phải Chánh niệm tỉnh giác, làm cho tâm, thân tâm của
mình nó thư giản, nó không còn mệt nhọc nữa. Quý thầy phải hiểu chỗ đi kinh
hành chứ, cái gì đi kinh hành cho đúng cách thì chúng ta sẽ thấy con người
chúng ta sẽ có giải thoát, có an lạc, có an ổn cho thân tâm mới đúng cách. Còn
nếu mà không đúng cách thì quý vị đã sai. Cho nên khi đi kinh hành mà tu Chánh
niệm tỉnh thức thì quý vị phải nhắc, phải thường xuyên nhắc:
“Ta
đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành”,
Rồi một chút nữa thì
chúng ta sẽ nhắc nữa:
“Ta
đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành”.
Đó, nhắc hoài, nhắc
cho đến khi mà chúng ta đi hết giờ rồi chúng ta trở vào chúng ta ngồi nghỉ, thì
đó là đi kinh hành Chánh niệm tỉnh thức.
À, bây giờ đi, à câu
thứ hai của trạch pháp mà đi kinh hành, đi kinh hành mà chánh niệm tỉnh thức,
hồi nãy câu:
“Ta
đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành”
đó. Bây giờ câu kế
nữa:
“Ta
đi kinh hành, ta phải tỉnh thức mỗi bước chân ta đi”.
Đó là mình nhắc nó
nữa đó, thay vì bây giờ mình nhắc cái câu thứ nhất mình đi từ đây ra ngoài kia,
bắt đầu mình nhắc:
“Ta
đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành”,
Rồi bây giờ mình
nhắc nó câu kế nữa, mình đi một hơi mình nhắc câu kế nữa:
“Ta
đi kinh hành, ta phải tỉnh thức mỗi bước chân ta đi”,
Đó nhắc cho nó đặng
nó tỉnh thức mỗi bước chân ta đi, không có quên, không có nhớ đó, rồi một lát
nữa mình đi đến một đoạn nữa mình nhắc:
“Ta
đi kinh hành, ta biết ta đi kinh hành”,
Đó, rồi mình đi lúc
nữa mình lại nhắc:
“Ta
đi kinh hành, ta phải thức tỉnh mỗi bước chân ta đi”.
Đó, như vậy là chúng
ta dùng hai cái câu này mà làm hai pháp hướng để tu tập Chánh niệm tỉnh thức.
Đó, thì như vậy là đi kinh hành mà tu tập chánh niệm tỉnh thức.
Ba, ĐI KINH HÀNH
TRAU DỒI LÒNG TỪ.
Ở đây là đi kinh
hành mà trau dồi lòng từ đây. Đó, quý thầy thấy một, hai, ba rồi đó, cái thứ ba
này là đi kinh hành trau dồi lòng từ đây. Ta trạch pháp câu này để dùng pháp
hướng mà nhắc tâm ta. Đây là câu pháp hướng để đi kinh hành mà trau dồi lòng
từ:
“Dưới
chân ta bước đi có nhiều côn trùng nhỏ nhít, ta hãy thương yêu chúng nên phải ý
tứ từng bước đi, tránh không làm đau khổ và chết chóc chúng sanh”.
Đó là chúng ta dùng
cái câu pháp hướng này, bắt đầu chúng ta đi, chúng ta nhìn ở dưới đường chúng
ta đi, chúng ta tránh không có đạp chúng sanh đó. Đó là cái câu pháp hướng đi
kinh hành trau dồi lòng từ. Chúng ta phải phân biệt được cái pháp nào mà chúng
ta đi kinh hành nào là ở trong cái vị trí nào chứ! Còn bây giờ chúng ta đi kinh
hành ở trong Chánh niệm tỉnh thức mà chúng ta lại tu tập trau dồi lòng từ thì
nó cũng tỉnh thức nhưng mà nó ở trong lòng từ thì nó chưa hẳn là ở Chánh niệm
tỉnh thức, phải biết rõ như vậy. Cho nên những cái này đều giúp cho chúng ta
được tỉnh thức hết, nhưng cuối cùng thì cái kinh hành mà thư giản làm cho thân
tâm chúng ta bớt mỏi mệt, bớt nhọc nhằn thì nó cũng làm giúp cho sức tỉnh thức
của chúng ta ở trên mức độ cao mà lại thư giản được thân tâm không mệt mỏi.
Số bốn: ĐI KINH HÀNH
PHÁ HÔN TRẦM.
Ở
đây là đi kinh hành để phá hôn trầm đây, chứ không phải là đi kinh hành nào nó
cũng phá hôn trầm hết đâu, mà đi kinh hành phá hôn trầm thì nó phải có cái câu
như thế nào để mà chúng ta trạch pháp ra mà chúng ta phá hôn trầm. Đi
kinh hành phá hôn trầm, thùy miên, cho nên có nhiều người nói
tôi đi mà sao mà cứ hôn trầm cũng còn hoài nó chưa hết, là tại vì chúng ta chưa
có biết cách đi kinh hành phá hôn trầm thùy miên như thế nào. Vì vậy, mà chúng
ta phải trạch pháp câu này để dùng làm pháp hướng, mình nhắc tâm chúng ta. À,
bây giờ chúng ta dùng pháp hướng nó như thế nào:
“Tâm
phải tỉnh thức, thân phải tỉnh táo”,
Đó chúng ta nhắc nó
bởi vì bây giờ nó lờ mờ, lờ mờ, nó lừ đừ, lừ đừ, nó muốn ngủ rồi, cho nên do đó
mà chúng ta phải nhắc nó trước:
“Tâm
phải tỉnh thức, thân phải tỉnh táo, không có được lừ đừ nữa”.
Đó là chúng ta nhắc
như vậy, mà nhưng mà nhắc là nhắc chứ nó chưa có nghe đâu, cho nên lúc bấy giờ
chúng ta muốn đi kinh hành chưa phải là chúng ta bước đi một cách tự nhiên được
đâu. Do đó, muốn bắt đầu mà đi kinh hành để cho nó, để cho phá được hôn trầm
thì bắt đầu chúng ta chạy lúp xúp, chạy bộ đó chạy lúp xúp hoặc là chạy một chỗ
hoặc là chúng ta chạy đường dài, chạy một chỗ chúng ta cứ chạy nhảy lên nhảy
xuống, chạy lúp xúp, lúp xúp như vậy đó. Nghĩa là chạy chừng nào mà chúng ta
thấy đổ mồ hôi thôi, thì chúng ta dừng lại, thì lúc bây giờ mới tỉnh, cái thân
của chúng ta mới tỉnh, cái tâm của chúng ta mới tỉnh, chứ bây giờ nó lừ đừ, lừ
đừ muốn ngủ, chỉ còn nước mà chúng ta chạy, chạy lúp xúp, lúp xúp như vậy đó
thì nó mới tỉnh. Đó là trước khi mà chúng ta muốn đi kinh hành để mà phá hôn
trầm, thì chúng ta phải vận động cái cơ thể của chúng ta và cái tâm của chúng
ta cho nó tỉnh thức. Nhưng mà trước khi mà chạy lúp xúp như vậy thì chúng ta
phải nhắc:
“Tâm
phải tỉnh thức, thân phải tỉnh táo, không được buồn ngủ nữa”,
Ra lệnh nó như vậy,
rồi bắt đầu chúng ta mới chạy, chạy bộ, chạy bộ lúp xúp, hai chân kéo lên,
nghĩa là chân kéo lên cao chớ đừng có mà chạy sợ nó mỏi chân, cũng như mà mấy
người mà chạy đá banh, mà họ chạy theo kiểu tập luyện mà chân họ kéo lên cao đó
rồi thả xuống rất mạnh, chạy một chỗ hay chạy đường dài. Nghĩa là chúng ta đứng
một chỗ chúng ta chạy lên, chạy xuống như thế này để một hơi mồ hôi nó đổ ra
rồi thì chúng ta tỉnh lại liền. Tắm xong, nghĩa là sau khi mà mồ hôi chảy ra
rồi, chúng ta đi tắm, đi tắm rồi bắt đầu chúng ta vô chúng ta đi kinh hành thì
chúng ta nhắc:
“Thân
tâm phải tỉnh thức trong bước đi rõ ràng”,
Đó chúng ta nhắc nó,
bây giờ tỉnh rồi đó, nó không còn buồn ngủ nữa, nhưng mà coi chừng con ma buồn
ngủ nó không phải nhường chúng ta đâu, nó cũng có thể chụp cổ chúng ta nữa. Cho
nên chúng ta đi kinh hành bây giờ nó giảm bớt cái cường độ hôn trầm, thùy miên
của chúng ta nhiều rồi, do vì vậy bây giờ chúng ta mới đi kinh hành mà hướng
tâm nhắc:
“Thân
tâm phải tỉnh thức trong bước đi rõ ràng”.
Đó, nếu còn hơi buồn
ngủ thì ra lệnh:
“Chân
mặt bước, chân trái bước”,
Mình
cứ ra lệnh: “Chân mặt bước” thì
mình cứ bước; “Chân trái bước” thì
mình bước, mình cứ ra lệnh liên tục mà ra lệnh một cách rất là: dùng cái lực
tinh thần của mình nhắc nó, để làm cho mình càng lúc càng tỉnh hơn. Đó là cách
thức đi kinh hành để mà phá, để mà phá cái buồn ngủ, cái hôn trầm của chúng ta.
Đó, quý thầy nhớ
chưa? Bởi vậy, nếu mà không có cái kinh hành như vậy thì chúng ta khó mà phá
cái hôn trầm, thùy miên của chúng ta lắm! Khó lắm! Cho nên có nhiều người nói
tôi bị hôn trầm, tôi ngồi lại tôi hít thở một hơi thở dài cái nó hết, nhưng mà
hít thở một hơi thở dài cái nó hết rồi một lát nó cũng trở lại à, mà mình hít
hoài năm, mười hơi thở mình hoài thì mệt, do đó nó cũng đuối sức mình đi. Do vì
vậy mà nó lại làm cho rối loạn cơ thể mình thêm mà nó cũng chưa hết buồn ngủ.
Trái lại, thì quý
thầy biết cách khéo léo đi kinh hành như thế này thì nó sẽ hết buồn ngủ, và vì
vậy mà chúng ta vượt qua cái giờ của nó đi, mà vượt qua cái giờ của nó thì nó
sẽ tỉnh táo lắm. Còn quý thầy lấy kinh, lấy sách đồ đọc đó thì chẳng qua là
mượn nó để mà làm cho nó tỉnh táo nhưng rồi quý thầy không có kinh sách đọc nữa
thì quý thầy cũng sẽ, cũng sẽ bị nó đánh gục nữa, cũng sẽ bị hôn trầm đánh gục
nữa. Còn ở đây, quý thầy đần cho nó, bắt nó phải chạy, bắt nó phải thế này thế
khác làm riết nó, nó hoảng, nó sợ. Còn mình ngồi không, mình im im để đầu óc
mình sử dụng cái trí của mình duyên theo những câu kinh, tiếng sách đó thì nó
cũng tỉnh, nhưng mà nó tỉnh nhưng cơ thể nó chưa hẳn đã là tỉnh táo đâu. Vậy
cho nên, khi đó thì nó cũng vẫn còn có những cái điều kiện chưa có tỉnh táo cả
thân và tâm.
Còn cái này, chúng
ta dùng pháp hướng, rồi cả đó dùng pháp hướng để cho tâm tỉnh, rồi cả dùng cái
thân động để cho thân tỉnh, cả hai cái này nó đều giúp cho tỉnh hết. Còn mình
ngồi yên cái tâm của mình nó hoạt động, nó đọc kinh sách thì nó hoạt động còn
cái thân của mình thì đâu hoạt động, cho nên nó vẫn còn cái trạng thái, trạng
thái yên lặng của thân, do đó nó tuy rằng cái tâm nó tỉnh, cái thân nó cũng
theo đó mà nó tỉnh nhưng mà nó chưa hẳn, nó có sự mà tập luyện chưa phá hẳn của
cái thân. Còn chúng ta tập luyện như vậy là nó vừa phá hẳn cái thân mà cũng vừa
phá hẳn cái tâm làm cho tỉnh, rất tỉnh. Sau đó nó mới sạch cái hôn trầm, thùy
miên.
Còn có người dạy
chúng ta bị hôn trầm, thùy miên thì treo chân, treo giò lên, ngồi suốt đêm để
coi có hôn trầm, thùy miên đến rồi từng đó nó sẽ hết đi. Sự thật ra nó không
phải, chúng ta đừng nên hành hạ thân của chúng ta quá khổ, mà chúng ta hãy tập
cho nó có những vận động như vậy, rồi nó sẽ làm cho chúng ta hết đi, hết hôn
trầm thùy miên và phá đi, rồi lần lượt chúng ta còn tu tập những cái sức tỉnh
thức ở trong giấc ngủ nữa. Chúng ta nương vào hơi thở để tập cho nó lần lượt
chúng ta sẽ phá sạch ra hết, hoàn toàn là chúng ta sẽ làm chủ được sức tỉnh thức
của chúng ta.
Đó
thì bây giờ cái phần thứ năm: Thân Phật không làm hại chúng sanh, thường thương xót chúng sanh.
Nghĩa là, cái thân của Phật là không bao giờ làm cho chúng sanh đau khổ, từ cây
cỏ Đức Phật cũng không có đạp cho nó héo úa nữa. Thường thường là thân Phật
luôn luôn bao giờ cũng làm cho chúng sanh, thương sót chúng sanh chứ không bao
giờ làm cho con vật nào đau khổ hết. “Thì thân ta niệm Phật cũng vậy” nghĩa là thân của mình niệm Phật cũng
luôn luôn không có làm cho chúng sanh đau khổ, mà cũng luôn luôn cũng phải là
biết thương xót chúng sanh, cho nên mình niệm Phật thì tức là mình phải bắt
chước y như Phật, Phật làm cái gì thì mình làm cái nấy. Cho nên ở đây, mình
trạch pháp cái câu này ra để thường nhắc tâm của mình để cho mình không có làm đau
khổ chúng sanh:
“Thân
ta niệm Phật phải giống thân Phật, bắt đầu từ đây về sau không làm hại chúng
sanh, không ăn thịt chúng sanh, hằng ngày phải thương xót chúng sanh như con
mình”.
Đó là câu trạch pháp
nhắc, bây giờ chúng ta còn ăn thịt chúng sanh, nhưng mà khi nhắc mãi, nhắc riết
rồi chúng ta thầm nhuần rồi, chúng ta thấy hết muốn ăn thịt chúng sanh rồi, vì
không thể nào mà mình thân mình niệm Phật như thân Phật mà thân Phật thì không
ăn thịt chúng sanh, Phật thì ăn thực phẩm thực vật biến mãn tâm từ của mình
khắp cùng đối với tất cả chúng sanh thì thân của mình, mình niệm Phật thì mình
cũng phải làm y như vậy, chớ tại sao là thân của mình lại ăn thịt chúng sanh,
làm đau khổ chúng sanh. Cho nên do cái câu trạch pháp này làm cho hằng ngày,
hằng ngày thấm nhuần thân tâm của chúng ta thấu suốt được cái lý mà không làm
đau khổ chúng sanh, cho nên từng đó chúng ta không còn muốn ăn thịt chúng sanh
nữa và không còn muốn ăn thịt chúng sanh nữa thì chúng ta thấy mình đã thoát ra
được cái nghiệp khổ, cái nghiệp đau khổ của chúng sanh, mình thoát ra được cái
nghiệp đau khổ của chúng sanh. Từ đây, cả gia đình của quý vị đều là ăn rau
cải, tương dưa mà không cần ăn thịt chúng sanh nữa. Thịt chúng sanh có ngon gì
cũng là có cái sự đau khổ, có cái tội ác ở trong đó, nó không phải thiện. Cho
nên từng cái câu trạch pháp này để giúp cho quý vị thân niệm Phật đã trở thành
như thân Phật, đã trở thành lòng thương xót chúng sanh.
À,
câu sáu: Thân niệm Phật không làm khổ chúng sanh, thân ta niệm Phật cũng
không được làm khổ ai hết.
Trạch pháp câu này
dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý:
“Thân
ta niệm Phật từ đây về sau ai có chửi mắng, mạ lị, mình không được chửi mắng
lại, không được giận hờn, thù oán họ, phải thương yêu họ, hết sức thương yêu họ
vì họ là người đã thọ khổ, vì họ sân hận”.
Đó thì bắt đầu chúng
ta trạch pháp câu này ra để chúng ta tu, thân chúng ta niệm Phật, thân Phật
không có sân hận, không có thù oán ai thì thân mình cũng như vậy, không có sân
hận, không có thù oán người khác. Cho nên mình nhớ, mình nhắc, mình ám thị, mình
nhắc mình hoài thì do đó mình không còn sân hận, thù oán ai hết, mình không còn
ghét ai hết. Cho thậm chí người ta chửi mình, người ta mạ lị mình, người ta
mắng mỏ mình, người ta sỉ nhục mình, mình hoàn toàn mình không còn có đau khổ
nữa. Nghĩa là mình không có giận hờn, mình được giải thoát, đó là mình đã niệm
Phật, thân mình niệm Phật, thân mình đã được giải thoát.
Đó thì, quý thầy
thấy mỗi cái mà chúng ta niệm Phật, nó đều đem đến cái sự giải thoát thật sự
cho thân mình, chớ không phải là thiếu cái sự giải thoát. Nhớ những cái câu
trạch pháp này, quý thầy sẽ hằng đêm, hằng ngày ngồi lại thì quý thầy nhắc cái
câu đó để cho chúng ta hằng ngày, hằng đêm thấm nhuần được cái lý này mà đứng
trước các pháp người ta mắng chửi mình, người ta mạ lị mình, người ta sỉ nhục
mình, mình không có hờn giận họ nữa. Bởi vì cái câu này nó thầm nhuần vào tâm
hồn của mình, cho nên bây giờ nghe người ta mắng mình, người ta chửi mình, sỉ
nhục mình thì mình vẫn thản nhiên, mình không có buồn giận ai hết, mà mình biết
họ đang khổ và sống trong nhân quả.
À,
câu bảy: Thân Phật không bao giờ lấy trộm của ai, thân ta niệm Phật cũng
vậy không bao giờ lấy trộm của ai.
Trạch pháp câu này
dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý hằng ngày:
“Người
mất của đau khổ, thân ta niệm Phật giống như thân Phật, há mà ta lấy của người
không cho để làm cho người đau khổ”.
Đó mình trạch pháp
câu này ra để nhắc mình, mình không bao giờ lấy của dù vật lớn, vật nhỏ mình
không lấy của ai hết, vì lấy của người, người mất của làm cho người ta khổ sở,
người ta mất của, người ta tiếc, người ta khổ. Cho nên, thân mình niệm Phật,
Phật không bao giờ lấy trộm của ai hết, của không cho nhất định là không lấy.
Do vì vậy, ta niệm Phật, thân ta niệm Phật, ta cũng như vậy không lấy của ai
hết, hoàn toàn là vật lớn, vật nhỏ, trái cây, cục đường gì cũng không trộm,
không cắp của ai hết, nghĩa là hoàn toàn.
À,
câu số tám: Thân Phật đã tuyệt đường dâm dục, thân ta niệm Phật cũng vậy, ta
cũng phải tuyệt đường dâm dục, vì con đường dâm dục là con đường tái sinh luân
hồi, con đường đau khổ, là con đường bất tịnh.
Cho nên chúng ta
biết như vậy, Phật thì tuyệt đường dâm dục, cho nên từ khi mà đi tu cho đến khi
về gia đình thì hoàn toàn đức Phật không bao giờ mà gần gũi cái người vợ thân
yêu của mình nữa, coi như là xa lạ, không có còn mà cái gần gũi nữa. Thân Phật
đã tuyệt đường dâm dục, nên thân Phật thanh tịnh, trong sáng, thân ta niệm Phật
cũng vậy, phải tuyệt đường dâm dục để cho thân tâm ta được thanh tịnh mới có hy
vọng nhập được thiền định, làm chủ được sanh tử, luân hồi. Ta nên trạch pháp
câu này dùng làm pháp hướng nhắc nhở thân tâm ta sống đúng thanh tịnh, tuyệt
trừ dâm dục:
“Thân
ta niệm Phật phải tránh xa đường dâm dục, xem dâm dục là hôi thối, dơ bẩn hãy
xa lìa như xa lìa hầm phẩn”.
Đó là cái câu trạch
pháp của chúng ta, nhắc nhở chúng ta để chúng ta hằng ngày chúng ta sợ hãi
trước cái sự dâm dục. Bây giờ Thầy nhắc lại câu này:
“Thân
ta niệm Phật phải tránh xa đường dâm dục, xem dâm dục là thứ hôi thối, dơ bẩn,
hãy xa lìa như xa lìa hầm phẩn”.
Đó, chúng ta phải
tránh xa nó đi chứ đừng có ham thích nó, nó là con đường sanh tử làm cho con
người khổ đau, mọi người đều nơi đó mà sanh ra, mà chịu khổ đau từ người này
đến người khác, từ tổ tiên ông bà của chúng ta sanh chúng ta ra cho đến bây giờ
con cháu của chúng ta cũng đều thọ lấy những sự khổ đau này không bao giờ dứt.
Cho nên, chúng ta phải xa lánh nó như xa lánh cái nơi dơ bẩn nhất, cái nơi hầm
hố nhất, cái nơi mà khổ đau nhất.
Chín: Thân
Phật không ăn uống phi thời, thân ta niệm Phật cũng vậy phải ăn uống, phải ăn uốngkhông phi thời.
Trạch pháp câu này
dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý nhắc nhở thân tâm ta:
“Món
ăn là bất tịnh, hôi thối, không có gì ngon dở, chỉ là một ảo giác của dục lạc
tầm thường vị giác mà thôi, ta hãy thấu suốt lý bất tịnh của thực phẩm mà xa
lìa, từ bỏ xem ăn uống là thứ thuốc trị bệnh đói mà thôi”.
Đó là chúng ta trạch
pháp câu này ra để hằng ngày chúng ta ngồi thiền, chúng ta nhắc nhở đặt cái câu
này trước để rồi chúng ta có thì ăn, mà không có thì thôi, không thèm, không
khát nữa. Có như vậy thì chúng ta mới thấy được sự giải thoát của mình, còn nếu
không được vậy thì khó mà có thể giải thoát được.
Câu
mười: Thân Phật thường tỉnh thức không ngủ, không bao giờ có hôn trầm,
thùy miên, thân ta niệm Phật cũng vậy phải thường tu tập tỉnh thức trong giấc
ngủ.
Muốn được vậy ta
phải dùng trạch pháp câu này, dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý:
“Thân
ngủ đi, tâm tỉnh thức trong hơi thở, không được quên”.
Đó, chúng ta nhắc nó
đó, bắt đầu chúng ta nằm xuống hen, chúng ta nhắc, nằm xuống ngủ chúng ta nhắc:
“Thân
ngủ đi, tâm tỉnh thức trong hơi thở, không được quên nha”.
Nhắc nó như vậy để
cho mình thở ra, thở vô luôn luôn nó biết mà cái thân này nó ngủ. Có như vậy là
chúng ta mới thấy rằng tập đúng như Phật, Phật nằm kiết tường, rồi Phật đặt cái
hơi thở trước mặt, rồi Phật cũng nhắc nó như vậy, rồi Phật nằm đó suốt đêm coi
như cái thân ngủ mà cái tâm Phật không ngủ. Mình cũng bắt chước làm như vậy,
bởi vì thân ông Phật làm sao thì mình niệm Phật thì mình cũng phải, thân mình
cũng phải làm vậy để cho nó giống. Cho nên ở đây câu pháp hướng nghe ngắn, gọn
mà nó rất đầy đủ ý nghĩa.
À, Thầy nhắc lại:
“Thân
ngủ đi (mình ra lệnh nó đây: thân ngủ
đi, bảo cái thân nó ngủ đi),tâm tỉnh thức ở trong hơi thở, không được quên
nha”.
Mình nhắc nó như vậy
thì cái tâm mình nó luôn luôn biết hơi thở ra vô, khi nằm xuống ta đặt niệm
trước mắt, thường hướng tâm như vậy tu tập từ từ cho đến khi thân ngủ mà tâm
tỉnh thức.
Đó là chúng ta tu
tập tỉnh thức như vậy đó. Hồi nãy chúng ta tỉnh thức trong những hành động đi
đứng nằm ngồi, bây giờ chúng ta tỉnh thức ở trong khi ngủ nữa.
À,
số mười một: Thân Phật không nằm giường cao, rộng lớn, thường ở chòi tranh,
vách lá, giường tre, trên tảng đá hoặc trên đất.
Đức
Phật thì, thân của đức Phật thì không có chấp nhận mà nằm ở trên cái giường
cao, rộng lớn, cho nên Phật chế giới ra không cho mình nằm giường cao rộng lớn
thì chắc chắn ông Phật cũng không bao giờ mà chấp nhận nằm giường cao, rộng lớn
đâu, thân ta niệm Phật cũng vậy không nằm giường cao rộng lớn gỗ quý,
bất kỳ nằm chỗ nào cũng được, miễn là ở chỗ ấy không có sang đẹp để tránh khỏi
thân đắm nhiễm.
Trạch pháp câu này
ta dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý để nhắc nhở tâm ta xa lìa những nơi sang đẹp,
êm ái của dục lạc thế gian:
“Thân
nằm trên giường cao, rộng lớn êm ấm là tâm dễ đắm nhiễm sanh dục lạc ưa mến, ta
phải xa lìa không được béng mãng tới”.
Đó, mình dùng cái
câu pháp hướng đó mình nhắc để cho cái tâm mình đừng có, đừng có ham thích nằm
giường cao rộng lớn, nằm mền niệm êm, nằm những cái cảm giác làm cho thích thú
như kiểu thế gian nó sanh ra cái tâm không giải thoát, cái tâm không ly dục, ly
ác pháp.
Câu
mười hai: Thân Phật không trang sức vòng hoa, chuỗi hạt, thân ta niệm Phật
cũng vậy không trang sức vòng hoa, chuỗi hạt.
Trạch pháp câu này
dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý nhắc nhở thân ta:
“Thân
là vô thường, thân là bất tịnh hôi thúi, nay còn mai mất có gì tốt đẹp mà trang
sức vòng hoa, chuỗi hạt, ta hãy từ bỏ, xa lìa nó đi”.
Đó, đây là cái câu
pháp hướng để nhắc cho chúng ta xa lìa cái thân mà trang sức của chúng ta. Niệm
Phật thì chúng ta phải xa lìa sự làm đẹp, làm tốt, làm cho nó thơm tho nhưng
cái thân là cái thân vô thường, là cái thân bất tịnh đâu có thơm tho gì hết.
Câu
mười ba: Thân Phật không cất giữ tiền bạc, của báu, thân ta niệm Phật cũng
vậy không cất giữ tiền bạc, của báu.
Trạch pháp câu này
dùng làm pháp hướng nhắc nhở tâm ta Như Lý Tác Ý:
“Tiền
bạc, của báu là rắn độc sẽ giết chết chúng ta, sẽ làm chúng ta đau khổ”.
Đó là cái câu mà
chúng ta trạch ra để chúng ta thấy tiền bạc, của báu là những thứ độc, những
thứ mà có thể làm cho chúng ta đau khổ. Cho nên chúng ta xa lìa nó đi, đừng có
nghĩa rằng chúng ta muốn cái này, muốn cái kia tức là chúng ta nô lệ cho nó,
còn chúng ta không có thì chúng ta đâu bị nó sai khiến cho nên chúng ta giải
thoát, còn có gì chúng ta khởi muốn là chúng ta bị nó hết.
Đó là những cái câu
mà nhắc cho chúng ta để chúng ta cảnh giác, để chúng ta thấm nhuần, để chúng ta
đừng có bị tiền bạc sai mình nữa.
Câu
hai: “Tiền bạc, của báu là vật nguy hiểm nếu ta cất giữ nó, ta sẽ trở
thành nô lệ, đầy tớ trung thành cho nó”.
Nghĩa là tiền bạc,
của báu rất là nguy hiểm, nó là ông chủ của mình, nếu mình cất giữ nó, nó sai
mình thế này, thế khác, biến mình trở thành cái tên nô lệ trung thành cho nó.
Cho nên vì vậy đó, nó như vậy, chứ nó có quyền lực lắm mà chúng ta không ngờ
được, cho nên nó là ông chủ của chúng ta đó. Bây giờ, chúng ta muốn mình không
có trở thành nô lệ, tên nô lệ, tên đầy tớ nó thì chúng ta hãy ném nó đi xuống
dưới sông, xuống biển hết đi thì nó không còn sai mình được nữa, nó không còn
trở thành ông chủ của mình nữa. Đó, cho nên cái câu mà trạch pháp này, chúng ta
nhớ câu trạch pháp này:
“Tiền
bạc, của báu là vật nguy hiểm lắm, là ông chủ nếu chúng ta cất giữ nó, chúng ta
sẽ trở thành một tên nô lệ, tên đầy tớ trung thành cho nó”.
Vì vậy, mà chúng ta
nhớ nhắc những câu này để rồi chúng ta sẽ không còn mà thích thú cất giữ tiền
bạc nữa.
Câu
số mười bốn: Thân Phật nằm nghiêng theo kiểu kiết tường, thân ta niệm Phật cũng
nằm theo kiểu kiết tường như Phật.
Trạch pháp câu này
dùng làm pháp hướng nhắc nhở:
“Thân
ta hằng ngày cũng nên nằm kiết tường để dễ tâm tỉnh thức không bị mê muội, dễ
đặt niệm hơi thở nhiếp tâm tỉnh thức trong lúc ngủ không bị chiêm bao”.
Đó thì, chúng ta
biết rằng khi mà nằm kiết tường, nằm ngửa, nằm như thế này, thế khác thì nó dễ
mê muội lắm mà nằm kiết tường thì nó ít mê muội, và nằm kiết tường mà lại đặt
niệm, đặt niệm cái hơi thở của chúng ta ở trước thì chúng ta phá được cái chiêm
bao, chúng ta làm chủ được cái giấc ngủ của chúng ta nữa. Cho nên cái, đặt cái
câu này, đặt cái câu mà pháp trạch này để chúng ta dùng làm cái pháp hướng đó,
nhắc nhở chúng ta thì quý thầy sẽ đọc lại cái câu này:
“Nằm
kiết tường, tâm dễ tỉnh thức, không bị mê muội dễ đặt niệm hơi thở nhiếp tâm
tỉnh thức trong lúc ngủ không bị chiêm bao”.
Đó là cái nhắc nhở
chúng ta luôn luôn phải nằm ở trong kiểu kiết tường, luôn luôn phải đặt cái
niệm hơi thở, nhiếp phục cái tâm mình, không cho nó chiêm bao, nhớ cái câu này
là nhắc cho chúng ta, để chúng ta luôn luôn chúng ta nằm kiết tường, chúng ta
phải đặt niệm hơi thở để làm chủ giấc ngủ, để làm chủ giấc ngủ, để phá cái
chiêm bao, chiêm mị của chúng ta.
Đó thuộc về loại
phần thân niệm Phật, đến đây là cái phần thân niệm Phật đã hết rồi, bây giờ tới
cái thọ niệm Phật, chúng ta nghỉ một chút.
À, bây giờ chúng ta
tiếp tục cái bài học của chúng ta, tức là bây giờ tới THỌ NIỆM PHẬT.
Hồi nãy là chúng ta
đã học thân niệm Phật, bây giờ chúng ta lại THỌ NIỆM PHẬT. Bởi vì thân thọ tâm
pháp, thân đã niệm Phật rồi thì bắt đầu bây giờ tới THỌ NIỆM PHẬT.
Thọ niệm Phật như
thế nào? Thân Phật đã làm chủ được ba trạng thái của thọ:
1. Là Thọ lạc
2. Là Thọ khổ
3. Là Thọ bất lạc
bất khổ
Đối với ba thọ:
Một: Là Phật thọ lạc không làm tâm Phật ưa thích, không vui mừng, không ca
ngợi, không cầu mong, không ước muốn, không tưởng nhớ. Thọ ta niệm Phật cũng
vậy giống như Phật không ưa thích, không vui mừng, không ca ngợi, không cầu
mong, không ước muốn, không tưởng nhớ, nhờ thế thọ ta không tác dụng được,
không lôi cuốn được, không làm cho ta đắm đuối mê mờ. Muốn được
vậy ta phải trạch pháp câu này dùng pháp hướng Như Lý Tác Ý.
Ở đây chúng ta thấy
rằng đức Phật đã xác định cho chúng ta biết rằng cái thân của chúng ta có ba
cái Thọ: Thọ lạc, Thọ khổ và Thọ bất lạc bất khổ. Và ở trong ba cái Thọ này đức
Phật không có chấp nhận cái Thọ nào hết, Thọ lạc đức Phật cũng không thích, mà
Thọ khổ đức Phật cũng không sợ, mà Thọ bất lạc bất khổ đức Phật cũng không cho
nó là Niết bàn cứu cánh, toàn là cái thứ thế gian phàm tục mấy cái Thọ này đức
Phật xem như là nó không cám dỗ được đức Phật. Do đó bây giờ chúng ta lấy cái
Thọ mà niệm Phật, thì Phật cái Thọ của Phật như thế nào thì cái Thọ của chúng
ta như phải thế nấy, cho nên chúng ta phải tập nó như vậy.
Nhưng mà muốn nói
như vậy nhưng mà không có pháp tu, không có pháp hành thì làm sao mà chúng ta
đạt được như vậy được. Cho nên chúng ta phải có pháp hành để cho chúng ta hằng
ngày nhờ cái pháp hành đó, nhờ có giới hành đó mà chúng ta thấm được cái lý,
cái lý của nó. Cho nên chúng ta hoàn toàn là chúng ta mới không có đắm đuối
theo Thọ lạc, không có sợ hãi theo Thọ khổ, không có, không có ham thích theo
Thọ bất lạc bất khổ.
À Thọ lạc, bây giờ
chúng ta trạch pháp cái câu này ra, để mà chúng ta dùng pháp hướng đây:
“Thọ
lạc là vô thường khi có sanh ra khả ái, khả hỷ, khả lạc nhưng chỉ chốc thời
không được lâu dài, vì thế thọ là nguy hiểm, là tai họa, là khổ đau ta phải
đoạn dứt, không được ham thích, say đắm, không được để chúng lôi cuốn, không
được để tâm ta sa ngã theo chúng”.
Đó là câu trạch pháp
mà chúng ta nhắc nhở và chúng ta cũng phải hiểu rõ, chúng ta cũng hiểu rõ nó là
vô thường, tại sao nó vô thường? Chúng ta quán xét, bởi vì chúng ta khi mà
trạch pháp câu này ra thì chúng ta phải có một cái sự hiểu biết của nó để chúng
ta thấu suốt được. Nó vô thường như thế nào, thân của chúng ta bây giờ nó đang
có cái sự thích thú, an ổn hoặc là chúng ta đang ăn món ăn đó ngon, đó là nó có
cái cảm giác thích. Vậy là bây giờ khi nuốt hết món ăn đó rồi thì nó mất đi, nó
không còn nữa, như vậy là nó có thường không? Tức là vô thường. Cũng như thân
ta bây giờ nó không có bệnh đau nè, nó nghe nó an ổn nè, lát nữa là cái nó nhức
đầu, như vậy nó có thường không, nó là vô thường. Cho nên nó sanh ra, khi mà
Thọ lạc nó sanh ra thì chúng ta thích lắm cho nên nó gọi là khả ái, khả hỷ, khả
lạc nhưng mà nó chỉ có một chút là nó hết liền, cũng như có người đi xa về gặp
mình vui có một chút, mai mốt đâu có vui nữa, đâu có vui hoài đâu, vui có bữa
đó thôi, vui có hồi nãy đó thôi, còn bây giờ hết vui rồi. Tức là cái vui đó nó
không có kéo dài mãi, cho nên nó vô thường lúc sanh ra rồi lúc mất, nó vô
thường. Vì thế chúng ta hiểu biết được cái thọ của thế gian, thọ của thân mình
đều là hoàn toàn là vô thường. Mà nó nguy hiểm khi mà cầu mong được thọ đó nó
trải qua nhiều cái sự kiện nó xảy ra.
Ví dụ như trước khi
mà có người thân mà đi xa thì bây giờ về gặp nhau mừng, trong khi trước khi đó
khi có duyên gì mà người đó đi xa thì chúng ta có buồn tủi không, có thương nhớ
không? Thương nhớ, buồn tủi rồi bây giờ mới lâu ngày mới trở về gặp nhau mới có
vui mừng, cho nên bây giờ mà vui mừng nhớ trước kia cái ngày mà chia tay ra đi
không biết còn sống hay chết luôn luôn lúc nào cũng sầu khổ. Rõ ràng là cái Thọ
lạc của nó đem đến cái niềm vui thì phải có sự khổ rồi, cũng như có sự vui rồi
sẽ đến cái sự khổ. Cho nên chúng ta phải thấy nó là nguy hiểm, là tai họa, là
khổ đau, do biết nó là nguy hiểm, tai họa, khổ đau đó cho nên chúng ta phải
đoạn dứt, không có ham thích theo nó, không có say mê theo nó, không có vui
theo cái kiểu mà như vậy được vì vui đó rồi khổ đó. Cho nên chúng ta không có
để cái Thọ lạc đó làm cho tâm ta sa ngã.
Do đó vì vậy cái câu
mà trạch pháp này là chúng ta hiểu rõ như vậy, cho nên chúng ta nhắc như vậy
thì chúng ta không còn say đắm nữa. Chứ còn không khéo là chúng ta dễ say đắm
lắm, dễ bị sa ngã nó cám dỗ, cái Thọ lạc này nó cám dỗ chúng ta dữ lắm, cái Thọ
khổ thì chúng ta sợ đó, nhưng mà cái Thọ lạc này là chúng ta không sợ đâu, mà
người ta ham lắm, vì thế gian mà người ta sống được tại vì có Thọ lạc này mà
người ta thích sống nè, cũng như một người sắp chết rồi mà vẫn thấy có cái giọt
mật mà ngon họ vẫn thích, họ muốn chết rồi đó, họ sắp chết rồi đó mà họ vẫn còn
thấy cái ngon của thế gian là họ còn thích ăn, thích nếm chứ chưa phải họ muốn
bỏ đâu. Cho nên vì vậy mà chúng ta biết rằng cái Thọ lạc nó đem đến cho chúng
ta khổ lắm chứ không phải là sung sướng gì, nó chỉ là chốc thời, nó chỉ là chớp
mắt, mà nó đem đến cho chúng ta nhiều cái khổ sau này.
Hai:Phật Thọ khổ, Phật
không sợ hãi nghĩa là gặp khổ như là đau nhức bệnh tật thì đức Phật không có sợ
hãi, còn chúng ta mà đau nhức này kia nọ thì chúng ta sợ lắm, sợ chết, sợ khổ,
sợ nhức, đủ thứ lo lắng buồn rầu, ăn không được nữa, ngủ không được nữa. Nghe
cái thân đau nhức chỗ nào đó, chúng ta thôi quá khổ, còn ông Phật thì mặc nó,
mà ổng chẳng hề sợ hãi cái gì hết, cho nên Phật không có sợ hãi cái thọ khổ,
cũng không chán ghét nó, mà cũng không lo lắng, không buồn rầu, không ưu não và
luôn luôn Phật bất động trước các Thọ khổ, nghĩa là trước các thọ khổ. Cho nên
Phật nói cái sức tận cùng chịu đau của cái thân của chúng ta, chịu đau cái sức
tận cùng của thân chúng ta mà Đức Phật vẫn thản nhiên, vẫn thản nhiên mà không
để cho tâm mình dao động thì nó có sự mát lạnh ở sức chịu đựng, sức chịu khổ,
tận cùng của sức chịu khổ của cái thân chúng ta.
Đó thì như vậy là
chúng ta đã thấy biết rằng Phật không có sợ cái Thọ khổ, Phật không có lo lắng,
không có buồn rầu cái thọ khổ. Như ai có thân này cũng đau, cũng nhức, cũng tai
nạn này tai nạn khác nhưng mà đối với Phật, thì Phật rất thản nhiên, đối với ta
mà chúng ta gặp thọ khổ thì chúng ta sợ hãi, chúng ta không có dám, chúng ta lo
lắng, buồn rầu trái lại Phật buồn rầu, không có lo lắng gì hết, tại vì nhân quả
thì phải có Thọ khổ thôi, thọ khổ thì mặc nó chứ đâu phải vì mình mà mình sợ
nó. Cho nên khi quý thầy thấy quý thầy có những thọ, thọ khổ đó, mà quý thầy có
những bệnh tật thì quý thầy cứ lo lắng cái bệnh tật mình như thế này, thế khác,
tức là quý thầy đã bị cái Thọ lôi cuốn quý thầy rồi, làm cho quý thầy bất an,
tâm quý thầy dao động. Còn bằng không mà nếu quý thầy chẳng có sợ hãi, quý thầy
đặt cái niệm Thọ trước mặt, thì quý thầy mới câu hữu với Sắc thọ hoặc Thức thọ
hoặc Hành thọ hoặc Tưởng thọ quý thầy câu hữu, quý thầy đặt nó trước mặt của
mình, quý thầy quán xét, quý thầy tư duy, quý thầy đặt nó xuống, quý thầy chẳng
rung động trước Thọ khổ của quý thầy, quý thầy làm chủ được Thọ khổ. Cho nên
quý thầy vượt thoát ra nó, mà thân nghiệp của quý thầy cũng sẽ hết.
Cho nên hầu hết là
một số quý thầy tu hành trước Thọ khổ của quý thầy, trước bệnh tật của quý thầy
tức là trước nghiệp thân của quý thầy quá đau khổ tức là Thọ khổ đó, quý thầy
lo lắng thế này thế khác nghĩ rằng thân mình phải mạnh mới tu được, đau ốm thì
tu không được bây giờ cứ thế này thế khác, cứ lo lắng sợ hãi như vậy đó thì
chẳng tu gì được hết. Trái lại đặt cái niệm thọ khổ đó trước mặt của mình, rồi
dùng cái trí, tri kiến giải thoát quán xét tư duy đập nó xuống, phá toang nó
ra, nó không còn có nữa, như vậy là quý thầy sẽ thấy cái nghiệp thân của quý
thầy giải thoát hoàn toàn, nó không còn làm cho quý thầy đau khổ.
Ta
lấy thọ niệm Phật cũng vậy, giống như Phật phải gan dạ, phải kiên trì, phải đầy
đủ nghị lực, phải dũng cảm, phải chiến đấu với thọ không sợ hãi, không chán
ghét, không lo lắng, không buồn rầu, không ưu não luôn luôn giữ tâm bất động
các thọ khổ.
Ta phải trạch pháp
câu này dùng làm pháp hướng Như Lý Tác Ý để giữ tâm bất động trước Thọ khổ. Đó,
khi mà một cái người mà tu theo đạo Phật đó, thì chúng ta phải thấy cái Thọ
khổ. Nếu mà chúng ta không có hiểu thấu được Thọ khổ đó, khi gặp cái thân
nghiệp của chúng ta, nó mang cái thân từ khi mà sanh ra cho đến khi mà chúng ta
chết có nhiều người mang cái thân có cái nghiệp nó đau từ nhỏ chí lớn, mà nếu
mà không có cái chỗ mà tu tập, không có được cái định mà tu tập để quét sạch nó
thì chắc chắn là quý thầy tới khi chết mà quý thầy cũng chưa hết cái nỗi khổ
của cái Thọ của mình. Còn biết như vậy thì chúng ta sẽ tu tập đúng cách, cái
phần này sau khi mà giảng xong cái giáo án này xong, thì thầy dành riêng cho
những người mà có thân nghiệp nặng một cái bài pháp để giúp cho họ đặt cái
niệm, đặt cái niệm thọ mà tu cái định Vô lậu để quét sạch cái niệm thọ, phá đi
những cái nhân quả của đời trước của họ mang cái thân ra đã có cái bệnh, để
giúp cho họ thoát ra cho khỏi những cái nghiệp thân đó, bằng những cái pháp có
những ý nghĩ của Phật pháp để giải thoát họ ra khỏi cái đó.
Chúng ta phải dùng
cái câu này để mà trạch pháp để tu, để mà sống đúng như cái thọ của Phật, thọ
khổ, chúng ta phải thấy nè:
“Thọ
khổ không từ đâu đến, không từ đâu đi toàn là do duyên ác mà có Thọ khổ, do quả
ác mà kết trái mà có Thọ khổ, ta cứ giữ tâm bất động, Thọ đến Thọ đi mặc thọ,
chẳng tác dụng ta được, do thế Thọ sẽ tịnh chỉ hoàn toàn”.
Như vậy các thầy sẽ
dùng cái câu trạch pháp này, mà khi gặp cái thân quý vị đau bệnh thì qúy vị đặt
cái câu này, quý vị nhắc cái tâm của quý vị:
“Thọ
khổ không từ đâu đến (nó không phải ở ngoài nó đến thân ta đâu, mà nó cũng
không từ đâu nó đi hoàn toàn là do duyên hợp mà thành mà), cho nên toàn là do
duyên ác mà có thọ khổ, do quả ác mà kết trái mà có thọ khổ, ta cứ giữ tâm bất
động, Thọ đến thọ đi mặc Thọ chẳng tác dụng được tâm ta, do thế Thọ sẽ tịnh chỉ
hoàn toàn”.
Đó, phải hiểu được
như vậy thì chúng ta mới tịnh chỉ được các thọ, có như vậy thì chúng ta mới làm
chủ được cái thọ của chúng ta, còn nếu không thì chúng ta yếu đuối đây rồi
chúng ta sẽ bị thọ làm cho chúng ta bò càng, bò niểng, sợ hãi. Đó thì như vậy
là cái câu trạch pháp này quý thầy phải nhớ kỹ để thường nhắc nó.
Câu
thứ hai: “Thọ là vô thường, không có ngã, ta chẳng hề sợ hãi và nao núng.
Thọ khổ hãy đi đi”
Đó, là câu thứ hai
chúng ta đuổi nó đi đi, bây giờ mày nhức cái đầu thì hãy đi đi đừng có ở đây,
mày là vô thường, lúc mày có, lúc mày không, tại sao hôm qua mày không có nhức
đầu, hôm nay mày nhức đầu, mày hãy đi đi, mày không phải là cái ngã. Cho nên vì
vậy đó cái câu pháp hướng này để giúp cho chúng ta đánh đuổi cái thọ, cái nhức
đầu của chúng ta. Thầy nhắc lại câu hai:
“Thọ
là vô thường, không có ngã, ta chẳng hề sợ hãi và nao núng. Thọ khổ hãy đi đi”
Đó là chúng ta đuổi
nó đi.
Câu
ba: “Thọ khổ là vô chủ, không phải của ta, không phải của ai hết, của
nhân quả duyên hợp, vậy Thọ hãy đi đi”.
Nó là do duyên hợp
của nhân quả mà, do ngũ uẩn duyên hợp của chúng ta mà, bây giờ nó có Thọ nhức
cái đầu hoặc đau cái bụng đây, nó không phải của chúng ta, nó bây giờ nó đi cầu
không được nó nhức nhối đây, nó đều là cũng cái nhân quả thôi cho nên đi đi,
chứ đừng có ở đây.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét