18/1/15

GIÁO ÁN TU TẬP CỦA NGƯỜI CƯ SĨ BĂNG SỐ 13

BĂNG SỐ 13

(BBT:CĐ,13A,B00:00:09)(BBT:BN,12,00:41:40)Như cái đôi giày mà mình hết mang được rồi mình quăng ra đống rác. Xem nó là của báu, vật chất ở trong, vàng bạc của báu của mình quăng nó như là quăng đôi giày rách của mình ở đống rác vậy đó. Thì đó là một câu để hướng tâm, để ám thị, để Như lý tác ý câu này ra để làm cho chúng ta thấy vàng bạc của báu là đôi giày rách, là con rắn độc. Thì như vậy chúng ta mới ném nó được, chứ không khéo chúng ta khó mà ném được. Phải lặp đi lặp lại, hướng tâm để ta xả cho được vô lượng tâm này.
Tiền bạc của cải, châu báu vật chất thế gian là tên chủ độc tài, sai bảo ta làm bất cứ một điều gì ta đều mờ ám vâng theo, làm những điều tội lỗi tày trời. Vậy ta phải từ giã, xa lìa ông chủ này để được tự do, thoát kiếp nô lệ.
Đó là một câu nữa đó. Nghĩa là chúng ta phải nhìn thấy tiền bạc của báu là một người chủ độc tài, luôn luôn lúc nào nó sai chúng ta. Hễ muốn cái gì là nó sai chúng ta làm theo cái nấy. Nghĩa là chúng ta bị nô lệ nó. Nó muốn uống rượu là nó sai chúng ta uống rượu, nó muốn hút thuốc là sai chúng ta hút thuốc à, nó muốn cái gì nó làm cái nấy hết à. Nó muốn làm những cái tội ác gì nó cũng sai chúng ta làm được. Nó muốn giết người, tiền bạc nó có rồi, nó muốn sai chúng ta giết người đó thì bắt đầu chúng ta cũng đem tiền bạc tung ra để giết người nữa. Nó làm những điều tội lỗi, rất là tội lỗi. Cho nên nó là một ông chủ độc tài, sai bảo ta cái gì, ta là tôi tớ rất trung thành của nó. Cho nên muốn thoát kiếp nô lệ thì chúng ta phải xa lìa ông chủ này. Chớ ở gần ổng, ổng cứ sai mình hoài. Cho nên ở đây phải cố gắng mà xa lìa nó đi, xa lìa như những bậc tu hành giải thoát, như những bậc Thánh hiền, Thánh tăng của thời đức Phật. Họ đã xa lìa nó đó cho nên họ không bị sai. Vì giới luật của Phật dạy người tu sĩ không cất giữ tiền bạc, cho nên họ xa lìa, làm sao sai họ được. Bây giờ tâm họ muốn cái gì cũng không được hết, bởi vì họ đâu có tiền, cho nên ông chủ tiền không sai họ được. Đó là họ đã xa lìa ông chủ. Vì vậy mà chúng ta thấy những gương mà xả danh, xả lợi, xả tiền tài thì những người đó là những bậc chơn tu.
Còn người cất giữ tiền bạc thế này thế khác, họ nói là họ chơn tu thì chắc chắn là không phải chơn tu đâu. Chúng ta nhìn chúng ta phải xét được cái đúng, cái sai. Chúng ta biết được người đó đang nô lệ tiền bạc hay là không nô lệ tiền bạc. Bởi vì họ nô lệ tiền bạc cho nên tâm họ muốn cái chùa to thì cái tiền đó nó sẽ sai họ phải cất cái chùa, cho nên họ bị nô lệ tiền chứ họ không phải làm chủ tiền. Họ nghĩ là họ làm chủ tiền, họ lấy tiền ra họ bỏ để người ta cất cho họ cái chùa tốt nhưng không ngờ tiền sai họ. Bởi vì họ có tiền. Còn như một vị chơn tu không có tiền bạc thì lấy cái gì mà sai họ được? Cho nên họ xa lìa ông chủ họ. Vì vậy mà cái câu này các thầy phải nhớ kỹ để áp dụng vào cái pháp Như lý tác ý hàng ngày nhắc đi nhắc lại. Vì chúng ta là những người tu, sau này chúng ta có những cái danh, cái lợi nó lớn như vậy thì chúng ta nhớ rằng chúng ta không phải là một người tu sĩ nô lệ cho tiền bạc. Có như vậy quý vị mới thoát ra cái cảnh nô lệ của tiền bạc, của ông chủ độc tài này.
Bây giờ quý thầy đã hiểu, phải biết được mà sửa mình từ bây giờ, răn nhắc mình để cho mình xa lìa tiền bạc của báu, từ đó cái giới luật của quý thầy rất là nghiêm chỉnh. Hầu như quý thầy hiện giờ tu hành người nào cũng còn cất giữ tiền bạc, cho nên bây giờ muốn cái gì thì chúng ta dù ít dù nhiều thì chúng ta cũng thực hiện qua sự sai bảo của ông chủ này. Còn trái lại như một người không có gì hết lấy gì sai bảo được. Cho nên chúng ta là những người xa lìa ông chủ tiền bạc. Tiền bạc vật chất thế gian càng có nhiều tâm ta càng lo sợ. Quý thầy thấy không, có người nào mà giàu có mà họ không lo sợ trộm cướp đâu, họ lo sợ cả vua chúa, cả nhà nước, chính phủ nữa. Thấy mình đây tiền bạc nhiều quá đây, không biết mình làm cái gì đây, có gian có dối gì sao mà ông này không có thấy làm gì mà có tiền đây? Người ta đi tìm đi này kia. Do đó mình ăn không yên mà ngủ không yên, rất sợ hãi. Thì các con thấy, các thầy thấy cái đó là cái nguy hiểm nhất, cái đau khổ nhất.
Cho nên ngày xưa đức Phật nói với ông A-Nan nó là rắn độc đó, dạy cho ông A-Nan thấy đó là rắn độc. Nó sẽ cắn chúng ta chết ngày nào đó. Đó thì chúng ta thấy người mà có tiền bạc vật chất thế gian càng nhiều, nhà cửa đồ sộ vậy, cửa sắt cửa nẻo vậy chớ ngủ ở trong nhà rất nơm nớp. Nghe ở ngoài nghe cái cộp là ở trong quá hoảng sợ rồi. Mạng sống như chỉ mành treo chuông. Mình tiền bạc nhiều ăn cướp nó vô nó giết mình để lấy của chứ làm sao tha mình được. Tha mình đi tố cáo nó sao. Cho nên cái mạng sống của mình, tiền bạc nhiều mạng sống của mình như sợi chỉ mà treo chuông vậy. Không biết kẻ trộm cướp, người tham lam giết chúng ta trong giờ phút nào. Vì vậy ta phải từ giã chúng, xả ly chúng, chẳng còn một chút nào ở trong tâm ta thì ta mới có ngủ yên giấc.
Đó thì những cái lý đó, những câu đó các thầy phải nhớ để mà khắc ghi, để trở thành một cái pháp hướng, trở thành một câu ám thị để nhắc tâm mình, để mình từ giã, xa lìa những thứ mà có thể giết người, giết mình trong chớp mắt. Lấy câu này dùng làm pháp hướng Như lý tác ý để ta vĩnh viễn xả ly tiền bạc vật chất thế gian, trau dồi tâm xả vô lượng. Nghĩa là chúng ta xả được như vậy đó là những của cải tài sản lớn đó, chớ không phải là. Cái mà xả của cải tài sản lớn này còn dễ đó, chứ cái mà xả của cải tài sản nhỏ còn khó, nó không phải dễ đâu. Ở đây lần lượt rồi Thầy dạy để quý thầy trau dồi cái tâm xả vô lượng này, để chúng ta xả từ cái lớn rồi cho đến cái nhỏ. Nãy giờ Thầy nói chuyện lớn không đó, xả cái lớn, rồi tới đây Thầy sẽ chỉ dạy cho xả cái nhỏ. Chúng ta còn phải thêm những câu pháp hướng thêm để chúng ta trau dồi tâm xả chúng ta cho nó thấm nhuần. Nó nhiều cái câu, để mà chúng ta thấy cái câu nào mà chúng ta tu tập nó có hiệu quả nhứt thì chúng ta chọn lấy câu đó làm câu nhắc tâm chúng ta hằng ngày, còn câu nào chưa có hiệu quả, chưa hợp với tâm lý của mình thì những câu đó nó không hợp với đặc tướng của mình thì mình hãy bỏ những câu đó đi. Để chọn lấy một hai câu trong những gợi ý của Thầy. Chớ Thầy biết được đặc tính của quý thầy là hợp với câu nào mà Thầy dạy? Chẳng hạn bây giờ mỗi người đến xin Thầy một câu thì Thầy xem qua đặc tướng của người này thế nào Thầy cho. Còn đây là bài giảng Thầy phải giảng chung chung cho quý thầy tự chọn lấy câu nào mà phù hợp với mình, mà mình thực tu có kết quả thì mình lấy câu đó làm cái câu nhắc tâm của mình.
Đây là một câu nữa:
Vàng bạc châu báu, của cải tài sản thế gian là rắn độc, là ung nhọt truyền nhiễm, bệnh tật nan y, không trị được. Nếu ta gần gũi có ngày sẽ bị rắn độc cắn, sẽ bị vi trùng truyền nhiễm bệnh độc. Ta hãy xa lánh nó đừng cất giữ, đừng tích trữ mà hăy cao bay xa chạy, tránh nó như bệnh cùi.
Đó là một cái câu để chúng ta hướng, mà nó hợp với mình thì mình hãy lấy nó làm sự nhắc nhở tâm mình, sự trau dồi tâm mình hằng ngày.
Tóm lại, quý thầy siêng năng tu tập trau dồi tâm xả vô lượng này đến khi thấm nhuần thì quý thấy mới viễn ly được tiền bạc, châu báu, của cải vật chất thế gian. Tuy Thầy dạy như vậy nhưng rất khó, không phải buông xả dễ đâu, phải bền chí kiên nhẫn mà trau dồi tâm xả này. Ai là người tinh tấn siêng năng thì chẳng bao lâu sẽ xả sạch, xả tâm vô lượng. Đó thì ở đây quý thầy thấy rằng người mà siêng năng tinh tấn, tin tưởng ở pháp này thì bắt đầu chúng ta xả được. Và xả được thì chúng ta hoàn toàn khi mà tu cái câu này thì bắt đầu chúng ta phải tìm một cái nơi nào mà có thể chúng ta đi xin ăn được, xin ăn của mọi người được, do đó chúng ta sẽ bỏ hết, không cất giữ tiền bạc, không gì hết, ai cho gì mình ăn nấy. Hoàn toàn sống nhờ vào sự bố thí của người khác chớ không còn nghĩ rằng mình phải mua cái này sắm cái kia. Đau thì chỉ biết xin thuốc mà có thuốc tốt thì uống mà thuốc xấu thì thôi, chết là do nhân quả chứ không phải ai muốn chết mà được. Cho nên chúng ta chẳng nề sợ. Vì chúng ta còn sợ mình không có tiền rồi đau bệnh, ai cho tiền, cho thuốc mình uống đây? Cho nên do cái sự lừng chừng đó mà chúng ta xả chưa hết. Mà xả chưa hết một cái chuyện nhỏ thì làm sao chuyện lớn nó không còn dính? Nếu mà xả chưa hết chuyện nhỏ này, đến khi có danh có lợi nó lại dính mắc lớn chứ không dính mắc nhỏ nữa. Nhưng chúng ta có cái lý luận để che đậy sự dính mắc đó bằng cách này, bằng cách khác chứ đâu phải là thiếu lý luận.
Đó thì chúng ta phải hiểu như vậy, vì vậy mà khi hiểu được Phật pháp rồi thì chúng ta phải giữ gìn cái giới cất giữ tiền bạc. Từ ngày Thầy hiểu Phật pháp cho đến giờ tiền bạc ai cúng dường Thầy giao cho cô Út toàn bộ hoặc là giao những người cư sĩ họ làm gì thì làm Thầy chả biết. Đói Thầy xin cơm ăn. Quý thầy không có cơm ăn Thầy chỉ viết thơ Thầy xin, Thầy gọi Thầy xin chớ còn Thầy chẳng biết gì đến tiền bạc. Cô Út sắm mua cái này kia để giúp cho quý thầy áo y hoặc cái này kia, hoặc là dầu thuốc, điều đó là cô Út chi, làm gì thì làm Thầy chả biết. Có báo thì Thầy cũng ừ hử mà không báo thì Thầy cũng ừ hử, Thầy cũng chả có biết quan trọng nó còn mất một đồng, một xu, một cắc nào hết. Thầy chả biết. Có thì cứ xài mà không có thì đến cho Thầy hay Thầy xin, có vậy thôi. Đó là con đường mà từ khi Thầy nhập thất đến khi Thầy ra thất, đi đâu thì cô Út cho tiền Thầy, Thầy đi về còn dư bao nhiêu Thầy trả lại. Có nhiều khi Mật Hạnh đến xin tiền Thầy đi bệnh viện, Thầy nói để Thầy xin cô Út, Thầy đâu có. Cứ như vậy thôi. Nhiều khi quý thầy không hiểu nói rằng Thầy cất giữ tiền mà xin Thầy, Thầy cho ít quá. Thầy làm sao cho ít, Thầy xin người khác, người khác cho Thầy được bao nhiêu Thầy cho lại bấy nhiêu thôi. Nhưng mà quý thầy có vẻ không bằng lòng, coi như là Thầy quá bỏn xẻn. Bởi vì Thầy có cất giữ tiền bạc đâu, nhiều ít Thầy đâu có biết. Cho nên bây giờ thầy đó đau bệnh, Thầy xin cô hãy mua thuốc hay hoặc là cho tiền thầy đó đi bệnh viện thì cô Út cho bao nhiêu thì Thầy đưa bấy nhiêu. Thầy không đòi hỏi thêm bớt. Bởi vì người ta cho mà, cái quyền của người ta, người ta cất người ta cho chứ Thầy đâu có quyền gì trong tiền bạc. Cho nên nhiều khi ý quý thầy muốn xin 500 mà cô Út đưa 300 thì quý thầy buồn quý thầy nói Thầy cho ít. Thầy thực sự Thầy đâu có cho ít, Thầy chỉ xin được bao nhiêu Thầy cho bấy nhiêu. Đó là những cái thực trạng ở trong cuộc sống Thầy đã bị dằn vặt trên vấn đề tiền bạc này rất nhiều vì Thầy là người không có tiền bạc. Thầy nói hết để cho quý thầy hiểu rõ được cuộc sống của Thầy. Từ khi mà Thầy giữ gìn giới luật đúng theo con đường của đạo Phật Thầy không bị tiền bạc sai Thầy chút nào hết là vì Thầy không cất giữ nó. Đó là cái chỗ mà Thầy đã thực thi trong đời sống của Thầy.
Còn quý thầy, thực sự ra quý thầy có tiền bạc, quý thầy còn cất giữ cho nên quý thầy bị tiền bạc sai, sai cái này sai cái kia sai cái nọ. Bởi vì cái tâm thích của chúng ta còn có cái thích cho nên chúng ta chưa có diệt sạch nó đâu. Cho nên cái thích của chúng ta thì có tiền là nó sẽ sai chúng ta liền. Nó không có để chúng ta mà chịu đựng với nó đâu. Đó là những cái tu hành mà chúng ta còn bị nô lệ, còn bị sự sai khiến.
2.4.3 Xả tâm danh
Bây giờ đến vai trò để mà chúng ta biết xả vô lượng tâm danh chớ không phải có một cái danh, cái danh nó rất nhiều. Hồi nãy là mình xả cái tiền của bây giờ tới cái danh. Sắc rồi tiền của rồi danh, đó là 5 cái thứ dục lạc, bây giờ mình tới được phần thứ 3 là mình xả cái danh.
Danh là gì?Là tiếng khen, tiếng ca ngợi, tiếng tán thán, tiếng tốt đẹp, vinh quang, hiển hách, chứng ngộ, chứng đạo, được trao truyền quan chức, trao truyền tâm ấn, cấp bằng này, cấp bằng nọ, đại đức, thượng tọa, hòa thượng, sư bà, sư trưởng, giám đốc, phó giám đốc, viện trưởng, viện chủ, trưởng ban, phó ban, giáo chủ, pháp chủ, thiền đức, cao tăng, giới đức, thánh hiền, thần, thánh, tiên, Phật... đều là những danh từ chỉ cho danh.
Đó thì các thầy thấy rõ cái danh, nó làm cho chúng ta mê thích lắm. Ai mà không muốn làm trụ trì? Ai không muốn làm viện trưởng? Ai không muốn làm viện chủ? Người nào mà gán cho mình giáo chủ, viện chủ, rồi thiền chủ, pháp chủ rồi cao tăng, rồi giới đức… thích lắm. Coi như là bậc vĩ đại rồi, hơn thiên hạ rồi, ngồi trên thiên hạ rồi. Đó là cái danh mà. Cho nên thần, thánh, tiên người ta cũng ca ngợi vì vậy mà những cái danh đó làm cho con người thích lắm. Mà khi được cái danh như vậy thì người ta khoái vô cùng tận. Người ta thấy mình trên hết rồi. Do cái danh như vậy nên chúng sanh mê muội, bị cám dỗ, bị lôi cuốn, bị thu hút như đá nam châm. Khiến cho con người chạy theo danh quá nỗi mệt mỏi, cuồng loạn trong tâm của mình. Vì vậy có người thất vọng, tự tử, quyên sinh. Chạy theo cái danh mà không đạt được, cho nên có nhiều người thi cử rớt cái thì thôi thôi đi tìm cách tự tử cho rồi. Có phải ngu si không? Đi cầu cái danh giả hão như vậy mà để quyên sinh cái thân mạng này. Có người thì mệt mỏi thất bại danh lợi rồi vô chùa để mà tu, thiệt là điên khùng. Chạy theo danh giả đó là những sự cám dỗ của nó làm cho chúng ta quá u mờ không có thấy được cái đó.
Danh nhỏ là thầy thợ, nghĩa là mình làm người tôi tớ thì thấy nó xấu xa quá cho nên thấy là ông thầy nghe mình học, ráng học để làm ông thầy, thôi mình dở dở thôi làm ông thợ cũng ngon hơn là làm cái thằng đầy tớ. Cho nên đó là những cái danh nhỏ đó, nó cũng là cái danh. Danh lớn là ông này bà kia, danh nhỏ là thầy thợ, thầy ký, thầy thông, thầy này thầy kia nghe cũng thơm. Thầy giáo cô giáo thì nghe cũng khoái còn hơn người ta nói là con đầy tớ hay là thằng ở thì nghe nó nhục nhã quá. Phải không? Cho nên ở đây chúng ta đều là bị nhầm ở trong cái danh lôi cuốn chúng ta. Rồi từ đó cái danh nhỏ nó lần lần nó đi tới cái danh lớn. Để thành ông này bà kia rồi người cai quản cái này, người cai quản cái kia để coi như mình có chủ động điều khiển được một số người dưới bàn tay của mình. Như thí dụ như về quân đội thì có ông phó đội trưởng, rồi đội trưởng, rồi ông trung đội trưởng, ông phó đội trưởng rồi đại đội trưởng, rồi trung đội trưởng… đó thì các con thấy tất cả những cái đó là cái danh để cho thấy cái quyền hạn của người ta ở trong cái danh đó nó làm được những cái gì đó, cho nên người ta ham lắm. Từ cái ông tiểu đội phó mà lên cho được ông đại tá, mà được ông đại tá thì mặt họ nghênh nghênh ở trên trời, họ coi như ở dưới đất này không còn ai hết. Đó là cái danh, cái danh nó làm cho cái ngã họ lớn lên, điên khùng. Chớ họ cũng chỉ là một con người bằng xương bằng thịt, cũng đau cũng khổ, cũng buồn cũng khổ cũng nhức nhối như mình có khác gì đâu. Thế mà gán cho cái danh thì họ thấy họ là hơn hết. Cho nên khi mà gán cho cái danh rồi thì có nhiều người thấy họ khúm núm, khúm núm. Họ là cái gì mà phải khúm núm? Họ cũng như mình, có gì đâu mà phải sợ. Chỉ có cái danh không mà chúng ta đã quá sợ rồi.
Đó thì ở đây Thầy xác định để cho chúng ta thấy cái danh nó cám dỗ chúng ta rất mạnh như vậy, làm cho chúng ta phải sợ hãi như vậy. Từ những cái danh này mà người ta điên khùng, vào luồn ra cúi, nịnh bợ, ton hót để cầu cho được cái danh. Có nhiều người đi thi phải đem tiền bạc, lo lót tiền bạc để cho đậu. Đó không phải đem tiền để mua danh sao? Đó là những cái sai, cái không đúng mà người ta lầm chấp, vì cái danh nó cuốn họ quá. Họ muốn cho họ có cái tên tuổi như thế này thế khác. Cũng như bây giờ Thầy nói như thế này: có nhiều người không ai biết đến hết, bây giờ đùng ra cái tập trung một số người đi làm từ thiện kêu gọi đóng góp nhau. Để làm gì? Đó chẳng qua cũng là cầu danh từ thiện chứ chưa chắc là họ đã thương yêu người khác thật. Những việc làm đó người ta bỏ ra bố thí, người ta phải nhận giấy tờ này giấy tờ kia đầy ắp lên để làm gì? Để mai mốt khoe ra tôi bố thí chỗ này chỗ kia. Đó không phải là danh sao? Danh từ thiện, danh tôi biết thương người. Nhưng mà thật sự ra hở ra một chút thì mắng người không nhịn. Các thầy có xét thấy không, có nhiều người làm từ thiện họ có nhịn ai không? Họ chửi người ta tát nước hết. Vậy mà họ thương người à? Hơi hơi chạm đến họ một cái là coi như họ muốn giết mình à? Mà là họ từ thiện.
Bởi vì cái đời nó giả dối, nó đủ thứ giả dối ở trong đó hết. Đi đâu cũng có tiền hô hậu ủng, đầy đường chật xá để chứng tỏ có nhiều người hầu hạ theo mình. Một ông thầy tu mà đi rần rần rộ rộ, năm mười  chục chiếc xe để làm gì? Để tỏ cái danh của mình chứ gì, để có người hầu kẻ hạ chứ gì. Đi đâu cũng tổ chức Phật tử rần rần rộ rộ. Một bậc chơn tu mà đi như vậy à? Làm ra cái vẻ như là vua chúa, chứ đâu phải là người tu. Thầy nói ra thì đụng chạm hết cả đám nhưng phải nói, tu phải ra tu mà không tu thì không tu. Chứ đừng làm cái trò trống bệ vệ trong cái danh của mình, để khoe khoang cái giàu sang, cái tài ba của mình. Với cái sự tài ba của con người có nhằm nhò gì mà khoe khoang. Khoe tài sản của cải là khoe danh giàu sang.
Tóm lại, danh là một thứ dục lạc cám dỗ và nuôi lớn bản ngã con người.Tóm lại thì các thầy thấy bản ngã con người nó lớn theo cái danh của nó chớ không phải nó nhỏ đâu. Cho nên từ cái mặt mới làm một người đầy tớ hôm qua mà bữa nay lên làm quan rồi cái mặt cái thằng đầy tớ nó ngước lên. Cho nên Thầy nghe nói câu chuyện như thế này: Có một thằng đánh xe ngựa cho Yến Anh, Yến Anh làm thừa tướng cho vua Tề, ông ta chỉ là thằng đánh ngựa thôi mà ổng đi ra đường ổng đánh ngựa mà ổng hét la người ta tùm lum hết, ổng coi như ổng là Yến Anh vậy. Các thầy nghĩ như thế nào? Mượn cái oai danh của Yến Anh mà làm oai với thiên hạ, coi như mình là thằng ngon rồi. Đó là mượn, mà chưa phải là cái danh thật của mình mà còn làm như vậy. Bà vợ về nẹt ổng, sau đó ổng mới rút đầu ổng lại, thiệt ra thì cũng có bà vợ có trí chớ nếu mà không vợ chồng vênh váo nhau đó tưởng là thằng đánh xe là quan thừa tướng Yến Anh.
Đó thì hôm nay Thầy nhắc lại những câu chuyện người xưa, nó có điều đó là vì cái danh đó chứ đâu phải cái gì khác. Cho nên người tu hành mà biết xả tâm vô lượng danh này thì phải dùng pháp hướng Như lý tác ý. Đó thì các con phải nhắc nó để cho nó biết cái danh nó là thứ gì, để không khéo một chút là cái ngã của chúng ta bừng lên theo cái danh đó. Chúng ta phải đánh sập nó xuống, đánh nhẹp nó xuống, không có để cho nó ngóc đầu lên. Nó ham danh lắm, mỗi mỗi chút chút là nó ham danh. Bởi vậy cái ham danh đó mới có những anh hùng cá nhân, cho nên người ta không có làm việc lớn cho xã hội được. Từ lâu đến giờ vì anh hùng cá nhân đó mà tới bây giờ bao nhiêu thế kỷ con người vẫn chém giết nhau. Trên thế giới này, nước này yên thì nước kia chém giết, nước kia chiến tranh. Không bao giờ mà có một cái yên nào. Bởi vì anh hùng cá nhân này, nếu mà anh hùng tập thể thì không bao giờ có sự giết chóc này.
Đạo Phật thì không có anh hùng, cho nên ông Phật ổng đâu có nói rằng ổng là cái người ngon đâu. Trước ông có 7 đức Phật, sau ông còn có đức Phật Di Lặc. Cho nên một đạo Phật mà có nhiều giáo chủ như vậy tức là sự khiêm nhượng của con người, như vậy mới chính là đạo Phật.
Muốn xả tâm vô lượng danh ta phải dùng pháp hướng Như lý tác ý mà nhắc tâm:
Danh là một dục lạc ảo giác, nuôi lớn ngã mạn, khiến tâm ta thường đau khổ, hay tranh cãi, lý luận, giận hờn phiền não. Ta hãy xả bỏ, từ bỏ, viễn ly, chẳng mong cầu danh gì cả, chỉ biết tu hành thanh tịnh tâm để ra khỏi sanh tử mà thôi.
Đó chúng ta chỉ biết giải thoát mà thôi, không cầu ai gọi mình là Phật, là viện chủ, viện trưởng gì hết. Không có cần biết ai gọi mình là chơn tu hay không chơn tu nữa. Chỉ biết mình làm sao mình làm chủ được sanh tử, chấm dứt được luân hồi mình mà thôi. Đó là cái câu ám thị mình như vậy đó. Cái câu hướng tâm tác ý như lý như vậy để chúng ta xả cho sạch cái danh. Chớ cái danh nó ngầm lắm, nó ngầm ở trong tâm chúng ta, nó nuôi cái ngã chúng ta dữ lắm. Chúng ta chưa bộc lộ ra chứ khi chúng ta ngồi trên được một cái ghế danh rồi thì đủ biết nó như thế nào. Cho nên hiện giờ Thầy chưa ngồi trên cái ghế danh, cho nên Thầy đã sớm xa lìa nó để không nó lôi Thầy xuống á, nó nhận Thầy xuống cống. Rồi những lời Thầy đang nói ở đây thì ngược lại Thầy sẽ chửi Thầy chứ không ai xa lạ hết. Bởi vì Thầy không thực hiện đúng những lời Thầy nói ra cho quý thầy nghe thì ngày nào đó Thầy cũng là Viện trưởng thì người ta sẽ nhận Thầy xuống ở trong cái lỗ cống liền.
Câu hướng tâm thứ hai:
Danh là tên giặc hão huyền không có thật. Nó thường lôi cuốn tâm ta tỏ ra những hạnh xấu, hiu hiu, tự đắc, tự cao, tự đại, cao ngạo. Ta hãy xả xuống hết không còn một cái danh gì trong ta. Ta chỉ là một con người như bao con người khác.
Đó thì như vậy quý thầy lấy những câu ám thị của Thầy tự nhắc nhở mình, mình như mọi người khác, bình đẳng như mọi người khác, như những người nhỏ nhất, hạ tiện nhất, giai cấp nhỏ nhất ở trong thế gian này, mình cũng chỉ là những con người đó. Nhắc như vậy mà không biết chúng ta có thấm nhuần hay không, hàng ngày phải đặt niệm trước mặt mà hướng tâm, không khéo hở ra một chút thì bản ngã chúng ta đồ sộ lên, nó chạy theo cái danh đó.
Đó thì những câu hướng tâm như vậy nó thực tế và cụ thể giúp quý thầy diệt xả cái tâm danh của quý thầy mà nó đương đeo đẳng ở trong lòng của quý thầy. Người tu sĩ của đạo Phật chúng ta đã biết mặt 5 thứ dục lạc này, cái danh nó không phải là dễ, nó rất mạnh, hơn tất cả những cái khác. Ai không muốn danh của mình hơn mọi người? Ai không muốn mình hơn người? Những cái điều đó là cái danh chứ không phải cái gì khác hơn hết. Cho nên biết rõ như vậy thì hàng ngày phải siêng năng, đập cho mạnh những đối tượng danh này cho nó nhẹp, cho nó tiêu, cho nó đoạn tận, cho nó diệt trừ, nó không còn ngóc đầu lên được nữa, nó chết luôn. Thì như vậy chúng ta mới có cơ duyên, mới thành được một con người giải thoát hoàn toàn. Không còn bị cái danh nó sai chúng ta làm những điều nô lệ. Đó là cái danh.
2.4.4 Xả tâm tham ăn
Bây giờ đến phần Thầy dạy các con xả tâm vô lượng ăn. Cái ăn nó cũng vô lượng lắm bởi vì ăn món ăn này, ăn món ăn kia, ăn món ăn nọ đủ thứ hết. Nếu mà thèm một chút là chúng ta bị nó lôi cuốn đó. Bởi vì cái ăn mà, lúc ăn đường, lúc ăn bánh. Cho nên người ta làm đủ loại, lúc thì làm bánh mùi này, lúc làm bánh mùi kia, lúc thì làm nó ngọt, lúc thì làm lạt. Rồi thực phẩm ăn hàng ngày cũng vậy, cơm thì cơm chiên, cơm xào, cơm hầm, cơm nấu đủ loại. Nào là cơm nấu bằng nước dừa, cơm nấu bằng nước này nước kia để cho thay đổi những cái đó. Do đó chúng ta phải xả vô lượng cái thực phẩm ăn này. Cho nên nói là xả vô lượng tâm mà, mà xả vô lượng tâm này là xả vô lượng tâm ăn, cái tâm háo ăn này, cái tâm thích ăn ngon này, cái tâm thích đủ mọi loại này. Đó, đó là xả nó đi, nhưng mà xả không có nghĩa là để chúng ta ăn muối. Chúng ta xả nghĩa là để cho nó không lôi cuốn chúng ta, không để chúng ta đắm đuối nó. Thì như vậy chúng ta mới có điều kiện mà xả nó mới được.
Ăn là một dục lạc lớn trong ta. Nghĩa là thân ta có cái ăn nó mới sống đó. Nhưng nó lại là một cái dục lạc lớn. Ăn mà còn cầu ngon, cầu dở thì đó là dục lạc ăn đã lôi cuốn ta, nghĩa là mình thấy ngon thấy dở đó là mình đã bị dục lạc rồi. Ăn mà còn thấy bổ, thấy béo, thấy mập thì đó là bị dục lạc ăn cám dỗ chúng ta rồi. Chúng ta ăn vốn là để sống, để nuôi cái ghẻ đói chớ không phải để cho mập cho béo. Nghĩ là mình mập béo khỏe mạnh là mình không chết sao? Có người nào mập béo khỏe mạnh mà không chết? Cho nên ăn nghĩ cho nó bổ, cho nó mập, cho nó béo để mà cho nó sống trường thọ điều đó là điều hiểu lầm lạc, hiểu sai.
Phật nói cái thân này là vô thường, nó không thể nào kéo dài cái mạng sống nó quá số thời gian được. Mặc dù chúng ta ăn có đủ chất bổ nhưng nó cũng duy trì thêm một thời gian nào mà thôi.
Ăn mà thấy ớn, thấy ngán, nuốt không vô đó cũng là dục lạc ăn cám dỗ. Chớ không phải nói chúng ta thấy ngon là nó cám dỗ đâu, mà thấy ớn, ăn không vô cũng là bị cám dỗ rồi đó. Ăn mà thấy ưa thích là bị dục lạc ăn cám dỗ. Ăn mà không thích ngon, không thích dở, không ngán, không ớn, không chê là dục lạc ăn không cám dỗ. Chúng ta phải phân biệt. Chúng ta có đồ ăn ngon mà chúng ta không thích, chúng ta ăn dở mà chúng ta không ngán, chúng ta không ớn thì đó là dục lạc ăn không cám dỗ. Ăn để sống. Đó thì chúng ta phân biệt được câu này để chúng ta hiểu rằng khi chúng ta ngồi ăn mà ngon thì chúng ta thấy cũng như khi ăn món ăn dở, mà chúng ta thấy cũng không ngán, không ớn gì hết thì đó là cái ăn của chúng ta không bị dục lạc ăn cám dỗ.
Tóm lại, ăn là thứ dục lạc ghê gớm, thực phẩm tiếp xúc với vị giác của chúng ta gây sự cám dỗ lôi cuốn rất mạnh. Người thế gian phàm phu chưa học Thánh pháp và Tùy pháp nên đều bị ngã gục trong mặt trận cám dỗ ăn uống này. Nghĩa là người ở trong thế gian, mọi người nói chung là bị sự cám dỗ lôi cuốn, ngã gục trên mặt trận cám dỗ này chứ không còn người nào mà thoát ra khỏi hết. Chỉ có những bậc tu hành đúng giới luật của Phật mới thoát ra khỏi sự ăn uống. Chứ còn lơ mơ là người nào cũng bị dính hết. Cho nên các thầy thấy rất rõ lâu ngày không ăn đường không có gì hết thấy bắt đầu nó thèm rồi, thì lúc bấy giờ là lúc mình chiến thắng lại chất ngọt đó, không, thấy người ta mời một ly sữa hoặc một ly nước ngọt là thấy nó nghe run người rồi, thèm quá chảy nước miếng rồi, đó là cái ăn cám dỗ. Có nhiều người họ thích me chua, khi mà người ta nói đến me thì nước miếng họ chảy ra ròng ròng rồi. Đó là cái gì? Cái đó là cái cám dỗ của cái chất chua đó. Nó làm cho chúng ta chảy nước miếng ra, đó là nó làm cho chúng ta thích, nó cám dỗ chúng ta. Thì chúng ta biết cái ăn nó có sự lôi cuốn rất mạnh. Ngay khi nghe cái tiếng thôi chứ chưa thấy người ta nhai nữa. Chứ thấy người đó nhai miếng me mà chấp chấp đó chắc là nước miếng mình nó chảy lau hoài nó không hết nữa. Đó là nó kích thích, nó làm cho chúng ta thèm. Không đây Thầy nói sự thật mà, quý thầy đừng cười chớ. Nó là một sự thật, cho nên nó có sự cám dỗ rất mạnh, nó làm cho chúng ta khao khát, thèm muốn nó dữ lắm. Mà ngay trong cái thân của chúng ta nó là cái chất đó như vậy. Cho nên người tu sĩ đạo Phật chúng ta chiến thắng lại nó. Không thèm. Mà không thèm thì chúng ta phải làm sao? Chúng ta phải hướng tâm Như lý tác ý, ám thị nó. Cho nên người ta nhai me mà nước miếng mình không chảy là mình đã thành tựu rồi đó. Còn người ta nhai me mà mình ngồi đây mình nghe người ta nhai đó mình chảy nước miếng thì chưa đâu. Pháp của mình chưa viên mãn đâu, phải tập nữa, phải tu nữa. Một ly nước ngọt, một ly sữa, một cái bánh, một cái kẹo, một trái cây rất tầm thường mà quý vị không khéo giữ gìn là quý vị phạm lỗi phi thời. Bị cám dỗ mà không biết còn lý luận che đậy tội lỗi. Thậm chí một viên thuốc vitamin C chua chua ngọt ngọt và các loại thuốc khác có hình thức như kẹo để chống ho, chống viêm cổ mà đặt nó vào miệng để ngậm còn phạm tội phi thời thay huống là theo dục lạc đã bị cám dỗ bởi vị giác của quý vị.
Đó thì Thầy nói từ viên thuốc thôi, nó ngọt ngọt chua chua, nó làm kẹo the này kia nọ mà bỏ vào miệng mà phi thời thì ngay đó quý thầy đã bị phạm phải lỗi ăn phi thời. Thầy kết luận như vậy để cho quý thầy thấy rằng cái sự tu hành chúng ta phải chiến thắng tận cùng, không có để chúng ta chạy theo cái vị giác cám dỗ chúng ta khi tiếp xúc với thực phẩm. Và thực phẩm tức là ăn. Người tu sĩ phải cảnh giác đến mức độ đó như vậy mới thấy được sự giải thoát thân tâm mình. Nó lý luận là bây giờ chúng ta khô cổ này, chúng ta phải ngậm cho nó. Cũng như Thầy nói như thế này, quý thầy làm ly nước chanh đường để cho Thầy thông cổ, đó là cái lý luận để mà lấy lý này, chứ Thầy nói suốt ngày Thầy có uống ly nước chanh nào, nhưng mà Thầy có khô cổ đâu. Lý luận đó cứ lát nhấp chút, lát nhấp chút để nuôi dưỡng vị ngọt, vị chua cho khoái khẩu chớ đâu phải là cái gì khác hơn. Tức là nuôi lớn cái dục chứ không phải gì hết. Cho nên gọi là xả tâm vô lượng thì phải thấy được những cái vi tế của nó, thấy được sự che đậy vi tế của nó chạy theo dục thế gian mà không lường trước được những tai họa sau này thì tất cả những cái dục lớn đều là nó thể hiện ra hết. Từ một viên thuốc nhỏ mà không chận đứng, không chấm dứt thì chúng ta sẽ bị tất cả những vật cám dỗ khác nó sẽ lôi cuốn chúng ta hết.
Người tu sĩ cảnh giác như vậy, đề phòng như vậy, phòng hộ 6 căn của mình như vậy mà còn tu còn khó khăn thay, huống hồ những kẻ không phòng hộ thì thử hỏi như một người tu hành mà ra chợ nhiếp thiền định thì thiền định làm sao được. Người ta sinh ra, ăn để sống chứ không phải sống để ăn. Thế mà kẻ không hiểu pháp thánh hiền, không tùy pháp nên trở thành sống để ăn. Chúng ta là những người hiểu được pháp Thánh hiền thì chúng ta biết ăn là để nuôi cái bệnh đói chứ không phải ăn mà để ngon để ngọt nữa. Cho nên người phàm phu không biết pháp cho nên sống để ăn. Bây giờ chúng ta sống ăn cho đã đi, ăn cho đầy đi, ăn cho ngon đi, chạy theo dục lạc ăn cho đã đi. Nghĩa là chúng ta không còn biết cái gì hết, miễn món ăn nào ngon trên thế gian này là phải mua ăn cho được, thì những người đó là những người chạy theo dục lạc. Người tu sĩ Phật giáo phải làm chủ cái ăn, không được ăn phi thời. Ăn uống phi thời là phi phạm hạnh, là chạy theo dục lạc, chạy theo dục lạc ăn là ngạ quỷ, là coi như mình là loại ngạ quỷ, là quỷ sa tăng.
Phần đông tu sĩ Phật giáo hiện giờ từ Đông sang Tây, từ Nam sang Bắc, từ trên xuống dưới đều bị quỷ dục lạc ăn cám dỗ và lôi cuốn xuống địa ngục tất cả. Không khắc phục được ma dục lạc ăn thì làm gì tu tập chánh thiền, chánh định được? Tu tập sai một ly hào là cách xa đạo giải thoát một ngàn dặm. Đi tìm đạo giải thoát mà trói mình trong ăn uống thì giải thoát ở chỗ nào? Người ở thế gian bị dục lạc ăn trói buộc đã đành, người tu sĩ Phật giáo đạo giải thoát mà bị trói buộc thì có phải xấu hổ vô cùng, vô tận không đối với những người khác? Ăn mà không giải thoát thì giải thoát cái gì đây? Giải thoát được cái ăn là giải thoát được sự sống chết. Nghĩa là Thầy nói ở đây là sự thật. Một người mà nhập thiền định là người ta giải thoát được cái ăn, người ta không ăn mà người ta không chết. Đó là giải thoát được cái ăn chớ cái gì. Rồi người ta lại phục hồi cơ thể người ta sống lại người ta ăn. Thì như vậy là người ta đã làm chủ được sống chết. Còn mình không giải thoát được cái ăn thì làm sao gọi là mình làm chủ sống chết? Cho nên cụ thể rõ ràng, không thể nào mà chối cãi được chỗ cái lời này. Cho nên Thầy nhắc lại: giải thoát được cái ăn là giải thoát được sự sống chết. Cụ thể thứ nhất cho chúng ta thấy. Một người tu thiền định mà ngồi 7 ngày mà không ăn uống là giải thoát được 7 ngày sống chết. Người ngồi thiền định mà nhập được một tháng không ăn uống là người đó đã làm chủ sống chết được một tháng. Mà người nhập thiền định mà không ăn uống một năm là người đó làm chủ sống chết trong một năm. Cái đó nó quá rõ ràng à, còn nữa thì cứ lên nữa. Mà tới đó thì thôi không lên nữa được, thì tức là còn quay lại sống ăn uống thì tức là làm chủ thêm nữa chưa được, phải tu tập nữa. Tu tập chừng nào mà làm chủ ngồi đây một ngàn năm một triệu năm mà không ăn không chết đó là làm chủ được sống chết. Có như vậy cụ thể, nghĩa là bây giờ chúng ta làm chủ được sống chết trong một ngày là chúng ta không ăn một ngày mà chúng ta không chết thì đó là làm chủ được sống chết, mà 2 ngày, rồi 3 ngày, 7 ngày, 1 tháng, 2 tháng, điều đó chứng minh cụ thể không thể nào mà ai chối cãi được. Còn bây giờ tôi nói thiền định gì mà ngày nào cũng ba bữa thì chắc chắn là ông ta không làm chủ sống chết được đâu.
Đó thì quý thầy hiểu rõ được con đường thiền định của đạo Phật thực tế và cụ thể chứng minh qua chỗ ăn của quý vị. Và ăn là một thứ dục lạc rất nặng ở trong thân con người. Vì có thân phải có ăn. Cho nên ăn như thế nào để đúng cách là người tu sĩ, ăn như thế nào không đúng cách là người tu sĩ. Người ta tu nhưng cái ăn người ta chưa đúng cách của người tu sĩ thì tức là chưa phải con người tu giải thoát. Tại vì người tu sĩ nhập định không ăn uống mà sống đó là giải thoát cái chết, rồi phục hồi ăn uống trở lại đó là làm chủ cái sống. Đó thì người tu sĩ mà nhập thiền định thì người ta làm chủ được cái này rõ ràng, ở đây quý thầy cũng sẽ lần lượt chứng minh điều đó. Còn làm chủ bệnh, già ưu bi sầu khổ là chỗ nào? Là chỗ lìa 3 sự dục lạc cám dỗ ở trên kia: danh, sắc và lợi. Đó thì ở đây chỉ có lìa cái ăn là chúng ta làm chủ được sự sống chết, mà lìa được cái chỗ ưu bi sầu khổ, phiền não đau khổ giận hờn thì quý vị phải lìa 3 sự dục lạc ở trên, tức là danh, sắc và lợi. Nói cho rõ ra từ chỗ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, bà con quyến thuộc nhỏ, bà con quyến thuộc lớn. Từ bỏ danh thế gian nhỏ, quyền tước lớn, quyền tước nhỏ, vật chất lớn, vật chất nhỏ thế gian, chỉ sống tri túc thiểu dục một bát ba y mà thôi, đó là chỗ đức Phật dạy: “Sanh đã tận thì mới giải thoát được sanh già bệnh chết, ưu bi, là chấm dứt luân hồi tái sanh”.
Đó thì đức Phật cũng dạy chúng ta sanh đã tận, tức là chúng ta phải xả bỏ 3 thứ dục lạc kia đi, tức là danh sắc lợi đó. Chúng ta xả bỏ ba thứ đó đi, mà ba thứ đó là những sợi dây triền phược trói buộc chúng ta, cho nên chúng ta xả bỏ. Xả bỏ tức là sanh đã tận thì con đường giải thoát của chúng ta không còn luân hồi nữa. Chấm dứt rồi. Chúng ta thấy rất rõ ràng và cụ thể. Đứng ở trong góc độ của 5 thứ dục lạc này thì chúng ta đã phân được ra cái chỗ nào mà làm chủ tâm không còn tái sinh luân hồi. Mà chỗ nào làm chủ được thân sống chết, cụ thể rõ ràng. Tại sao vậy? Tại vì người tu sĩ nhập định không ăn uống mà sống đó là giải thoát cái chết rồi phục hồi ăn uống trở lại đó là làm chủ cái sống. Còn làm chủ bệnh già ưu bi sầu khổ là chỗ nào? Là phải lìa 3 sự dục lạc cám dỗ ở trên gọi là danh sắc lợi. Nói cho rõ ra, từ bỏ tài sản nhỏ, tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, bà con quyến thuộc lớn, từ bỏ danh thế nhỏ, quyền tước lớn. Từ bỏ tất cả vật chất thế gian, chỉ sống tri túc thiểu dục, một bát ba y mà thôi. Đó là chỗ đức Phật dạy. Sanh đã tận thì mới giải thoát được sanh già bệnh chết ưu bi sầu khổ, là chấm dứt luân hồi sanh tử.
Tóm lại, người tu sĩ đạo Phật bằng mọi cách, bằng mọi phương pháp để đạt được sự xa lìa 5 thứ dục lạc này là quý vị đã làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hồi khổ đau của kiếp con người. Đó thì hôm nay quý thầy thấy rất rõ ràng và cụ thể đạo Phật nhắm vào chỗ nào mà chúng ta đạt được mục đích làm chủ kiếp sống khổ đau của con người. Thì nhắm vào ở chỗ 5 cái dục lạc này mà chúng ta biết được, chúng ta dứt được, chúng ta bỏ được, chúng ta xả được. Vì vậy mà đến cái tâm xả vô lượng này Thầy đã giảng cho quý thầy cách thức tu tập, hành pháp rất rõ ràng cụ thể để chúng ta xả toàn diện nó. Thì như vậy là quý thầy đã được cái giải thoát rõ ràng chứ đâu cần gì phải nhiều. Nhưng tất cả những pháp sau để bổ túc cho cái pháp này, để chúng ta thực thi cho bằng được là xả những cái dục lạc này, chớ có gì khác hơn.
Nếu quý vị xả vô lượng tâm dục lạc này không hết thì dù ngàn đời quý vị có tu thiền định nào cũng là ma thiền, tà thiền. Nghĩa là cái tâm dục lạc của quý vị mà sống nhan nhản như vầy quý vị có tu thiền định gì mà cao siêu đi nữa thì đó là ma thiền, tà thiền. Bởi vì quý vị thấy rất rõ ở trên thế gian này chúng ta nghe báo chí đăng vị đạo sĩ này vị đạo sĩ kia trong những năm khổ công ở trên núi sống khổ hạnh không có cơm ăn, ăn toàn lá cây hoặc là luyện tập như thế nào đó để cho đến cái mức mà người ta chôn mình trong đất mà không chết, để đến mức mà người ta dìm mình trong nước mà không chết, để cho đến lúc mình đi trên lửa mà không nóng. Để cho đến lúc mà mình mặc một chiếc áo mỏng mà đi dưới trời rét dưới 37 độ mà không lạnh. Thế mà không khỏi sự cám dỗ của cái danh, cho nên đi biểu diễn từ nước này sang nước khác, đó là cái danh chứ gì? Hình ảnh và báo chí đã đăng những vị tu sĩ này họ tu tập khổ hạnh để giải thoát chứ đâu phải mục đích để đi ra cầu cái danh. Nhưng rồi cái danh đó để cho thiên hạ biết, nghĩ rằng còn có ai mà làm được đâu. Chỉ là người đó chịu khổ hạnh làm vậy chứ bao nhiêu người đã chịu khổ hạnh?
Còn Đạo Phật thực tế đem đời sống chúng ta giải thoát hoàn toàn, chúng ta biết sống biết chết, biết cái tâm chúng ta dính mắc chỗ nào khổ đau chỗ nào chúng ta gỡ ra được hết. Do vì vậy mới thấy nó là thực tế, cụ thể. Cho nên nó không cầu danh, nó không cầu lợi nó chỉ mong làm sao cho mọi người được giải thoát chính như bản thân của nó mà thôi. Đó là cái hay của đạo Phật, cái tốt của đạo Phật, cái thương yêu của đạo Phật đối với muôn loài không vì cá nhân mình.
Nếu quý vị xả vô lượng tâm dù quý vị có lý luận như thế nào mà chúng ta thấy quý vị dính mắc 5 thứ dục lạc này thì quý vị đã đi ngược lại Phật giáo, tức là không giải thoát. Không giải thoát mọi người ai cũng thấy dễ dàng, nhận ra rõ ràng. Nghĩa là khi mà mình đi ngược lại cái giáo lý, cái giới luật của Phật thì mình sống ở trong 5 thứ dục lạc này thì mình có lý luận như thế nào, mình có giảng giải pháp như thế nào thì người ta thấy cuộc sống của mình còn dính mắc trong 5 thứ dục lạc này thì người ta biết rằng mình chưa phải là giải thoát. Dù mình có thần thông biến hóa, ngồi trên hư không, ngồi xếp bằng trên hư không, bay như chim, lặn xuống nước, độn thổ hoặc là phóng lửa, hóa mây người ta cũng vẫn thấy mình còn sống trong 5 thứ dục lạc này thì người ta vẫn thấy mình là người chưa giải thoát. Dù mình có bùa chú thần linh, dù có kêu mưa hú gió thì người ta vẫn thấy mình còn dính mắc trong 5 thứ dục lạc này thì người ta vẫn cho mình là người chưa giải thoát.
Đời sống 3 y một bát là đời sống của đức Phật, là đời sống giải thoát. Đời sống chùa to tháp lớn, ăn uống phi thời, ngủ nghỉ phi thời, vật dụng đầy đủ, không thiếu món nào là đời sống thế gian pháp. Phàm phu tục tử đời sống bị 5 thứ dục lạc trói buộc rất chặt, đời sống phi giải thoát. Đó thì chúng ta thấy đời sống của người thế gian là đời sống phi giải thoát. Mà đời sống người tu sĩ mà ăn uống phi thời, vật dụng đầy đủ là đời sống đó không phải là đời sống xuất thế gian mà là đời sống thế gian pháp. Đời sống như vậy chứng tỏ người tu sĩ chưa giải thoát, rất cụ thể và rõ ràng, ai cũng có thể nhận ra được cái đời sống này. Đời sống đó là đời sống trong danh lợi, không phải đời sống của những bậc phạm hạnh Phật giáo. Đời sống đó là đời sống phi Phật giáo, đời sống đó khiến cho Phật giáo suy đồi, ngọn đèn Phật giáo tắt mất.
Nhìn đời sống tu sĩ Phật giáo quý vị sẽ biết đạo Phật hưng thịnh hay suy tàn. Đời sống tu sĩ 3 y một bát, không chùa to tháp lớn kiên cố là Phật giáo hưng thịnh. Đời sống tu sĩ Phật giáo mà còn sống(BBT:BN,12,E01:24:23)(BBT:CĐ,13A,E00:46:57) (BBT:CĐ,13B,B00:00:00)(BBT:BN,12,B01:24:24)trong ngũ dục lạc thế gian là đời sống Phật giáo suy đồi. Đó là những lời xác định và quyết định chắc chắn như vậy không còn ai chối cãi được nữa. Người tu sĩ Phật giáo mà không lấy 3 Thánh pháp này: Giới - Định - Tuệ của đức Phật làm thầy của mình, làm chỗ nương tựa vững chắc mà không giữ gìn tu hành nghiêm chặt, vi phạm lỗi lầm không biết xấu hổ và sợ hãi khi phạm phải một lỗi nhỏ là chánh pháp của đạo Phật đã suy đồi. Ngược lại người tu sĩ Phật giáo sống 3 y một bát, thiểu dục tri túc, lấy 3 thánh pháp Giới Định Tuệ làm khuôn vàng thước ngọc mẫu mực cho sự hành trì nghiêm túc của mình thì đó là lúc Phật giáo hưng thịnh. Nhìn qua đời sống ngũ dục lạc của tu sĩ là ta đã biết những người tu đó là tu trong chánh pháp hay tà pháp. Nhìn qua đời sống ngũ dục lạc của các vị tu sĩ đó là ta đã biết họ lấy đạo làm đời, lấy đạo kinh doanh đời, sống theo danh lợi bằng hình thức tôn giáo.
Đến đây quý vị đã hiểu ngũ dục lạc có sức cám dỗ và lôi cuốn rất mạnh, không có một sức nào cưỡng lại được nếu không phải là pháp môn của đức Phật - Giới Định Tuệ - thì toàn cả tu sĩ trên thế gian này đều bị ma ăn, ma danh, ma sắc dục, ma lợi, ma ngủ lôi xuống địa ngục tất cả.
Có những tu sĩ khổ hạnh trong ăn uống thế mà bị ma dục lạc danh. Nghĩa là sống khổ hạnh trong ăn uống, họ không để cho ăn uống cám dỗ họ nhưng mà ma danh cám dỗ họ nên thường diễn những trò kì đặc từ hình ảnh này đến hình ảnh kia cho quần chúng xem để ca ngợi khen tặng, đó là họ sống theo danh. Họ thắng được cái dục lạc này thì họ bị cái dục lạc khác lôi cuốn. Thật là buồn cười, tu dở chết dở sống thế mà mua một cái danh hão của thiên hạ. Nếu ai đã từng theo Thầy tu hành thì biết tu không phải dễ thế mà tu được lại đem ra mua danh như vậy thì quý vị nghĩ sao? Vị tu sĩ có thoát khỏi ngũ dục lạc không, mà không thoát khỏi ngũ dục lạc thì có giải thoát không? Nhập định toàn cả cơ thể không còn hoạt động gần giống như cái thây ma người chết, mời các nhà khoa học đến đem máy đo điện tâm đồ họ sẽ kinh ngạc đến bậc nào. Từ đó báo chí đăng khắp thế giới như vậy không phải là người đại ngũ dục lạc thế gian sao, như vậy có phải là giải thoát hay không? Người tu hành giải thoát là phải xa lìa năm thứ dục lạc, sống đời sống thiểu dục tri túc, không nhà không cửa, sống vô gia đình, không có của cải tài sản nhỏ, tài sản lớn. Nhìn đời sống như vậy chúng ta đã biết đó là những bậc chơn tu, giới đức, thiền đức, những bậc đã giải thoát ra khỏi vòng thế tục. Còn biểu diễn những trò kỳ đặc là mua danh, mua lợi có gì là giải thoát đâu. Làm trò giải trí cho thiên hạ chơi, thiên hạ xem.
Đến phần thực hành này ta phải “tâm chuyên nhất cảnh”. Đây cái phần xả cái ăn này nó còn quan trọng lắm chớ không phải là không quan trọng đâu. Cho nên ở đây Thầy nói đến cái phần thực hành này ta phải “tâm chuyên nhất cảnh”, nghĩa là chuyên nhất ở trong một cái pháp, tâm phải chuyên nhất ở trong đó, nếu quý vị sao nhãng một chút là quý vị chưa ly được nó đâu. Đó thì “tâm chuyên nhất cảnh” như thế nào? Lựa một chỗ an trú thanh vắng, ở đây Thầy nhắc lại, một khu rừng, một gốc cây, một ngọn núi, một hang hốc, một bãi tha ma, một sơn lâm giữa trời không mông quạnh, một đống rơm, một chòi lá giữa sông, sau khi ăn cơm xong nghỉ ngơi độ 2 giờ, ta ngồi kiết già lưng thẳng dùng pháp hướng Như lý tác ý. Đó bây giờ chúng ta mới dùng nó cái danh, cái lợi hay là cái ăn uống chúng ta đặt theo cái chỗ này mà Thầy cho pháp hướng. Đây là Thầy đặt cho cái tên nó là danh đi:
Danh là một thứ dục lạc vô hình thu hút và cám dỗ con người rất mạnh, nuôi lớn ngã mạn, cống cao(BBT:BN,12,E01:29:33)(BBT:CĐ,13B,00:05:22),(BBT:BN,13,B00:00:02) do đó sinh ra ngũ triền cái tham – sân – si - mạn - nghi. Triền cái này trói buộc chúng ta muôn đời muôn kiếp sống đau khổ. Vậy ta hãy lánh xa từ bỏ, từ khước, viễn ly tất cả các loại danh.
Đó là câu hướng tâm, câu trạch pháp này để chúng ta như cái lý này mà tác ý ra mãi mãi làm cho chúng ta xa lìa những cái danh, những cái lợi, những cái ăn.
Câu thứ 2:
Danh dục lạc có một ma lực vô hình lôi cuốn và cám dỗ con người vào chỗ sanh tử luân hồi, ta phải từ giã, từ khước, từ bỏ, lánh xa, viễn ly danh dù bất cứ mọi trường hợp nào.
Nghĩa là bất cứ trường hợp nào nhỏ, lớn chúng ta đều phải nhận diện ra nó để chúng ta xa lánh nó. Chớ nó nhiều khi nó qua trường hợp khác, nó làm cho chúng ta không thấy đó là cái danh nhưng mà chúng ta bị nó gạt, hở ra một chút là chúng ta bị gạt. Cho nên đức Phật dạy chúng ta khi có danh, có lợi, có sự cung kính hãy lánh mặt. Lời ông Phật dạy Thầy khắc ghi trong lòng Thầy, nhớ mãi muôn đời không bao giờ Thầy quên, Thầy biết đó là cái ma danh, nó rất mạnh.
Câu thứ 3:
Người tu sĩ lãnh đạo tăng đoàn mà đón danh lợi vào chùa là đón rắn độc. Rắn sẽ cắn chúng tăng chết hết. Vậy người lãnh đạo tăng đoàn phải xa lánh, từ bỏ, từ khước danh lợi để cứu lấy chúng tăng, để cứu lấy Phật giáo.
Đó là cái câu mà nhắc nhở cho những người lãnh đạo, những người tu như Thầy bây giờ. Đó là cái câu mà Thầy ám thị, ám thị cho Thầy đó. Cho nên câu này đã nhắc đi nhắc lại Thầy rất nhiều. Không khéo thì dẫn danh dẫn lợi vô đây cắn quý thầy chết hết, không có người nào sống đâu. Đó là những cái điều mà Thầy đã thấy xa chứ không phải thấy gần đâu. Không phải đợi mà nó cắn chết hết cả đám nhau rồi đó, ngồi đây mà bật ngửa ra đó. Thấy xa như vậy cho nên quý thầy không bị rắn cắn đâu.
Đây là xả tâm vô lượng danh, dục lạc thế gian. Quý thầy phải hằng ngày phải một lần hai lần, ba lần, bốn lần tu tập như lý tác ý trau dồi tâm mình. Phải xả cho sạch danh lớn, danh nhỏ. Vì danh là vô hình, vi tế rất khó xả. Nên quý thầy phải đề cao cảnh giác, siêng năng tu tập thì mới xả vô lượng tâm này được. Nó không phải dễ đâu, cho nên quý thầy phải cảnh giác, siêng năng, phải thường hằng. Nó móng một xíu quý thầy hổng thấy nó đâu. Chừng đó nó lộ tướng lộ hình thấy được thì ôi thôi nó đã cắn mình rồi.
Khi xả tâm vô lượng danh dục lạc này được thì thân tâm quý vị thênh thang, nhẹ nhàng, an lạc với đời sống ba y một bát giải thoát, hoàn toàn Niết bàn tại thế. Nghĩa là xả cái tâm danh rồi quý thầy mới thấy được nó. Còn tâm danh lợi này, quý vị dù ở núi cao khổ hạnh tối đa thì tâm hồn của quý vị nặng như treo đá. Bây giờ có trốn đi đâu, quý vị có ở đâu. Thôi Thầy nói đây như thầy Chơn Trí đây thì về ở trong núi cao trắc trở đó mà cái tâm của thầy không xả được nó thì thầy ở trong đó nó cũng như treo đá chứ không có gì đâu.
Quý thầy nên lưu ý năm thứ dục lạc lớn dễ xả. Năm thứ dục lạc nhỏ tuy rằng vật chất tầm thường, một cuốn kinh sách, một bài thơ, một bài kệ, một bài văn, một kiến thức Phật pháp, một kiến chấp, một chai dầu nhỏ, một cục xà bông, một cây kem, một bàn chải, một cây kim, một sợi chỉ đều là ngũ dục lạc nhỏ, khó xả lắm quý vị. Hãy đề cao cảnh giác, hết sức thận trọng. Xem thì rất thường mà xả thì rất khó. Đó, những cái lối mà hồi nãy ở trên thì thấy nó rõ ràng. Nhưng coi chừng những vật dụng xung quanh quý vị, coi chừng nó nhỏ nó không ra gì chứ nó trói buộc quý vị lắm đó. Đó, Thầy giảng như vậy thì quý thầy phải để ý từng chút từng chút nếu là một người tu sĩ phải xả cho thật sạch. Một vật nhỏ còn thì một vật lớn nó sẽ dính. Nó không tha quý vị đâu. Bởi vì nó là một cái sức cám dỗ của ngũ dục lạc. Năm cái thứ dục lạc rất mạnh, một vật nhỏ mà còn dính quý thầy là quý thầy bị tiêu nó đó. Chứ đừng nghĩ rằng tôi giải thoát đâu. Thấy mình chùa không to, tháp không lớn, ở chòi tranh vách lá, ở rừng ở núi ở hang nhưng mà còn hai cây kim là quý vị đã bị dính, còn một cuộn chỉ to là quý vị đã bị tiêu, còn hai cái y là quý vị đã bị tiêu. Chứ không phải tưởng là cái chuyện nhỏ đó nó tầm thường. Nhưng nó còn nuôi cái mầm của nó là chạy theo cái dục lạc đó.
Vì thế hôm nay Thầy ẩn bóng để xả vô lượng tâm này cho thật sạch như một người đã chết bỏ xuống hết. Bây giờ sanh đã tận, phạm hạnh mới xong, những việc làm Thầy đã làm hết, không còn trở lui đời sống này nữa. Đó thì bây giờ quý thầy mới hiểu được cái chỗ ẩn bóng của Thầy chứ gì. Đó là mục đích của Thầy xả sạch, đó là xả tâm vô lượng sạch đó. Xả vô lượng cho sạch mà, mà bây giờ mình còn như thế này là mình chưa xả, phải không? Các thầy thấy rõ Thầy bây giờ là chưa xả: chưa xả đồ chúng, chưa xả cái chùa mình nè, chưa có ba y một bát mà, thì như vậy chưa xả sạch. Nó còn vi tế, coi chừng cái vi tế này nó sẽ trở thành cái lớn của nó đó. Cho nên ở đây thấy rất rõ. Qua những cái bức thơ của thầy Thiện Thiền, thầy chưa nhận ra được cái ý chỉ của Thầy cho nên thầy nghĩ rằng phải lợi ích chúng sanh, phải làm Bồ Tát hạnh. Nhưng Bồ tát hạnh coi chừng xả vô lượng tâm chưa sạch.
Để kết luận buổi giảng hôm nay, thì chúng ta đã học tới đây thì nó cũng gần tới giờ ăn cơm, chúng ta phải xả nghỉ.
2.4.5 Xả tâm ngủ
Bây giờ chúng ta tiếp tục cái bài học, bây giờ chúng ta xả cái ngủ. Hồi nãy là mình xả năm cái thứ kia rồi, bây giờ mình xả tới cái ngủ là cái cuối cùng. Năm thứ dục lạc thì cái ngủ là cái cuối cùng. Bây giờ tới phần xả dục lạc ngủ.
Ngủ là một thứ dục lạc trong năm thứ dục lạc khiến cho con người thích thú ham mê ngủ. Ngủ là một trạng thái ngu si mê muội, ngủ là một trạng thái bần thần dã dợt, lười biếng. Cho nên những người lười biếng là những người ham ngủ.
Ngủ có nhiều cấp độ. Ở đây quý thầy thấy trong cái trang thái ngủ nó làm cho con người si mê lắm. Do đó mà đức Phật gọi là thùy miên hay vô ký. Đó là cái danh từ để chỉ cho cái người mà lười biếng, hay ngủ, cái người mà ngu si, cái người không có thông minh. Cho nên gọi là hôn trầm thùy miên. Thì cái ngủ chúng ta cũng phải biết nó cũng có nhiều cấp độ, không phải nó có một cái hôn trầm thùy miên không thì nó chưa đủ. Vì vậy ở đây Thầy muốn chỉ cho chúng ta thấy năm cái trạng thái mà nó đi vào ở trong cái gọi là ngu si.
Thì đó là:
- Thứ nhất: là nó hôn trầm,
- Thứ hai là thùy miên,
- Thứ ba là hôn tịch,
- Thứ tư là vô ký,
- Thứ năm là ngoan không.
Năm cái trạng thái này mà cái người mà tu thiền thì thường gặp lấy những trạng thái này. Cho nên cái người mà ngồi lâu luôn luôn lúc nào cũng bị rơi vào trong năm cái trạng thái này.
Và cái hôn trầm thì như thế nào?Hôn trầm là một cái người ngồi một lúc thì lại vô ký đi, quên mất đi rồi gục xuống một cái rồi mới ngước cái đầu lên. Thì cái trạng thái mà gục xuống như vậy đó gọi là hôn trầm.
Còn thùy miên là như thế nào?Thùy miên là cái người đó ngồi cúi cái đầu xuống hoặc quẹo cái cổ qua một bên, rồi bị quên mất đi, ngủ say ở trong giấc ngủ đi. Thì cái đó là thùy miên. Nghĩa là thùy là ngủ, miên là nó tiếp tục miên man, miên mật ở trong đó, ở trong cái giấc quên nó đi, ở trong cái không biết đó thì gọi là thùy miên.
Thứ ba là hôn tịch.Hôn tịch là một lúc thì mê, một lúc thì tỉnh tỉnh, mơ mơ màng màng đó. Những cái người mà ngủ mà không say mà cũng không gục đó, mà lúc thì tỉnh lúc thì mê. Cũng như quý thầy tu về hơi thở. Lúc thì biết hơi thở, lúc thì không biết hơi thở. Đó gọi là cái trạng thái hôn tịch. Nó cũng thuộc cái loại ngủ đó. Nhưng mà ngủ, vừa ngủ vừa mê vừa tỉnh thì cái đó gọi là hôn tịch.
Còn thứ tư thì thuộc loại vô ký.Vô ký là nó chợt nó quên đi. Thứ nhất là nó quên cái tâm cho nên lúc bây giờ vừa chợt quên thì nó mất cái tỉnh. Nó mất cái tỉnh thì cái niệm vọng tưởng nó xen vô liền. Cái đó gọi là vô ký. Nó quên rồi nó mới có cái niệm khác xen vô. Hoặc là nó quên, nếu mà cái thân nó quên đi thì nó có tiếng động hoặc cái gì đó nó giựt mình, hoặc là nó vừa quên vừa giựt mình. Thì đó, cái thân nó cũng vô ký đó. Đó là những cái nó vô ký, nó kéo dài thì cái vô ký nó trở thành một cái trạng thái gọi là ngoan không. Nó mới chợt mà vừa quên vừa quên đó thì đó là nó vô ký. Mà nó kéo dài một cái thời gian dài ra từ nửa tiếng hai ba tiếng mà không ngơ, nó không giống như ngủ, không giống như thùy miên mà nó không ngơ ở trong đó thì đó gọi là ngoan không.
Cho nên năm cái loại mà ngủ này thì nó gọi là cái ngu si. Cái người mà rơi vào trong cái trạng thái đó không còn có thông minh nữa, mà càng ngày nó đi tới cái ngu si. Nghĩa là cái người ngồi thiền nhập định vào cái ngoan không này thì lâu ngày họ phát ra cái trí tuệ của tưởng. Họ tưởng giải. Họ tưởng là đúng nhưng sự thật ra họ nêu những cái kiến giải, tưởng giải đó ra làm cho lầm lạc tất cả những lối đi, làm cho phá những cái giới luật, làm cho những khuôn phép của Phật mất đi để cho họ được tự tại ở trong cuộc sống, chạy theo cái ngũ dục lạc. Cho nên cái người rơi vào ngoan không này thường hay phát triển cái pháp tưởng. Vì thế mà người sau này dễ bị lầm lạc. Tưởng là cái pháp đó là đúng cho nên từ đó mà làm lệch đi con đường tu theo đạo Phật. Làm tất cả những người sau này mất lối không còn biết đường đi nữa. Đó là những cái mà người tu thiền sai rơi vào những cái ngoan không tạo thành những cái pháp tưởng. Vì vậy mà đời mất lối đi, mất cái đường tu giải thoát. Cho nên từ cái chỗ ngu si này nó đưa đi đến cái chỗ ngu si khác mà tưởng rằng mình đã có trí tuệ. Đó là cái sai rất lớn trong sự tu tập theo đạo giải thoát. Tất cả những loại ngủ này gọi chung là si thiền hay mê định.
Đó thì nói chung những cái loại này nó bắt đầu mà người mới vô tu mà không biết. Cho nên đức Phật dạy chúng ta vào bắt đầu tu thì tu cái Chánh niệm tỉnh thức làm cho cái sức tỉnh của chúng ta. Cho nên đi kinh hành nhiều để hành động trên cái hành động, trên thân quán nội thân trên cái hành tướng của nó để mà tu tập, để làm cho cái sức tỉnh. Vì vậy mà nó không rơi vào hôn trầm thùy miên, hôn tịch, vô ký, ngoan không. Còn nếu chúng ta không tu tập cái này mà vội vào khép chân ngồi kiết già, rồi đặt một cái hơi thở, hoặc một cái đề mục nào đó rồi chúng ta ngồi, mà ngồi quá lâu thì cái cơ thể nó bị mệt mỏi do đó nó thiếp dần đi ở trong những cái trạng thái ngủ, cái trạng thái si mê này nó tạo ra những cái cảnh giới, nó tạo ra những cái trí tuệ không đúng cách, làm cho lệch lạc cái sự tư duy, mất cái trí tuệ. Bởi vì nó ngu si, đó là si định nên nó làm cho chúng ta ngu si mà cứ ngỡ tưởng mình là trí tuệ. Từ đó mình dẫn mình đi trên con đường tu hành lạc nẻo mà không hay biết. Cho nên tất cả ngủ này đều gọi chung là si thiền, mê định. Kẻ tu tà thiền, định tưởng thường rơi vào trạng thái này. Nghĩa là cái người tu thiền thuộc tà thiền, định tưởng thì họ thường rơi vào trạng thái 5 cái loại ngủ này không có thể nào mà sai. Nghĩa là luôn luôn quý thầy cứ nghiệm qua cái sự tu tập của quý thầy từ lâu đến giờ mà quý thầy không được hướng dẫn tu ở trong Chánh niệm tỉnh thức rất kỹ lưỡng. bây giờ quý thầy ngồi lâu thì cũng rơi vào trong năm cái loại ngủ ngu si này, trong năm cái thứ mê muội này, chứ không có thoát khỏi cái nanh vuốt của năm loại ngu si này.
Có dịp nói về thiền Thầy sẽ giảng tất cả những cái loại si thiền này để cho quý thầy rõ hơn. Bây giờ Thầy dạy cách xả tâm vô lượng ngủ. Bởi vậy cho nên năm cái loại ngủ này nó biến ra vô lượng cái ngu si tức là vô lượng cái ngủ của chúng ta, si mê của chúng ta. Bây giờ Thầy sẽ dạy quý thầy áp dụng cách nào để mà hành pháp, để cho nó đạt được xả cái vô lượng tâm ngủ này chúng ta được tỉnh táo, được sáng suốt, được thông minh để lấy cái trí tuệ chúng ta dẫn lối cho chúng ta đi đến con đường giải thoát chân chánh.
Khi một người tu hành đã bị năm thứ si thiền này thì phải vận dụng hết sức để phá nó. Gặp nó rồi thì phải hết sức tận dụng phá nó chứ không có được theo nó. Mà hễ nghe mỏi mệt là lo đi ngủ thì không được. Hoặc là ngồi thiền mà nghe an lạc rồi thiếp dần ở trong đó, rơi vô cái trạng thái ngoan không cũng không phải là tốt lắm đâu. Phải phá nó đi cho được, phải tìm mọi cách không có được cho nó nhập vào tâm, vào thân của chúng ta.
Vì thế người cư sĩ mới trau dồi tâm mình thì ngay đây cũng phải trau dồi tâm xả vô lượng ngủ. Vì cái ngủ cũng có vô lượng hình thức và trạng thái ngủ khác nhau. Bây giờ Thầy kể ra một số trạng thái ngủ để cho quý thầy biết. Chứ nếu mà quý thầy cứ nói năm cái loại này rồi không biết nó xảy ra như thế nào để mà chúng ta thấy được năm cái trạng thái ngủ. Bởi vì ở đây Thầy nói nó có vô lượng cái ngủ chứ không có phải có một cái ngủ. Vì cái ngủ cũng có vô lượng hình thức và trạng thái ngủ khác nhau.
- Như đi xe tàu bị sóng như say say ngủ.Đó, quý thầy có đi tàu đi xe rồi quý thầy biết, nó gật gà gật gù, nó làm chúng ta mệt nhọc cơ thể chúng ta hoặc là bị say sóng say gió. Do đó nó làm chúng ta ngây ngây như ngủ mà không ngủ. Đó là cái những cái trạng thái nó làm cho chúng ta mê mà không tỉnh đó.
- Bị cảm gió, thân lừ đừ nóng lạnh.Đó, khi mà chúng ta bị cảm gió hoặc bị mưa thì thân của chúng ta nóng lạnh nó cũng làm chúng ta buồn ngủ. Tất cả những bệnh khác đều có trạng thái không tỉnh táo. Nghĩa là mọi cái bệnh tật nhiều khi nó làm cho cơ thể chúng ta uể oải khó chịu, do đó chúng ta lừ đừ. Đó là những cái trạng thái ngủ, cơ thể lờ đờ.
- Tu sai cũng buồn ngủ.Nghĩa là chúng ta tu sai nó cũng buồn ngủ nữa, nghĩa là không đúng nó cũng buồn ngủ nữa. Cũng như trong cái pháp sổ tức mà nó sổ tức đến một mức nào đó mà quý vị sổ tức quá mức của nó thì nó cũng sanh ra buồn ngủ cho quý vị nữa. Chứ không phải quý vị sổ tức là nó tỉnh đâu. Nó quá cái sức. Ví dụ bây giờ cái sức của chúng ta sổ tức đến một ngàn hơi thở đi mà chúng ta tăng lên chừng một ngàn rưỡi, hai ngàn hơi thở thì lúc bây giờ chúng ta sẽ bị buồn ngủ. Rồi chúng ta không biết tìm ở đâu mà cái buồn ngủ này ra, nhưng mà do vì chúng ta đếm quá sức nên cái sực tập trung ở trong cái số đếm mà từ một ngàn hai ngàn hơi thở như vậy thì nó làm cho quý vị bị buồn ngủ. Rồi từ cái buồn ngủ đó quý vị không còn nhớ đến nữa.
- Trụ tâm không đúng chỗ là buồn ngủ.Nếu mà trụ tâm không đúng chỗ nó sẽ sanh ra buồn ngủ. Nó phải đúng cái chỗ nó thì nó mới tỉnh, còn không đúng chỗ nó thì nó sẽ sanh ra buồn ngủ.
- Làm quá sức cũng buồn ngủ.
- Sống cô đơn một mình cũng buồn ngủ.
- Lười biếng cũng buồn ngủ.
- Rượu chè, bài bạc, trác táng cũng buồn ngủ.
- Trai gái dục lạc quá độ cũng làm buồn ngủ, v.v..
Đó là những cái có thể đưa đến chúng ta vô lượng cái buồn ngủ, cái ngủ.
Vậy muốn xả tâm vô lượng ngủ này phải làm sao? Thì bây giờ chúng ta phải hiểu được những cái trạng thái đó để mà chúng ta biết nó là cái trạng thái ngủ nó ở trạng thái nào để mà chúng ta đối trị nó cho nó hết. Cũng như bây giờ mình bị bệnh mà ngủ thì mình phải tìm thuốc thang mình uống cho hết bệnh. Đằng này mình lại bắt nó đi kinh hành, mà đi hết nổi nữa. Đi riết một hơi chắc là vô nằm đó ngủ luôn chớ không bao giờ tỉnh lại được nữa. Đó là cái sai, trị nó phải trị cho đúng cách, không có thể trị cái ngủ bằng cái phương pháp nào cả. Mà phải tùy theo cái trường hợp ngủ đó mà trị thì nó mới hết. Phải tùy theo những trạng thái cơ thể bệnh tật hoặc thuốc thang, hoặc nghỉ ngơi dài hạn, hoặc dứt bỏ những trò chơi trác táng, hoặc dứt bỏ không được làm quá sức lực cơ thể cũng như tinh thần.
Thì quý thầy thấy ở đây Thầy dạy rất là rõ ràng cụ thể. Phải xét buồn ngủ cái mệt nhọc nó ở trong cơ thể chúng ta ở chỗ nào để rồi từng đó tùy cái đó mà chúng ta trị bệnh buồn ngủ này. Thì nó sẽ tỉnh táo và thông minh sáng suốt. Chứ còn nếu mà cứ làm quá sức hoài vừa tinh thần vừa cơ thể của mình thì cái người đó lừ đừ buồn ngủ thì nói sao mà họ không thông minh. Họ thông minh nhưng họ làm quá sức thì làm sao mà họ còn thông minh nữa. Đầu óc tối ngày cứ suy tư hoài làm sao mà thông minh, ít ra họ cũng phải nghỉ ngơi. Như vậy, muốn cho chúng ta có thông minh thì đừng có làm quá sức. Đó là những cái để đối trị lại, để làm cho chúng ta càng ngày càng có trí tuệ, có ý thức rất là thông minh, chính xác trong công việc làm.
Ở đây người muốn xả tâm vô lượng ngủ này phải hết sức thận trọng trong việc trau dồi tâm này.Nghĩa là phải hết sức thận trọng, phải rõ ràng từng cái buồn ngủ để mà trau dồi cái tâm của chúng ta, chứ không phải là muốn trau dồi nó, đặt nó ở chỗ nào, sai nó thì không thể được.
1. Phải biết buồn ngủ trong thân mình là loại nào. Đó thứ nhất mình phải xét nó ở trong thân mình nó thuộc loại nào.
2. Tùy theo bệnh trạng buồn ngủ mà dùng thuốc thang trị bệnh.
3. Cương quyết, mạnh mẽ dứt bỏ những trò chơi không lành mạnh. Nghĩa là như uống rượu, chè hoặc là bài bạc thức thâu đêm, ca hát thâu đêm. Cái đó là phải kiên quyết dứt bỏ, để không khéo một đêm mà chơi vui vậy sáng ra ngủ gà ngủ gật suốt ngày mà không có thấy tỉnh thì tức là người đó rất là mê si.
4. Phải rèn luyện nghị lực, chiến thắng những trạng thái lười biếng. Nghĩa là luôn luôn lúc nào mình cũng phải tìm cách mà rèn luyện cái nghị lực của mình chiến thắng lại những trạng thái lười biếng vì trong trạng thái lười biếng nó cũng sanh ra buồn ngủ.
5. Lấy nước súc miệng, rửa mặt, hoặc tắm cho lạnh. Khi mà mình biết trạng thái lười biếng của mình thì làm cho nó lạnh, làm cho nó sợ thì nó mới hết. Cái thứ lười biếng thì lấy roi mà quất cho đau thì nó mới hết, cái thứ lười biếng lấy cây mà đập cho nó khổ thì nó mới hết, lấy muối mà xát ở trong những vết thương, lấy dao mà rạch, rồi lấy muối xát vô thì do đó nó hết buồn ngủ à. Đó là những trạng thái lười biếng mà làm như vậy thì nó sẽ hết.
6. Ngồi chỗ nguy hiểm cho tâm sợ hãi. Nghĩa là mình ngồi trên ngã ba nhánh cây hoặc ngồi trên tảng đá cheo leo làm cho nó tỉnh táo, nó không dám, nó sợ chết nên luôn luôn lúc nào cũng cảnh giác. Đó là những điều kiện như mình ở trên núi mà thấy buồn ngủ thì trèo lên cục đá nào cheo leo mình ngồi trên đó. Nếu mày ngủ thì cho mày rớt gãy cổ cho chết cho rồi. Vì vậy nó sẽ tỉnh táo nó không dám ngủ. Bởi vì phải tìm mọi cách để phá nó chớ nếu không thì chúng ta sẽ tìm cách chui trong thất hoặc là chui trong giường mà ngủ à.
7. Đọc kinh sách. Nếu mà mình thấy buồn ngủ thì mình lấy kinh sách mình đọc rồi mình suy tìm nghĩa lý trong đó thì một hơi nó tỉnh táo.
8. Ngồi quán xét, tìm xem cái ngủ ở đâu. Đây là Thầy nêu ra tất cả để cho quý thầy thấy biết được cách mà phá ngủ. Quán xét xem cái ngủ từ đâu mà nó đến, từ đâu mà nó làm cho tay chân bần thần lười biếng như thế này. Đó là các thầy dùng cái sức quán xét, đặt cái niệm trước mặt rồi ngồi đó mà quán xét cái ngủ, một lúc thì cái ngủ nó mất.
9. Xem sao trên trời, tìm lý do diễn biến của vũ trụ. Đó cái người mà thích thiên văn, cái tâm mà thích thiên văn thì lúc bấy giờ buồn ngủ thì mới đi ra nhìn trời, nhìn sao, tìm hiểu sự diễn biến thấy sao này xẹt qua, sao kia lặn mất điều đó làm cho người này thích thú nó quên ngủ.
10. Đem một số truyện hình ra xem. Cái người thích xem hình ảnh đánh nhau hoặc thế này thế khác thì chúng ta đem một số truyện hình ra chúng ta xem một hơi thì chúng ta hết buồn ngủ.
11. Đi kinh hành tu tập tỉnh thức. Cái thứ 11 này là cái điều kiện của người tu sĩ chúng ta đó. Chúng ta phải tập tỉnh thức, phải đi kinh hành, phải đi cho nhiều, đừng có lười biếng thì nó sẽ tỉnh thức được. Mà biết cách áp dụng pháp hướng để nhắc tâm chúng ta thì chúng ta sẽ tỉnh thức mà phá đi cái buồn ngủ.
12. Tu vô lậu, quán xét thân tâm, tìm vô thường, khổ, vô ngã và bệnh tật ở trong thân của chúng ta. Đó chúng ta dùng Định Vô Lậu, dùng Định Chánh niệm tỉnh thức chúng ta cũng có thể phá được cái buồn ngủ.
13. Đi kinh hành trau dồi lòng từ tâm của mình dưới bước chân đi, tránh giẫm đạp chúng sanh. Khi mà ban ngày cũng như khi ban đêm thì chúng ta lại hướng tâm chúng ta để nhắc tâm chúng ta tránh dẫm đạp chúng sanh. Còn một câu ám thị mà Thầy chưa nhắc là khi đi ban đêm con mắt chúng ta không nhìn thấy chúng sanh ở dưới chân, thì chúng ta không thể thế nào làm sao mà tránh được. Vì vậy mà chúng ta phải nhắc, bởi vì Phật đã nói đạo cảm ứng giao nan tư nghì. Tâm chúng ta có lòng thương thì cảm ứng được với chúng sanh cho nên chúng ta phải dùng câu hướng như thế này:
"Ban đêm tôi đi kinh hành, không thấy chúng sanh. Xin tất cả chúng sanh dưới chân tôi hãy tránh cho tôi đi".
Thì mình phải hướng câu nói đó để giao cảm với nhau mà khi bước chân mình vừa đến là tất cả chúng sanh đã rời khỏi. Đó là vừa phá buồn ngủ mà cũng vừa trau dồi tâm từ của chúng ta dưới bàn chân trong lúc đêm khuya thanh vắng, trong lúc tối mờ mà không thấy đường.
14. Dùng pháp hướng như lý tác ý:
"Cái ngủ này vốn không có trong thân tứ đại này, chỉ do ngu si, mê muội, lười biếng, thiếu tinh tấn nên mới thọ sanh. Thọ vốn vô thường, lúc có lúc không. Vậy thọ uẩn phải dừng trạng thái ngủ nghỉ mê muội này, không được tái diễn, phải chấm dứt ngay".
Đó là câu pháp hướng cuối cùng để chúng ta phá cái thọ mê ngủ này, phá cái thọ ngu si này. Thường xuyên khi mà chúng ta đặt niệm nó như vậy phải là ngồi kiết già lưng thẳng hẳn hòi, phải dùng câu này để hướng tâm ám thị một cách chắc chắn, đánh đuổi cái thọ ngu si này ra. Chỗ chữphải chấm dứt nói như truyền lệnh, phải càng mạnh càng tốt, làm cho tất cả sức tinh thần của chúng ta dồn tại đó mà đuổi những cơn lừ đừ say say của cơ thể. Nói như truyền lệnh là dùng tâm lực của tinh thần mạnh bạo làm cho cơn ngủ mau lui bước.
Đó thì quý thầy thấy Thầy chỉ dạy cho quý thầy những pháp rất cụ thể. Nếu quý thầy gằn nhừng nhiều lần ở cái chỗ phải chấm dứt cho nó mạnh bạo, từ cái cơn ở trong thân của quý vị dùng lực mà đẩy ra thì chừng hai ba câu như vậy là quý thầy đã tỉnh táo không còn buồn ngủ nữa.
Đó là hôm nay Thầy dạy cho quý thầy xả tâm vô lượng ngủ để cho biết cách mà xả cho tận gốc nó. Khi đối với bệnh buồn ngủ phải thông minh sáng suốt. Quý thầy phải sáng suốt thông minh chớ không thể nào thiếu sự thông minh mà đối trị nó được, nếu không thông minh sáng suốt thì buồn ngủ lại buồn ngủ nhiều hơn. Nghĩa là mình trị nó mà mình lại buồn ngủ hơn. Còn nếu thông minh sáng suốt thì mình trị đúng bệnh của nó thì nó mau hết. Nếu mà không thông minh sáng suốt thì vất vả hơn.
Cho nên quý thầy tu theo đạo Phật thì thứ nhất là siêng năng, bền chí, đi kinh hành nhiều. Đó là cách thức mà quý thầy theo đạo Phật như ông Phật ngày xưa luôn luôn đi kinh hành ở trong khu rừng của ông ta. Và chúng ta nên bắt chước gương hạnh của Phật mà luôn luôn nên đi kinh hành như vậy để phá đi những cái mê muội này làm cho tỉnh thức luôn luôn.
Luôn luôn phải trau dồi tâm phá ngủ dưới chân mình bằng pháp hướng tâm như lý tác ý: "Buồn ngủ, phải lui đi! Lười biếng, phải lui đi!".
Đó là những câu ám thị ngắn mà chúng ta vừa đi vừa nhắc nó khi biết tâm mình đang buồn ngủ, đang lừ đừ, đang không tỉnh táo, rồi tiếp tục chúng ta lại hướng tới nữa:"Cơn mơ mơ, say say, hãy lui đi! Thân tâm phải tỉnh táo". Chúng ta nhắc nhiều lần như vậy trong khi đi, như ra lệnh một lúc thì hết hôn trầm, thùy miên.
Đó thì quý thầy thấy mình có pháp để phá nhưng từ lâu tới giờ chưa có ai triển khai ra được cho nên mình không biết mà phá. Vì vậy mà cứ buồn ngủ phải chịu buồn ngủ thôi, không bao giờ hết được. Hôm nay giáo án này Thầy sẽ dạy hết tất cả những kinh nghiệm để cho quý thầy về tự mình về mà lấy pháp mà làm chỗ nương tựa vững chắc mà trau dồi thân tâm của mình để làm chủ sanh tử.
Để kết thúc Tứ vô lượng tâm, Thầy tóm lại để quý thầy nhận định cho rõ ràng cách hành trì pháp môn tu tập. Phải chính xác thì mới có hiệu quả. Nếu tu tập không kết quả ngay liền hiện tại là do quý thầy tu tập sai hoặc là dùng pháp hướng sai không đúng cách, không đúng chỗ nên không hiệu quả. Nghĩa là trên bước đường tu tập chúng ta có pháp hành, nhưng mà pháp hành dùng không đúng chỗ, không đúng bệnh thì cái pháp hành đó sẽ không có hiệu quả. Nếu quý vị biết hành đúng mọi trường hợp của nó thì pháp hành sẽ có hiệu quả ngay tức khắc làm cho tất cả những cơn hôn trầm buồn ngủ, thùy miên sẽ lui bước và tâm quý vị được thanh thản, được tỉnh táo, rất là tỉnh táo.
1. Các thầy nên lưu ý: Nếu pháp hướng của ý thức dùng thì pháp hướng phải cụ thể, có đối tượng. Đó quý vị muốn dùng cái ý thức của quý vị dùng thì pháp hướng đó phải có đối tượng trước mặt quý vị thì quý vị dùng nó mới đúng cách. Nếu pháp hướng là tưởng thức thì pháp hướng không cụ thể, phải trừu tượng.
Đây bây giờ Thầy nói như thế này: Người ta ngồi người ta quán cái thây ma, hay quán bộ xương trắng thì cái bộ xương trắng không thể nào là đối tượng trước mặt chúng ta được mà phải là tâm chúng ta tưởng ra. Do đó, đề mục đó nó thành ra một cái trừu tượng, nhưng chúng ta dùng pháp hướng mà nhắc cái tưởng đó thì nó mới đúng cách là chúng ta biết dùng pháp hướng đúng với tưởng. Còn bây giờ trước mặt chúng ta có hơi thở ra vô thì chúng ta hướng hơi thở đó, thì như vậy là ý thức chứ không phải tưởng thức. Quý thầy phải lưu ý cái phần này nếu không quý thầy dùng tưởng mà quý thầy tưởng là ý thức. Quý thầy dùng ý thức rồi quý thầy dùng đề mục tưởng trừu tượng thì 2 cái này sẽ không có hiệu quả và nó có hiệu quả thì nó sẽ chéo cẳng ngỗng, nó sẽ đưa quý thầy vào chỗ không có đúng cách, nó sẽ đi vào con đường thiền sai, không đúng.
2. Các thầy tu tập nội tâm phải an trú trong chánh niệm. Nghĩa là trong khi tu tập quý thầy phải giữ tâm mình ở trong chánh niệm. Khi bây giờ mình đặt một cái niệm để cho mình tu, trau dồi cái tâm từ của mình thì luôn luôn mình phải ở trong lòng thương yêu mà mình đặt cái niệm, chớ đừng có ở trong cái tâm mà dao động, nhớ cái này, nghĩ cái kia, ham cái nọ thì cái chánh niệm đó nó không phải là chánh niệm. Ở đây Thầy nhắc lại cho quý thầy nhớ khi làm một cái gì thì phải cho chính xác cái đó, cái tâm của mình phải biết cái niệm đó nó ở chỗ nào. Như trau dồi tâm từ thì phải ở cái lòng thương yêu như thế nào, tâm bi thì nó phải ở cái lòng thương yêu như thế nào để đặt cái đó gọi là cái chánh niệm. Cái chánh niệm là cái niệm chơn chánh ngay trong sự trau dồi đó chứ không phải là chánh niệm bằng cái niệm đúng. Mọi cái niệm đều có niệm đúng nhưng mà mình đặt không đúng chỗ mình trau dồi thì cái đó trật, không có đúng. Cũng như bây giờ mình đang ở cái chánh niệm của thân bất tịnh, thân vô thường mà mình trau dồi tâm từ thì đó là sai. Đó thì cái chánh niệm kia là chánh niệm ở trong cái chỗ khác chớ không phải là chánh niệm ở chỗ trau dồi tâm từ.
Muốn tu tập cho đúng cách thì quý thầy phải hiểu được cái này thì quý thầy mới thấy được cái chỗ vi diệu của Phật pháp. Tức là pháp hướng tâm Như lý tác ý không được xao nhãng. Nghĩa là lúc bấy giờ cái pháp hướng đó nhắc chỗ đó là tâm phải ở chánh niệm đó cho nên nó không xao nhãng được cái chỗ đó. Phải tỉnh thức cao độ. Phải cái sức tỉnh thức ở đó không được mờ mờ, mà phải tỉnh thức ngay cái niệm chỗ đó, cho nên không bao giờ thất niệm. Vì vậy Phật gọi người tu sĩ mà thất niệm là bị ma dẫn. Tức là bây giờ chúng ta có cái chánh niệm nào đi nữa mà không đúng ngay đối tượng đang trau dồi pháp đó thì cái đó chúng ta vẫn bị ma dẫn.
Nếu tỉnh thức cao độ chưa có thì quý vị phải tu Chánh niệm tỉnh giác định. Thấy sức tỉnh mình chưa có, cứ một lát nó lại nhớ cái niệm gì, cái niệm này cái niệm khác xen vô nó làm thất niệm thì phải tu Chánh niệm tỉnh giác định hoặc tu tập Vô lậu định. Nghĩa là quý vị biết rằng khi mà cái tỉnh thức của mình không có có cao độ là mình tu tập cái Chánh niệm tỉnh giác định ít hoặc là tu tập Định vô lậu ít,bây giờ phải tu tập hai cái định này nhiều thì quý vị mới có đủ sức tỉnh. Bởi vì mình biết được cái thân và tâm của mình, cái sức tỉnh thức của mình cao hay thấp mình vẫn biết mình hơn ai hết, và biết thì mình phải lo tu cái định gì để cho sức tỉnh thức đó cao hơn để rồi chúng ta sẽ trau dồi được cái thân tâm của chúng ta trong mọi pháp của Phật dạy.
3. Và khéo léo giữ tâm vững trú trong các thiện pháp. Nghĩa là luôn luôn lúc nào mà thực hiện pháp của Phật rồi thì giờ nào, phút nào chúng ta cũng phải giữ tâm mình vững trú ở trong các thiện pháp, các thiện pháp như chúng ta học thập thiện đó. Luôn lúc nào chúng ta cũng giữ nó trong các thiện pháp đó. Không cho ác pháp xâm chiếm tâm, và không cho các ác pháp đặt chân nơi tâm. Nghĩa là chúng ta luôn luôn cảnh giác đến cái mức độ nó xâm chiếm vô mà không cho nó đặt chân đứng vô trên tâm ta nữa. Đó là cái phần ba.
4. Từ tâm giải thoát phải được tu tập trau dồi thường xuyên, làm cho sung mãn, làm cho thành cỗ xe, làm cho thành cứ điểm, làm cho được kiên trì, làm cho được tích lũy, tích tập, khéo tinh cần siêng năng thực hành theo lời chỉ dạy pháp hành trì của Phật, của Thầy thì kết quả giải thoát an lạc đến cho quý thầy thì rõ ràng. Thì cái phần bốn quý thầy phải cố gắng kiên trì tập luyện đến cái pháp Tứ vô lượng tâm này. Như Thầy đã nhắc hồi nãy: từ tâm vô lượng giải thoát phải trau dồi thường xuyên, làm cho sung mãn. Nghĩa làm cho chúng ta được cái lòng thương thực sự, không phải là sơ sơ đâu. Nghĩa là hằng ngày phải trau dồi nó liên tục chứ không có học rồi mà tu sơ sơ thì nó chẳng có làm gì được hết. Nên phải làm cho nó sung mãn, làm cho nó thành cỗ xe. Nó thành một cái cỗ xe mà chở cái lòng thương của chúng ta trên đó mà rải cho tất cả chúng sanh đó. Làm thành cái cứ điểm chắc chắn, cái lòng thương chắc chắn là một cái cứ điểm không có ai mà xâm chiếm cái cứ điểm của chúng ta. Làm cho được kiên trì, làm cho cái lòng thương yêu đó nó vững bền nó không có bị thay đổi được, làm cho được tích tập, làm cho nó được nhiều lên càng tốt càng hay.
Ở đây thì tới cuối cùng thì chúng ta phải khéo tinh cần, tức là siêng năng tinh cần phải khéo léo thực hành theo lời chỉ dạy pháp hành trì này của Phật, của Thầy thì kết quả sẽ được giải thoát. Nội tu bao nhiêu đó thì quý thầy cũng thấy rằng quý thầy đã được giải thoát rồi chớ chưa nói gì tu nhiều nữa. Nhưng đây mới là khởi sự mà thôi. Để bổ túc cho tâm vô lượng giải thoát này quý thầy phải tu nhiều cái nó mới tích tập thành được thành cứ điểm, nó mới thành cỗ xe, nó mới làm cho sung mãn chớ không phải bây giờ mà chúng ta tập như vậy mà nó ngay liền được. Chúng ta còn phải học tập, tu tập nhiều cái khác nữa. Cho nên từ đó cái sức tỉnh táo, cái sức mà an lạc, cái sức mà giải thoát, cái sức xả bỏ chúng ta mới đoạn dứt tất cả những cái khác thì nó mới thành tựu cái tứ tâm vô lượng này.
5. Bi tâm vô lượng giải thoát cũng tu tập như vậy. Nghĩa là hồi nãy mình từ tâm mình cũng tu cho nó thành cỗ xe thì bi tâm cũng tu cũng thành cỗ xe cho nó sung mãn. Nó cũng thành cái cứ điểm.Rồi hỷ tâm vô lượng chúng ta cũng tu như vậy, cũng làm cho nó thành cỗ xe, thành cứ điểm cho nó kiên trì, cho nó sung mãn. Tất cả những cái đó ta phải tập, phải làm.
6. Xả tâm vô lượng giải thoát cũng tu theo đúng như lời Thầy dạy, cũng làm cho nó thành cỗ xe, thành cứ điểm, cho nó sung mãn, nó tích tập cho nó sâu. Vì vậy mà nó mới xả được tất cả các pháp trên thế gian này.
Cứ y chỉ theo lời dạy của Thầy, đặt trọn hết niềm tin ở Giới, Định, Tuệ. Tức là cứ y chỉ theo lời dạy của Thầy thì quý thầy đặt trọn niềm tin ở ba pháp Giới, Định, Tuệ của đức Phật và tất cả các pháp môn của Phật mà hôm nay Thầy đã triển khai thành một con đường có lý pháp, có hành pháp rất rõ ràng và cụ thể. Vén sạch những màn mây kiến thức tưởng giải của thế nhân đang phủ trùm trên ba Thánh pháp của đạo Phật (Giới - Định - Tuệ) khiến cho ba pháp này không còn ai thực hiện được, gần như chỉ còn là một danh từ suông. Còn toàn bộ tu sĩ Phật giáo thì sống ngược lại và không thực hành đúng pháp này. Đó thì hầu như là quý thầy cũng nhận thấy rất rõ là người ta đi ngược lại với cái pháp Giới - Định - Tuệ của Phật. Còn bây giờ Thầy vén ra để chúng ta thực hiện được từ Giới - Định - Tuệ. Để cho nó rõ ràng cái sự giải thoát mà đức Phật vì lòng từ bi mà Ngài đã đem dạy lại cho chúng ta. Cho đến bây giờ chúng ta bị bỏ quên những cái pháp rất là cao quý này.
7. Nếu ai sống đúng và hành đúng lời dạy của Thầy thì kết quả lòng thương yêu rộng lớn của quý vị phải trùm cả không gian và thời gian. Chừng đó thế gian này là thiên đàng, quý thầy là những du tăng khất sĩ, rày đây mai đó, đời sống ba y một bát không có chùa to, tháp lớn. Quý thầy đã phủi sạch những sợi dây ràng buộc vật chất thế gian. Đời sống của quý thầy rộng bước thênh thang, tâm hồn của quý thầy thương yêu chúng sanh như không gian phủ trùm vạn hữu. Bây giờ quý thầy không phải Phật, không phải Tổ, không phải Alahán, không phải Bồ tát mà là một con người như bao nhiêu con người khác, nhưng tâm hồn của quý thầy đã hòa cuộc sống của quý thầy với các cuộc sống của nhân thế bên nhau mãi mãi, không xa lìa chúng sanh một bước. Quý thầy là con người đã giải thoát với lòng thương vô tận.
Đó là kết thúc bài học về Tứ vô lượng tâm. Để cho quý thầy thấy rằng cái pháp Tứ vô lượng tâm tuyệt vời như vậy. Làm cho tâm hồn chúng ta rộng lớn bao la với muôn loài muôn vật. Ở đây Thầy xin đọc lại một cái chuyện của một vị cao tăng ở trong thời đức Phật mà đã thực hiện Tứ vô lượng tâm mà đức Phật đã ca ngợi rằng, đã ca ngợi Ngài (BBT:BN,13,E00:42:42)(BBT:CĐ,13B,E00:46:04) là một người đệ nhất hạnh về từ bi vô lượng. Đây, cái người đó như thế nào, là ai, tên gì (BBT:CĐ,14A,B00:00:00)(BBT:BN,13,B00:42:52thì Thầy sẽ thuật lại cho quý thầy nghe để kết thúc cái bài pháp này.
Để kết thúc bài pháp Tứ vô lượng tâm Thầy thuật lại cho quý thầy nghe câu chuyện Thánh tăng thời đức Phật tu tập thiền quán hướng niệm trau dồi Bốn tâm vô lượng để trở thành vị tỳ kheo đệ nhất về hạnh từ bi vô lượng. Ngài Siriti, Ngài là em trai của ông Cấp Cô Độc. Trong ngày ông Cấp Cô Độc cúng dường Kỳ Viên tịnh xá cho đức Phật, ông có chứng kiến và nghe pháp. Sau đó ông xin Phật xuất gia và thọ đại giới. Ngài thông hiểu hai loại giới luật, được đức Phật cho một để tài thiền quán hướng tâm tu tập, trau dồi thân tâm bằng pháp môn Tứ vô lượng tâm. Từ đó ngài trở thành một người đệ tử của Phật có từ tâm đệ nhất. Quý thầy nghe bài kệ của Ngài. Thầy đọc bài kệ khi ngài chứng đạt được Tứ vô lượng tâm:
Từ tâm ta trau dồi
Phủ trùm khắp muôn phương
Bi tâm ta trau dồi
Thương khắp hết quần sanh
Hỷ tâm ta trau dồi
Vui hòa cùng vạn pháp
Xả tâm ta trau dồi
Vạn vật đều chung vui
Tâm ta khéo định tĩnh
Tinh cần sống giải thoát
Nghĩa là ông chỉ có tu nhiêu đó đã giải thoát, đã chứng được Tam minh ngay tức khắc. Cái tâm mà thương yêu chúng sanh nó thanh tịnh tới mức độ đó. Ông truyền lệnh một cái, bởi vì trong khi tu tập trau dồi này ông thường dùng pháp hướng. Phật nói Như lý tác ý mà, cho nên lúc đó ông chỉ cần truyền lệnh bảo các hành trong thân ngưng, hơi thở ngưng thì tức nó ngưng liền là ông nhập Tứ thiền. Từ ở Tứ thiền ông hướng tâm nhắc tâm phải hướng về quá khứ thì Lậu tận minh, Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, nó phải hiện ra tức khắc không phải mà ngồi nhiếp tâm, ức chế tâm như chúng ta dùng hơi thở đâu.
Người ta tu có bây nhiêu đó người ta cũng đủ rồi. Vậy nên khi ông nghiên cứu về hai loại giới luật của Phật đã thấy tâm từ của ông tới mức độ nào. Bởi vì đức Phật dạy thiện pháp, mà thiện pháp tức là có tâm từ rồi, từ bi hỷ xả trong này rồi, cho nên do ông áp dụng vào bài pháp này mà ông thành tựu được đạo giải thoát nên ông là đệ nhứt từ bi vô lượng. Ông được đức Phật xem như hàng đệ tử có tâm từ bi rộng lớn nhất trong hàng đệ tử, đệ nhất đệ tử của đức Phật.
Thì hôm nay Thầy đem mẩu chuyện, để lấy mẩu chuyện này làm cái gương để chúng ta noi theo. Trong khi Thầy tham cứu về phần lịch sử của các bậc Thánh tăng, Thầy đã thấy được những điều kiện thật là tuyệt. Bởi vì muốn mà mình nương theo các bậc Thánh tăng trong thời đức Phật, thì thời mình đâu có Thánh tăng mà Phật bảo mình phải quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Mình phải theo những vị tăng, những vị tăng trong thời đức Phật mới gọi là Thánh tăng. Do những hàng mà tu như vậy chúng ta hãy nghiên cứu qua cái hành trình, qua hành trạng của các Ngài. Qua đó mà chúng ta mới tu tập cho chính mình. Chứ bây giờ mình nương quý thầy của mình thì phạm giới, phá giới hết rồi, mình nương sao cho được. Và hành động của quý thầy thì sống trong vật chất thì mình nương sao được mà giải thoát. Còn các vị Thánh tăng ngày xưa người ta sống trong rừng, ba y một bát, đi xin ăn vất vả. Rồi đây quí thầy sẽ thấy có nhiều vị người ta già cả mà người ta còn đi xin ăn, rồi người ta mệt nhọc, người ta nương gậy trèo lên núi hoặc thế này thế khác. Đọc tới những cái nỗi già yếu của những vị mà theo đức Phật tu hành phải đi xin ăn chứ không phải ngồi ở nhà mà người ta đem cơm tới cho ăn được. Mà phải đi xin ăn hằng ngày. Và đồng thời những cái xin ăn hằng ngày mới ngộ được và tu tập rèn luyện mình để cho được giải thoát.
Thì đó là những công trình rất lớn trong những Thánh tăng trong thời đức Phật mà chúng ta không được học, không được nêu lên để làm gương hạnh tốt cho chúng ta noi theo mà chúng ta thực hiện trong đời sống của chúng ta.
Hôm nay, đây là lần đầu tiên Thầy dạy cho quý thầy về hành trạng của bậc Thánh tăng. Rồi lần lượt trong bài giảng của giáo án này Thầy sẽ cho nhiều gương hạnh Thánh tăng để cho các thầy lấy đó làm gương soi cho mình, để trên bước đường tu tập đến khi giải thoát.
Hồi nãy kết thúc bài Tứ vô lượng tâm thì Thầy thuật lại một mẩu chuyện của một vị cao tăng trong thời đức Phật và Ngài có để lại cho chúng ta một bài kệ, nhưng đó là bài kệ của Ngài. Còn kết thúc bài giảng Tứ vô lượng tâm thì Thầy cũng có một bài kệ để nhắc nhở quý thầy tu tập. Bài kệ của Thầy như thế này:
Trau dồi từ tâm tốt
Lòng thương hòa vạn hữu
Trau dồi bi tâm tốt
Vạn hữu hết điêu linh
Trau dồi tâm hỷ tốt
Lòng vui khắp muôn loài
Trau dồi tâm xả tốt
Vạn vật sống an lành
Đó là những câu kệ của Thầy, Thầy nói lên tâm trạng của Thầy như vậy. Thầy mong rằng quý thầy áp dụng câu kệ này mà nhắc tâm cho mình để cho hằng ngày mình trau dồi bốn tâm vô lượng này để sống được với vạn hữu, với sanh linh bằng cái cuộc sống chan hòa và an lạc. Đó là cái điều ước ao, ước mơ của Thầy để mong mọi người sống được với bốn cái tâm vô lượng này. Đó là kết thúc bài Tứ vô lượng tâm mà Thầy đã dạy, giảng giải cho quý thầy hiểu cái lý và cái hành pháp của nó. Thì quý thầy đã biết cái hành và biết rõ được cái lý của nó như thế nào là xong cái bài Tứ vô lượng tâm.(BBT:BN,13,00:49:35)(BBT:CĐ,14A,E00:06:23)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét