18/1/15

GIÁO ÁN TU TẬP CỦA NGƯỜI CỬ SĨ BĂNG SỐ 03

BĂNG SỐ 03

(BBT:BN,02,B00:54:49)
Bắt đầu bây giờ quý thầy niệm hồng danh đức Phật
Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
(BBT:CĐ,03A,B00:01:05)Hôm nay chúng ta tiếp tục học giáo án của đức Phật, giai đoạn 1 mà Thầy đã giảng cho người cư sĩ, họ bắt đầu là họ thay đổi 6 nghề nghiệp họ không có làm, nhưng rồi họ sẽ tu cái gì đây? Nếu mà chúng ta bắt qua cái giai đoạn hai, là giai đoạn của những bậc xuất gia, cắt ái ly gia? Vì vậy mà người cư sĩ họ chỉ biết thay đổi nghề nghiệp thôi sao, cho nên hôm nay Thầy phải giảng đủ để biết được vị trí tu tập của người cư sĩ ở chỗ nào. Thay đổi nghề nghiệp đó là một điều chánh nghiệp để đưa họ làm những điều thiện, còn sự tu tập để cho đời sống của họ được sự an vui, được hạnh phúc ở trong gia đình cũng như đối với mọi người xung quanh, đem lại an vui cho nhau. Thì như vậy, những bài pháp của Phật có dạy cho người cư sĩ tu rất là rõ ràng chứ không phải dạy riêng cho những người tu sĩ xuất gia mà không có pháp cho người cư sĩ tu. Từ giới luật của các vị xuất gia cho đến giới luật của người cư sĩ tại gia đức Phật dạy rõ ràng chứ không phải không có. Nếu giai đoạn 1 mà chúng ta chỉ lướt qua có thay đổi 6 nghề nghiệp mà không dạy cách thức tu thì sợ e chúng ta sẽ có sự thiếu khuyết.
Cho nên bắt đầu bây giờ chúng ta trở lại giai đoạn thứ nhất để dạy cho người cư sĩ tu tập. Như vậy là chúng ta đi từng bước một, từ người cư sĩ cho đến người tu sĩ phải tu như thế nào cho đúng cách, nếu không khéo thì người cư sĩ họ cũng không biết pháp của họ tu cho nên họ tu lầm lạc sang pháp của người xuất gia. Rồi người tu sĩ lại cũng không hiểu pháp nào là của mình tu, do đó lại tu nhầm lẫn qua pháp của người cư sĩ.
Cho nên ở đây Phật dạy có sự phân biệt rất rõ ràng, nhưng dù sao chúng ta cũng phải hiểu rằng từ chiếc áo của cư sĩ nó sẽ trở thành chiếc áo của tu sĩ, vì vậy mà các pháp của cư sĩ đã tu tập hoặc sẽ tu tập thì người tu sĩ chúng ta phải tu tập, tu tập hết không có pháp nào của Phật dạy tu tập mà không tu. Vì chúng ta cũng từ chiếc áo của người cư sĩ để bước vào người tu sĩ chớ không phải chúng ta là người tu sĩ ở trên trời rớt xuống làm người liền được. Cho nên từ đó các pháp từ thấp đến cao, từ dễ đến khó nó rất rõ ràng và cụ thể. 
Vì vậy mà bài pháp, giáo án hôm nay để giúp cho mọi người bắt đầu chúng ta tu từ chiếc áo cư sĩ chúng ta tu những pháp nào. Rồi đến giai đoạn của người tu sĩ thì chúng ta tiến tới những pháp nào sâu hơn, cao hơn. Để không khéo người cư sĩ họ không hiểu họ lại tu những pháp cao hơn, sâu hơn ví dụ như Bốn thiền. Thì không thể nào người cư sĩ thực hiện được pháp như Tứ thiền, tại sao vậy? Vì Phật nói tịnh chỉ các hành, mà Tứ thiền của Phật nhằm tịnh chỉ các hành ở trong nội thân của chúng ta. Mà cái người cư sĩ thì tâm, thân của họ nó chưa có được thanh tịnh. Vì có sự thanh tịnh Phật mới nói là tịnh, tịnh nó mới chỉ chứ không phải định chỉ. Tịnh là thanh tịnh, mà thanh tịnh ở đây chúng ta biết rằng cái pháp mà của người cư sĩ được tu nó mới làm cho tâm của họ thanh tịnh. Từ chỗ thanh tịnh đó họ mới ly trần, mới cắt ái ly gia, họ mới trở thành người tu sĩ, từ đó họ mới thực hiện được Bốn Thánh Định tức là từ Sơ thiền tới Tứ thiền. Chớ không phải Bốn thánh định này tu tập dễ dàng đâu, khi nào tâm chúng ta thanh tịnh, ngũ triền cái chúng ta đã đoạn dứt chúng ta mới thực hiện được Tứ thánh định.
Do vì vậy mà hiện giờ nghe nói đến tu thì người ta chuyên môn là ngồi thiền chứ người ta không biết là thứ thiền nào của người cư sĩ tu, thứ thiền nào của người tu sĩ tu. Phân biệt được rõ như vậy thì chúng ta mới thấy được giáo án của Phật đi từ thấp đến cao, từ dễ đến khó. 
Trên giai đoạn tu tập thứ 2 này quý vị cần phải tư duy nhiều hơn để thấy rõ đời sống…
Thầy xin nhắc lại giai đoạn tu tập thứ nhất của đạo Phật, người mới bắt đầu đến với đạo phải không hành 6 nghề và còn phải tu tập những gì?
Phật dạy có bốn điều người cư sĩ tại gia phải rõ:
1. Thông hiểu những gì phải thông hiểu
Nghĩa là người cư sĩ khi đến với đạo Phật trước tiên họ cần phải tìm hiểu những gì cần hiểu của đạo Phật, mà tìm hiểu đúng pháp họ đang tu của người cư sĩ, chứ nếu mà họ tìm hiểu pháp xuất gia của người tu sĩ thì họ tu nhầm ở trên đó họ tu chẳng có thành công, chẳng có kết quả gì hết. Cho nên ở đây Phật dạy thông hiểu những gì phải thông hiểu. Những gì mà đáng thông hiểu của họ chứ không thông hiểu hết được. Mà phải thông hiểu ở góc độ, những pháp môn của người cư sĩ chứ không phải thông hiểu pháp môn của người tu sĩ, chẳng hạn như bây giờ 250 giới của tỳ kheo thì người cư sĩ không nên thông hiểu 250 giới đó mà nên thông hiểu 5 giới của chính mình, đó là thông hiểu những gì phải thông hiểu. 
2. Trau dồi những gì phải trau dồi
Nghĩa là người cư sĩ khi đến với đạo Phật cái thứ nhất là phải thông hiểu những gì ở mức độ, vai trò của mình cần thông hiểu. Còn đến giai đoạn trau dồi thì những gì mình phải trau dồi thân tâm của mình như thế nào. Có những pháp để trau dồi, có những pháp phải thông hiểu, có những pháp phải trau dồi.
3. Dứt bỏ những gì phải dứt bỏ
Nghĩa là người cư sĩ khi đến với đạo Phật, đức Phật nói cái này phải bỏ là phải dứt bỏ chứ không có được còn dính dáng với nó. Cũng như người tu sĩ khi đến với đạo mà đức Phật đã dạy những pháp cần dứt bỏ thì hoàn toàn chúng ta cố gắng mà phải dứt bỏ, chớ đừng có mà không dứt bỏ nó thì không thể nào tiến tới con đường của đạo được. 
4. Tu tập những gì phải tu tập
Nghĩa là có những pháp để tu tập, có những pháp cần phải dứt bỏ, có những pháp cần phải trau dồi và có những pháp cần phải thông hiểu. 
Đó là bốn điều kiện khi chúng ta bước chân vào đạo Phật phải hiểu, nghĩa là trước tiên chúng ta phải thông hiểu sau đó chúng ta phải trau dồi thân tâm mình, rối kế đó chúng ta phải dứt bỏ những gì cần dứt bỏ, rồi đến những pháp môn mà hằng ngày cần phải tu tập. Thì đó là những điều chúng ta cần phải hiểu và thông rõ. Chứ nếu chúng ta không nắm vững được cái này chắc chắn chúng ta không biết đường lối đâu mà đi. 
Như vậy khi thay đổi nghề nghiệp đời sống quý vị mới sống thiện, nghĩa là thay đổi nghề nghiệp ác đó để sống những nghề nghiệp thiện hơn, cho nên đời sống của mình bây giờ mới là sống thiện. Vì vậy mà người cư sĩ cần phải tu tập những cái gì? 
Thứ nhất cần phải nghiên cứu tìm hiểu những lời của Phật dạy. Nghĩa là đầu tiên mà chúng ta, cũng như giai đoạn thứ nhất, ở chỗ này có 4 điều kiện mà chúng ta cần phải nắm cho vững, phải hiểu cho rõ. Thứ nhất, Phật dạy ở đây phải thông hiểu những gì cần thông hiểu. Vậy thì bây giờ chúng ta phải thông hiểu cái gì, đi tìm hiểu cái gì đây. Ở đây Phật dạy rất rõ là chúng ta phải tìm hiểu những cái gì. Tìm hiểu:
1. Tứ diệu đế
2. Thập nhị nhân duyên
3. Nghiệp
4. Thân ngũ uẩn
5. Tứ bất hoại tịnh
6. Tứ chánh cần
7. Tứ niệm xứ
8. Tứ thiền
9. Tứ như ý túc
10. Ngũ căn
11. Ngũ lực
12. Thất giác chi
13. Thập thiện
14. Nhân quả luân hồi
15. Tam minh[1]
16. Tứ vô lượng tâm
Đó là tất cả những cái pháp mà Phật dạy, người cư sĩ đến với đạo Phật cần thông hiểu những gì phải thông hiểu, tức là thông hiểu 16 pháp Phật đã nêu tên ra, lúc bấy giờ chúng ta sẽ đi tìm hiểu từng pháp đó như thế nào để chúng ta rõ ràng, coi có phải cái đó có hợp với mình không, có phải là ước vọng trên bước đường mình gửi thân tâm vào đó để tu hành không? 
Cho nên khi mà nghiên cứu thông suốt được rồi, thấy nó phù hợp với ước vọng, nguyện vọng của mình thì người cư sĩ đó mới tiếp tục trau dồi những gì mà mình đã tìm hiểu được trong những pháp trau dồi. Chứ không phải bây giờ tôi ngồi thiền, nhập định hoặc nghiên cứu như vậy rồi tôi tu Tứ thiền hoặc dùng Tứ như ý túc hoặc là tôi dùng những điều kiện cao siêu thì nó không đúng cách đâu. 
Cho nên ở đây khi mà được nghiên cứu kỹ như vậy rồi thì bắt đầu phải tu tập cái gì đây, phải trau dồi những cái gì đây?
Đó là những điều kiện nó phải phân minh, nó phải rõ ràng đường lối tu tập. Chứ nếu mà không không phân minh, không rõ ràng đường lối tu tập như vậy thì chắc chắn là chúng ta nhào vô chúng ta chẳng biết đường lối nào mà chúng ta tu. Cho nên ở đây hầu hết là Thầy thấy như thế này: khi quý thầy đến với Thầy thì hầu như là thiền à, ngồi thiền, người thì nhiếp hơi thở, người thì tri vọng, biết vọng liền buông, người thì công án, người thì niệm Phật, chứ không nghe người ta đi từng bước một của sự tu tập. Người ta chưa bỏ hết những gì mà người ta chưa có từ bỏ, từ giã mà người ta vội vàng tu những cái của những bậc ly trần xuất thế.Thì điều đó là cái sai của thời đại tu tập bây giờ rất nhiều. Người ta không thấy được qua đời sống phạm hạnh, qua đời sống chuyên tu thiền nó khác hơn là đời sống của cư sĩ đang bao nhiêu gia duyên, đang bao nhiêu sự việc trói buộc, ràng buộc phải làm cho hết bổn phận của người đời, của người cư sĩ. Thế mà vội vàng tu, nó không hiểu rõ được đường lối cách thức thì chúng ta tu mãi mà dậm chân tại chỗ, uổng phí, vừa mất thì giờ mà chẳng đi đến đâu. 
Hôm nay Thầy vạch một lối đi cho cụ thể và rõ ràng để cho quý thầy, quý cư sĩ tìm hiểu rất rõ ngọn nguồn để bước đi vững chắc không bị vấp ngã. Đây là những bài pháp mà đức Phật đã dạy cho các đệ tử của Người trong thời xa xưa mà đến bây giờ người tu hành đúng theo lời dạy này vẫn thấy hiệu quả giải thoát thân tâm rõ ràng.
Nghĩa là qua 16 bài pháp Thầy kể tên ở trên, đến bây giờ nếu chúng ta tu đúng chúng ta vẫn thấy được sự giải thoát thân tâm rõ ràng, làm chủ được sự sống chết và sanh tử luân hồi.
Qua kinh nghiệm bản thân của Thầy, những lời dạy này tu tập cụ thể có thứ lớp, có tầng bậc, sắp xếp có thứ tự rất khoa học từ dễ đến khó, từ mới tu cư sĩ cho đến người xuất gia tu sĩ đâu đâu rõ ràng. Người cư sĩ tại gia phải tu những pháp nào, người xuất gia tu sĩ phải tu những pháp nào, rõ ràng và rất minh bạch.
Theo như lời đức Phật đã dạy ở trên, ở giai đoạn đầu người cư sĩ phải thông hiểu những gì cần phải thông hiểu. Vậy phải thông hiểu cái gì đây?
Có rất nhiều điều trong đời sống cần phải hiểu và phải thông suốt nó. Nghĩa là quý vị cư sĩ khi vào đạo Phật, mặc dù chúng ta đang sống ở trong cuộc sống nhưng chúng ta chưa hiểu cuộc sống chúng ta như thế nào. Phải nói rằng chưa hiểu, không biết nó như thế nào mà mọi người đều ham mê mà điên cuồng chạy theo nó mà không bao giờ chịu buông nó ra. Đó là những điều mà chúng ta cần phải hiểu tại sao nó cuốn hút, nó lôi người ta dữ tợn như vậy, nó xâm chiếm người ta dữ vậy, nó sai bảo người ta dữ vậy? Để cho người ta ở trong cái khổ mà người ta không thấy cái khổ đó, người ta biết nhưng mà người ta không tránh được nó. 
Đầu tiên chúng ta tìm hiểu trong đời sống thế gian. Tại sao, nghĩa là bây giờ bắt đầu chúng ta mới suy nghĩ, nghĩa là chúng ta mới thông hiểu những cái gì đó, qua những bài pháp này của Phật dạy chúng ta mới thông hiểu đời sống của chúng ta, chúng ta so sánh đời sống của chúng ta nó như thế nào đây?
Tại sao có người yểu tử, có người trường thọ, đó là một cái tìm hiểu, bởi vì Phật dạy cái gì cần hiểu thì phải tìm hiểu cho nó thông. Vì vậy mà bây giờ chúng ta đặt ra những câu hỏi như thế này, tại sao có người yểu tử, có người trường thọ? Có người mới sanh ra là chết, có người được 12, 13 tuổi là chết, có người thì 3,40 tuổi chết mà tại sao có người 100 tuổi mới chết?
Tại sao nó lạ lùng vậy? Lẽ ra con người 100 tuổi thì nó đều 100 tuổi chứ, tại sao lại có người yểu tử mà có người trường thọ?
Đó là những cái chúng ta thấy ở trong cuộc sống của chúng ta, nhan nhản những điều kiện mà nêu ra đây cụ thể và rõ ràng. Vậy thì chúng ta phải tìm hiểu những điều này như thế nào?
Tại sao có người bệnh nhiều mà có người lại ít bệnh? Cái điều đó là điều thực, chứ không thể nào chúng ta chối cãi được ở trong xã hội này, loài người này. Tại sao có người sanh ra cho tới lúc già chết họ bệnh có tí xíu họ chết, còn có người sinh ra từ nhỏ họ bệnh liên miên bất tận, cái gì mà làm cho họ như vậy?
Đó chúng ta cần phải đặt ra để tìm hiểu cuộc đời chúng ta đang sống, trong cuộc sống của chúng ta.
Tại sao có người xấu, có người đẹp? Nghĩa là tại sao có người sanh ra tướng mạo phương phi, đẹp đẽ nhưng có người gù lưng tật nguyền rồi xấu xa mặt mày, mũi tẹt răng hô… đủ loại xấu. Như vậy thì nó có cái gì ở trong đó, tại sao con người sinh ra không đồng đều, lẽ ra đẹp thì phải đẹp hết, xấu thì phải xấu hết chớ, tại sao có người vầy người khác. Đó là những cái mà chúng ta cần phải tìm hiểu.
Tại sao có người có quyền thế nhỏ mà có người có quyền thế lớn? Ở trong xã hội chúng ta có người thì có quyền thế lớn mà có người thì có quyền thế nhỏ. Mà có người không có quyền thế gì hết, suốt cuộc đời đi làm đầy tớ người khác hoặc làm nô lệ cho người khác mà không có quyền hạn gì hết. Đó là những cái người cư sĩ cần phải tìm hiểu trong cuộc sống của mình.
Tại sao có người tài sản nhỏ, có tài sản nhỏ mà có người tài sản lớn? Tại sao có người sanh vào gia đình hạ liệt, có người lại sanh vào gia đình cao quý? Đó là những cái mà nhan nhản trước mắt của chúng ta không thể nào chối bỏ được điều đó.
Tại sao có người trí tuệ thông minh mà có người trí tuệ yếu kém, không thông minh?
Do duyên gì, nhân gì giữa con người với nhau lại có kẻ hạ liệt, người ưu tú như vậy?
Đó là những điều chúng ta đặt ra câu hỏi để chúng ta tìm hiểu, mà đây là tìm hiểu ra một sự thật. Chính đức Phật đã dạy chúng ta để so sánh và phân biệt được, để tìm ra nguyên nhân đó. Từ tìm ra nguyên nhân đó thì chúng ta mới biết con đường của đạo Phật để chúng ta giải quyết được những cái điều này nếu không thì chúng ta đâm ra hoang mang, nghi ngờ cuộc sống của chúng ta.
Nếu chúng ta đặt thành vấn đề: nếu chúng ta có một đấng vạn năng, một đức cha lành, một đức Phật toàn năng thì không lẽ những người đó sinh chúng ta ra mà lại đặt chúng ta có người xấu có người tốt sao? Đặt thành vấn đề quý vị là những người cư sĩ, khi quý vị sinh đứa con ra quý vị muốn đứa con của quý vị như thế nào? Đứa nào cũng phải tốt đẹp, thông minh chứ sao lại có đứa xấu, đứa tốt. Thì đặt vấn đề một đấng toàn năng mà họ sáng tạo ra loài người, thì họ cũng phải nghĩ rằng những con người mà họ sáng tạo ra tốt đẹp như nhau, tại sao lại như vậy?
Như vậy có phải có thượng đế hay không? Hay là không có thượng đế ở đây? Tại sao thượng đế sanh con người ra kẻ vầy người khác? Kẻ đau khổ nhiều người đau khổ ít?
Do vì vậy mà đạo Phật giảng bài này cho chúng ta hiểu do vì đâu mà có sự việc này.
Muốn hiểu rõ điều này thì chúng ta phải hiểu Nghiệp.
Bây giờ đức Phật đặt ra vấn đề Nghiệp, vậy Nghiệp là cái gì đây?
Đức Phật dạy nghiệp là chủ nhân của loài người. Nghĩa là nghiệp nó đẻ ra loài người đó. Nghiệp là người chủ muốn cho người đó tốt xấu nọ kia là do nghiệp, chớ không phải có người nào sanh chúng ta ra, do nghiệp mà sanh chúng ta ra.
Nghiệp thường sai khiến con người như thế này như thế khác, nó bảo gì thì con người phải làm theo chứ không có chống lại nó được.
Con người là thừa tự của nghiệp. Nghĩa là mình sinh ra đây là thừa tự của nghiệp của chính mình.
Nghiệp là thai tạng của con người, tức là nghiệp sanh ra con người đó.
Nghiệp là quyến thuộc, là điểm tựa, và nghiệp lại phân chia ưu liệt của loài người. Nghĩa là người tốt, người xấu nó phân chia ra đó. Nó sanh con người ra rồi nó phân chia con người ra. 
Vậy nghiệp từ đâu mà đến? Nó có phải là đấng vạn năng không? Đó là những điều mà chúng ta đặt ra để mà chúng ta hiểu, để mà chúng ta thấu rõ được đời sống con người, số mệnh của con người ở trong cuộc đời chúng ta, nó sanh ra từ cha mẹ là nghiệp. Thì như vậy chúng ta tìm hiểu cái nghiệp này như thế nào để cho nó đúng?
Vậy thì nghiệp là cái gì?
Thứ nhất chúng ta phải hiểu nó, nghiệp là một cái thói quen của chúng ta. Nghĩa là một người mới sinh ra họ chưa biết ghiền thuốc đâu, họ cũng chưa biết ghiền rượu đâu, nhưng mà lớn lên rồi gặp môi trường bạn bè hoặc người ở trong nhà buôn bán rượu này kia thì bắt đầu họ nếm thử chút chút. Ban đầu họ thấy đắng, cay, hôi, họ không có uống được nhưng rồi lần lần họ thấm nhuần, họ quen đi rồi trở thành ghiền đi. Mà trở thành ghiền là đó là nó đã trở thành cái nghiệp rồi.
Cho nên bây giờ cái người nghiện rượu nghe mùi rượu thì thấy như thế nào? Họ thích liền, họ không có từ giã được, họ không có ly nó ra được, mà họ sáp vô để họ uống một ly rượu. Có nhiều người mà đã ghiền rồi thì mỗi buổi sáng mà họ không có ly rượu thì họ thấy con người của họ nó khó chịu, nó ụa, nó ọe, nó làm những cái điều kiện như người bị bệnh vậy. Họ làm cho cái thân của họ quá khổ sở, cái tâm của họ chao động, không có tỉnh táo được nữa. Mà khi uống vào ly rượu họ thấy họ tỉnh táo và cái thân của họ bình thường trở lại. Nghe nó sảng khoái, nghe nó có hỷ lạc ở trong đó. Cho nên họ rất thích thú. Từ đó thói quen đó gọi là nghiệp. Cho nên cái thói quen đó mới dẫn chúng ta đi vào trong sinh tử luân hồi, cho nên gọi nghiệp là thai tạng đó.
Nghiệp là chủ nhân tức là nó sẽ sai chúng ta, nó sai, nó làm chủ chúng ta. Nó sai chúng ta làm cái gì chúng ta làm cái nấy. Bởi vì khi mà chúng ta quen cái đó rồi, khi mà cái thói quen đó khởi lên, nó muốn cái gì đó thì chúng ta không ngăn chặn được nó. Nên coi đó là cái nghiệp sai chúng ta làm cái điều đó.
Chẳng hạn bây giờ do cái tâm sắc dục của chúng ta, vì cũng là cái thân của chúng ta sinh ra nơi sắc dục nên nó mang cái thân nó cũng có những đòi hỏi sắc dục. Vì vậy mà khi chúng ta thấy người khác phái thì nó sinh ra cái tâm đó, rồi nó đòi hỏi hỷ lạc của sắc dục đó. Cái thân sinh ra từ đó nó đã có cái nghiệp đó rồi, thế mà chúng ta không ngăn chặn, chúng ta bước vào nghiệp, nó trở thành thói quen, nó nghiện ngập, xa cái đó không được. Cho nên từ đó đức Phật dạy cắt ly nó, đoạn dứt nó để chúng ta chấm dứt sự sanh tử luân hồi.
Như bài giảng Thầy vừa giảng xong về giới luật, mà giới bất tịnh thì chúng ta đã biết con đường sinh tử, nó không phải cái gì khác hơn là tâm dâm dục của chúng ta. Thì ở đây, chúng ta thấy cái tâm dâm dục đó chính là cái nghiệp, mà từ cha mẹ sinh mình ra cũng từ nơi cái nghiệp đó, cho nên ngay cả thân và tâm chúng ta được sinh ra cũng từ cái nghiệp đó, vì vậy mà chúng ta thừa tự cái nghiệp đó. Cho nên Phật nói con người thừa tự của nghiệp. Thì quý thầy thấy có đúng không?
Phật dạy: con người chúng ta là thừa tự của nghiệp, nghĩa là cha mẹ mình đã vì cái nghiệp dâm đó mà sinh mình ra, cho nên mình được sinh ra từ cái thân tâm của mình thì không phải là mình thừa tự cái nghiệp dâm đó sao. Do vì vậy đó mà chúng ta đi vào con đường tu hành của đạo Phật là chúng ta phải xa lìa nó, đoạn dứt nó, chấm dứt nó. Thì chúng ta đi ngược lại nó có khó chịu không? Nghĩa là chúng ta chống lại nó. Cho nên đức Phật dạy chúng ta như hồi nãy, Thầy nói có 4 điều kiện, cái gì thông hiểu thì chúng ta phải thông hiểu, cái gì trau dồi thì chúng ta phải trau dồi, cái gì dứt bỏ thì chúng ta phải dứt bỏ...
Bây giờ cái mà chúng ta đã hiểu được là cái nghiệp dẫn chúng ta đi ở trong sinh tử luân hồi, cái sự đau khổ. Bây giờ chúng ta biết rằng bản thân chúng ta, thân tâm chúng ta đang là thừa tự của cái nghiệp, vậy thì bây giờ cái nghiệp, cái đau khổ, cái nghiệp đưa dẫn người ta tới chỗ khổ mãi mãi đau khổ trong bốn cái khổ sanh - lão - bệnh - tử. Do cái nghiệp mà tạo ra, cho nên chúng ta đang thừa tự cái nghiệp vậy thì chúng ta phải đoạn dứt nó. Phải mạnh mẽ đừng có yếu kém, mà chúng ta yếu kém thì không thể nào dứt bỏ nó được. Cho nên Phật nói: có những pháp cần phải dứt bỏ thì phải dứt bỏ, chớ không thể nuôi dưỡng nó được, chớ không thể kéo lê thê theo mình được, mà phải dứt bỏ ngay liền, chấm dứt ngay liền.
Đó là những cái pháp gọi là nghiệp, thì chúng ta biết mình đang thừa tự những cái đó, thì mình không nhận cái thừa tự đó nữa, nghĩa là mình chấm dứt cái đó đi. Thì bắt đầu bây giờ mình đừng có, cái tâm mình khởi lên dâm dục thì mình dùng những pháp để tu tập. Cái pháp đó là gì? Cái tâm dâm dục mà mình dùng cái pháp để loại trừ thân tâm thừa tự nghiệp này, do đó mình phải quán bất tịnh. Mình phải xét thân tâm của mình nó như thế nào là thanh tịnh, như thế nào là không thanh tịnh. Từ đó mình sẽ thấy cái thân ghê gớm, mình sẽ thấy cái thân bất tịnh, nhơ bẩn, ô uế, uế trược từ đó chúng ta thấy không còn thừa tự sản nghiệp của cái nghiệp dâm dục này nữa.Tức là chúng ta sẽ chấm dứt sự sanh tử rồi đó.
Như vậy thì quý thầy thấy rõ ràng là những gì chúng ta cần dứt bỏ là chúng ta phải dứt bỏ. Nghĩa là chúng ta thấy cái đó nguy hiểm, đừng vì một chút dục lạc ở đó mà chúng ta kéo lê thê cái đời của mình, để luôn luôn mãi thừa tự nghiệp này, thừa tự những cái sanh tử này. Cho nên chúng ta biết thừa tự cái này là đem đến cho chúng ta sự khổ đau. Cho nên muốn chấm dứt cái nghiệp thì có những cái mà chúng ta phải đoạn dứt. Vì vậy chúng ta phải tu tập siêng năng, luyện tập những điều mà Phật đã dạy: quán thân bất tịnh để đoạn dứt được những cái nghiệp. Nếu không có quán bất tịnh thì khó mà đoạn dứt được nghiệp dâm. Cho nên từ đó mà chúng ta mới có những thai tạng của cái nghiệp sanh chúng ta ra.
Vậy thì chúng ta biết rằng cái nghiệp là cái thói quen, cái nghiệp là cái sự ô nhiễm làm cho chúng ta khó bỏ nó. Đó là những thói quen mà hằng ngày trong những hành động của chúng ta tạo ra nghiệp thiện, nghiệp ác, nghiệp ham muốn chứ không gì khác hơn hết. Nếu chúng ta hằng ngày chửi bới thiên hạ thì nó quen đi, thành ra lúc nào chúng ta cũng dễ dàng chửi bới người ta được hết. Còn ngày ngày chúng ta không mắng không chửi ai hết, ngày này qua ngày khác thì nó không thành cái nghiệp của chúng ta.
Cho nên ở đây Phật dạy chúng ta làm điều thiện thì không có chửi mắng ai, làm điều thiện thì không có trộm cắp của ai, làm điều thiện thì không bao giờ có những hành động tà dâm bất tịnh. Đó là những điều mà chúng ta phải hiểu và thông suốt, và biết từ bỏ, dứt bỏ nó. 
Nói như vậy chúng ta đã hiểu sơ qua về nghiệp, nếu mà giảng rộng thì giảng nghiệp đi trong luân hồi, nghiệp tái sanh thì nó còn phải rất nhiều thời gian mà giải thích để cho quý vị thấu suốt.
Tạm thời ở đây Thầy ngắn gọn, sau này có những việc chúng ta cần phải nghiên cứu về các nghiệp này nữa để chúng ta thông suốt tất cả các nghiệp trong thân chúng ta. Chúng ta biết rằng trong thân chúng ta có ba nơi hành nghiệp này, đó là thân của chúng ta, đó là miệng của chúng ta, đó là ý của chúng ta. Ba chỗ hành động này gọi là hành động nghiệp. Nghĩa là nghiệp cũ có rồi tạo nghiệp mới có. Do vì vậy mà chúng ta luôn luôn trôi lăn trong 6 nẻo luân hồi, do chỗ nghiệp này chứ không phải gì khác hơn hết.
Bây giờ quý thầy đã hiểu được nghiệp thì chúng ta sẽ biết được hồi nãy đặt ra những câu hỏi tại sao có người giàu người nghèo, người tốt người xấu, người bệnh nhiều, người bệnh ít, thì đây quý thầy sẽ thấy nghiệp nó sẽ dẫn vào thế giới cuộc sống của quý vị, quý thầy đang sống thì có sự sai khác nhau như vậy.
Đây quý thầy nghe kỹ, nhất là những người cư sĩ đang ở giai đoạn tu tập thứ nhất phải lắng nghe và chú ý cho kỹ. Nghĩa là các vị còn sống trong gia đình, còn vợ, còn con, còn cha mẹ, bạn bè thân thuộc, bà con xóm làng, không phải là người xuất gia đã bỏ tất cả, thì quý vị lắng nghe bài so sánh này để biết được cái nghiệp nó chi phối và phân chia ra con người có ưu liệt và có tốt xấu đó. Vì vậy quý vị phải lắng nghe cho kỹ để thực hiện được những gì mà chúng ta cần phải chấm dứt, phải đoạn dứt nó.
1. Nhân Quả Yểu Tử Và Trường Thọ
Khi một người đàn ông hay một người đàn bà tàn nhẫn giết hại chúng sanh, tay lấm đầy máu, tâm chuyên sát hại, đả thương, lòng không có chút từ bi biết thương xót loài vật, do nghiệp sát sanh ấy thành tựu. Nghĩa là ở đây Phật muốn nói cái nghiệp mà giết hại chúng sanh, đả thương làm cho chúng sanh chết chóc mà tâm lòng không thương xót chút nào đó, thì khi mà nó đã thành cái thói quen rồi, thói quen giết hại đó, cho nên ở đây Phật nói câu nói như thế này: do nghiệp sát sanh ấy thành tựu, tức là thành cái thói quen rồi, tức là thành cái nghiệp rồi. Lúc bấy giờ cái người đó sau kiếp sống này họ bỏ thân này đi, họ bị chết đi thì họ sẽ đi về đâu đây?
Họ sẽ vào cái cõi dữ, ác xứ, đọa xứ, địa ngục, sau một thời gian sống trong cảnh giới súc sanh, cảnh giới đau khổ của địa ngục, ở cảnh giới ác thú của những thú dữ đang giết chóc lẫn nhau…thì lúc bấy giờ trải qua nhiều đời nhiều kiếp họ mới được làm người. Con người họ sinh ra vì cái nhân của họ trước kia, vì cái nghiệp của họ thành tựu rồi thì con người họ sinh lên họ yểu tử. Nghĩa là có người mới vào trong bào thai chừng 1 tháng, 2 tháng là đã bị trôi thai. Có người vừa sanh ra là đã bị yểu tử, rồi có người sanh ra được ba, bốn tháng, có người sanh ra được 1, 2 tuổi, có người sanh ra được 11,12 tuổi rồi xe đụng hoặc là bệnh tật chết. Có người sanh ra được 20 tuổi chết, có người sanh ra được 50, 60 tuổi chết, có người thì được trường thọ 100 tuổi chết. Thì cái chết đó là do cái chỗ mà chúng ta đã sát hại chúng sanh, cho nên chúng ta bị yểu tử, cho nên tuổi những người yểu tử này họ không được trên 30 tuổi. Nghĩa là khoảng từ 30 trở lại là yểu tử, từ 30 đến 60 tuổi là trung thọ. Từ 60 trở lên là trường thọ. Cho nên có sự phân chia để thấy được sự yểu tử thì chúng ta biết dưới 30 tuổi là dạng yểu tử.
Nếu có người đàn ông hay người đàn bà từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, tay không bao giờ lấm máu chúng sanh, luôn có lòng từ bi thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh các loài hữu tình. Do nghiệp ấy thành tựu, nghĩa là thành nghiệp thiện không giết hại chúng sanh sau khi họ bỏ thân họ thì họ sinh vào cảnh giới thiện, cõi giới thiện. Nghĩa là cõi giới tốt không có ác pháp ở trong đó, hoặc là sanh vào cõi trời, sau cùng thì họ sinh làm người, tuổi họ được trường thọ từ trên 60 đến 100 tuổi. Con đường ấy đưa họ đến trường thọ. (BBT:BN,02,E01:33:28) (BBT:CĐ,03A,E00:37:49)
(BBT:CĐ,03A,B00:37:50)(BBT:BN,03,B00:00:00)Phật so sánh bài này để làm gì?
Để nhắn nhủ người cư sĩ chúng ta, tay chúng ta đừng lấm máu. Tâm chúng ta thường thương xót chúng sanh dù loài nhỏ nhất như côn trùng, sâu bọ cho đến những loài lớn nhất như sinh mạng con người, chúng ta đừng có đoản mạng, đừng giết hại chúng, đừng có làm đau khổ chúng, đừng giết chúng để cho chúng ta sanh làm người hoặc là ở cõi trời hoặc là cõi thiện nào đó chúng ta cũng hưởng được cái thân không có yểu tử, cái thân được yên ổn mà không có sự đau khổ trong đó.
Chúng ta đã hiểu như vậy thì chúng ta tu pháp nào đây?
Tức là ở đây Phật dạy chúng ta phải dứt bỏ, phải từ bỏ, nghĩa là dứt bỏ những gì phải dứt bỏ. Đó là chúng ta hiểu, hiểu tức là chúng ta thông rồi, mà chúng ta biết rằng cái hành động giết hại chúng sanh đó thì nó sẽ đưa đến chúng ta thọ mạng yểu tử. Cho nên chúng ta thấy điều đó là điều không tốt, và cái điều đó là làm cho chúng sinh đau khổ, khổ sở vì chính chúng ta bị ai đánh đập, bị người ta giết mình thì mình cũng đau đớn, mình khổ sở, mình cũng ham sống. Thì mình suy tư như vậy mình thông suốt, cho nên mình đi vào giai đoạn thứ 3 để mà chúng ta dứt bỏ những gì phải dứt bỏ, nghĩa là dứt bỏ không sát sanh nữa. Từ đây về sau chúng ta không sát sanh nữa, và cũng từ đây về sau chúng ta không ăn thịt chúng sanh nữa. Vì chúng ta ăn thịt chúng sanh thì chúng ta phải giết chúng sanh.Cho nên chúng ta biết được như vậy chúng ta đem hết lòng từ của chúng ta biến mãn khắp chúng sanh. Con kiến đi trên mặt đất chúng ta đi dè dặt không đạp, vì lỡ đạp chúng gãy giò, gãy chân chúng đau, chúng khổ cũng như chúng ta bị gãy giò, gãy chân cũng đau cũng khổ.
Cho nên từ suy nghĩ đó mà chúng ta thấy mọi vật mà hữu tình, mọi vật mà có sự hoạt động - gọi là động vật thì loài vật nào cũng có sự đau khổ, có sự nhức nhối cũng như chúng ta vậy. Cho nên chúng ta không bao giờ có thể làm đau khổ từ cái loài vật nhỏ cho đến loài vật lớn. Thậm chí như con muỗi, con mòng nó đi tìm máu của chúng ta để mà sống, vô tình nó đâu có ngờ rằng chúng ta sẽ mạnh tay mà đập chúng, giết chúng đi? Cho nên chúng ta khi tu hành chúng ta phải có mùng ngăn cách, chúng ta không bố thí máu cho chúng vì chúng ta biết rằng cơ thể chúng ta không thể nào thừa thãi mà bố thí cho chúng được. Cho nên chúng ta kiếm cách chúng ta ngăn cản chúng mà không giết hại chúng, để chúng đi tìm thực phẩm khác mà sống. Đó là cái điều chúng ta không nỡ tâm làm điều ác, lấm máu chúng trong bàn tay của chúng ta. Do vì vậy mà chúng ta phải thực hiện điều thứ 3 là dứt bỏ những gì cần dứt bỏ.
Đến đây quý thầy đã hiểu rõ sự dứt bỏ của chúng ta. Vậy thì chúng ta biết rồi thì chúng ta cố gắng dứt bỏ cái điều sát hại chúng sanh và cũng từ đây thì các vị cư sĩ cũng phải nỗ lực dứt bỏ không giết hại chúng sanh nữa, không làm đau khổ chúng sanh nữa và không ăn thịt chúng sanh nữa.
Điều đó là điều cần thiết,chúng ta không ăn chay nhưng vì lòng thương của chúng ta mà chúng ta không nỡ ăn thịt của chúng sanh chớ không phải chúng ta ăn chay. Bởi vậy, đức Phật không có dạy các tỳ kheo ăn chay mà đức Phật chỉ dạy các vị tỳ kheo ăn thịt động vật thì không thấy, không nghe, không nghi mới ăn, mà thấy, nghe, nghi thì không ăn. Đồng thời bài kinh đó Phật dạy tiếp, khi chúng ta ăn một thực phẩm thì tâm từ bi của chúng ta biến mãn khắp chúng sanh, mà tâm từ bi biến mãn khắp chúng sanh thì trong thực phẩm có sự chết chóc, có sự đau khổ trong đó thì chúng ta còn ăn được nữa không?
Cho nên Phật đâu cấm chúng ta ăn thịt. Nhưng chúng ta không ăn là tại vì tâm từ bi của chúng ta. Cho nên Thầy xét qua bài kinh Jivaka này, Thầy thấy rằng đức Phật dạy chúng ta ăn chay trên ăn chay chứ không phải là ăn chay như người ta đã nghĩ rằng mình ăn chay là mình làm những món chay mình ăn. Cho nên hầu hết có một số người nghĩ rằng mình ăn chay mình làm đùi gà này, mình làm sườn này, mình làm mắm chay này, mình làm miếng thịt heo chay này… đều là bằng bột, bằng đậu, bằng rau cải mà hình thức của nó là hình thức của loài vật. Thì như vậy, khi mà thấy những hình thức như vậy mà một người tu theo đạo Phật thì chắc chắn là người ta không ăn rồi. Nhưng cái người mà ăn chay thì họ nói trong này toàn đậu hũ không hà, không có gì hết, không phải là thịt cá đâu. Cho nên cái người ăn chay thì họ thấy là món này không có thịt cá cho nên họ ăn, mà họ không thấy cái hình dáng của đùi gà, của đầu gà, hoặc đầu vịt mà họ giả tạo họ làm ra. Thì như vậy, đối với đức Phật mà thấy như vậy là đức Phật không ăn, hình dáng đó là đau khổ, hình dáng chết chóc.
Đó chúng ta mới thấy được điều đức Phật dạy chúng ta ăn chay trên tâm từ bi chứ không phải dạy chúng ta ăn chay trên cái ăn chay đâu, mà dạy chúng ta siêu việt hơn. Thế mà có người lầm lạc lại đi ăn thịt chúng sanh mà lại gọi là đệ tử của Phật, đệ tử xuất gia của Phật.
2. Nhân Quả Bệnh Tật Và Khỏe Mạnh
Đây, bây giờ kế đến chúng ta sẽ đọc cái sự so sánh kế đến để chúng ta thấy được đức Phật dạy người cư sĩ như thế nào mà có người bệnh nhiều mà lại có người bệnh ít đây?
Nếu có người đàn ông hay đàn bà tánh hay đánh đập làm đau khổ chúng sanh bằng tay, bằng gạch, bằng gậy, bằng gộc, bằng roi, bằng đao kiếm. Nghĩa là ví dụ như mình có một đứa đầy tớ ở trong nhà, hoặc là con cái trong nhà của mình hoặc vợ con mình đi nữa, mình tức giận, mình đánh nó một bạt tai đi, đó là làm đau khổ nó đó. Con cái của mình, mình giận quá mình đá, mình đạp nó hay hoặc là những người tôi tớ ở trong nhà của mình nó làm những gì không vừa ý, lỡ tay làm vỡ một cái ly, một cái tách gì bể đó, rồi chúng ta vì tiếc của mà chúng ta không nương tay đánh, đạp, đá người tôi tớ trong nhà.
Đây là Thầy nói con người với con người, còn với con vật chúng ta đâu có thương xót gì đâu. Lúc tuổi trẻ, Thầy thấy mấy cháu trai cũng như cháu gái bắt dế, rồi bắt con vật này con vật kia để cho nó đá nhau, nó cắn nhau, như cá cũng vậy, làm cho chúng đau khổ, rồi dùng roi, dùng gậy mà đánh đập như con chó, con gà, con mèo. Thầy thấy nhiều khi nó vô tình nó ăn vụng chúng ta lại lấy roi, gậy đập phang nó, nhiều khi nó chết, nhiều khi nó bị gẫy chân, què cẳng, đau đớn mà chúng ta không thấy những điều đó.
Do cái hành động, cái tánh mà hay đánh đập làm đau khổ chúng sanh bằng tay bằng chân, bằng gạch, bằng đá, bằng roi, bằng đao kiếm như vậy, do cái nghiệp mà hay tạo sự đau đớn cho chúng sanh như vậy, thì người đó bỏ thân này rồi họ sanh vào nơi cõi dữ, ác thú. Do sanh vào cõi dữ, cõi ác thú đó (BBT:CĐ,03A,E00:46:35) thì trong địa ngục đó họ chịu đau khổ hành hạ cái thân của họ cho đến khi họ được sanh ra làm người, họ sanh ra làm người thì họ bệnh hoạn suốt đời họ, họ bệnh rất nhiều, chớ họ ít có khi mà được mạnh khỏe. Do vậy, chúng ta thấy có người bị bệnh liên miên bất tận mà không thấy hết, đó là những điều kiện là họ đã tạo những hành động làm đau khổ chúng sanh, trong đó có con người ở trong đó nữa.
Bằng ngược lại,(BBT:CĐ,03B,B00:00:23) không lúc nào chúng ta đánh đập làm đau khổ chúng sanh, cũng như mình đi mình tránh không đạp con kiến gẫy chân, gẫy giò thì đó là mình không có làm đau khổ chúng sanh.Vô tình mình cũng làm đau khổ chúng sanh. Nhiều khi chúng ta thấy những con cuốn chiếu nó bò, con vật nó rất hiền lành, chân cẳng nó nhiều, nó không cắn, nó không có làm cho mình đau khổ thế mà mình vô tình mình đi kinh hành mình đạp trên nó nghe cái rốp. Nhìn lại mình nhìn thấy nó quằn quại, nó đau đớn, trong người nó tiết ra một cái nước mình thấy như là máu ở trong người mình chảy ra, mình thấy mình rất là đau đớn thương xót.
Một cái người tu hành của mình vậy, nhưng cái người ngoài thế gian họ có thấy thương xót không?
Họ còn lấy cây, lấy gậy gộc đập cho nó chết nữa, con vật này dơ bẩn, con vật này thế này thế khác, họ còn đập cho nó chết nữa, chớ họ đâu có nghĩ như chúng ta nghĩ.
Cho nên cái tâm của họ do cái chỗ đó mà họ sanh ra làm người họ rất là nhiều bệnh tật. Cho nên xét qua người này sống trong thế gian này có nhiều bệnh tật cũng đều do cái chỗ hành động vô tình hoặc hữu ý đó, mà chúng ta làm đau khổ bằng tay, bằng chân đối với chúng sanh.
Như vậy thì khi được học bài này rồi chúng ta sẽ từ giã, tức là chúng ta sẽ từ bỏ, chúng ta sẽ dứt trừ hành động làm đau khổ chúng sanh.
Nghĩa là con cái trong nhà của mình có sai, có làm không đúng cái gì đó, mình cũng không nên lấy tay mình tát nó nữa. Cái hành động làm cho nó đau một chốc lát đó mà sau này mình sẽ bị bệnh hoạn thì nó lại càng đau biết bao nhiêu hơn. Đó, cho nên chúng ta tránh nghiệp khổ đau đó cho chính bản thân mình thì mình đừng làm khổ đau ai cả hết. Vợ con nó có làm điều gì sái quấy, do nhân quả để nó gặt lấy, mình cũng không vì đó mà mình lại đánh nó thì tạo cho chúng ta có cái nghiệp thân sau này phải chịu những bệnh hoạn khổ đau.
Ngược lại mà chúng ta thực hiện không đánh không đập, không làm đau khổ chúng sanh như vậy thì chúng ta không có bệnh hoạn, ít bệnh hoạn.
Đời chúng ta thì chắc chắn là chúng ta có nhiều sự kiện chúng ta đã làm đau khổ chúng sanh, chưa chắc chúng ta không có người nào là không làm đau khổ chúng sanh. Vì vậy mà chúng ta hiểu, đời trước chúng ta khi chưa biết Phật pháp, chắc chắn chúng ta phải có làm những điều gì đau khổ, cho nên hiện giờ thân chúng ta phải có những bệnh tật, không thể nào tránh khỏi. Do nhân quả nghiệp báo mà chúng ta phải vay trả, bây giờ chúng ta vui vẻ mà trả những bệnh tật chứ đừng nên buồn.
Có nhiều người cứ nghĩ rằng đời nay tôi làm lành, làm thiện, tôi đâu có làm gì ác đâu, tôi luôn luôn thương xót mọi người, tôi làm việc từ thiện bố thí mà sao thân tôi khổ như thế này?
Trong tuổi trẻ lúc nhỏ chúng ta chưa hiểu biết, nhiều khi chúng ta bắt 2 con kiến như vầy chúng ta ngắt chân, ngắt càng nó nữa. Nhiều khi chúng ta đi ra biển bắt mấy con còng, mấy con dã tràng, rồi chúng ta chơi chúng ta ngắt chân ngắt giò nó. Đó là những cái mà chúng ta làm nó đau khổ. Vô tình, nhưng mà bây giờ chúng ta thọ lấy những cái bệnh thì chúng ta trách ai đây?
Có phải do từ hành động chúng ta làm đau khổ chúng sanh mà bây giờ chúng ta phải thọ lấy những bệnh tật thì chúng ta làm sao than phiền trách ai?
Đó là nói về cái thân bệnh của chúng ta, bệnh nhiều bệnh ít là do cái nghiệp làm đau khổ chúng sanh mà trong bài kinh này Phật đã dạy rất rõ ràng.
Bây giờ chúng ta tiếp tục, chúng ta sẽ nghiên cứu và đi tới để hiểu những gì mà chúng ta cần phải dứt bỏ đây?
Rồi sau này chúng ta còn phải biết những pháp để tu tập, đây là những điều kiện cần phải hiểu để mà chúng ta dứt bỏ.
3. Nhân Quả Xấu Xí Và Xinh Đẹp
Nếu một người đàn ông hay một người đàn bà tánh hay phẫn nộ, nhiều phật ý, bị nói đến một chút thì bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối, tỏ vẻ phẫn nộ, bất mãn. Đó là cái hành động mà tánh tình phẫn nộ đó, nghĩa là luôn luôn lúc nào cũng phật ý mình, ai nói ra cái gì cũng phật ý mình cho nên khi bị nói đến một chút thì sân ầm ầm lên, phẫn nộ lên, sân dữ tợn lên, rồi tỏ vẻ chống đối đủ mọi cách, thậm chí như còn đánh lộn với người khác nữa. Rồi nếu mà không thì bất mãn, không muốn ăn, không muốn ở trong nhà này nữa, đó là những điều kiện tỏ vẻ như vậy đó.
Do cái nghiệp đó thì người đó họ sẽ có những quả nào đây?
Đây đức Phật đưa ra để cho chúng ta thấy rất rõ ràng. Do nghiệp ấy đã thành tựu - tức là nghiệp nó đã thành rồi đó, thì khi thân này họ hoại, tức là họ chết, họ sinh vào cõi dữ, ác thú, địa ngục. Nghĩa là họ sanh vào cảnh giới khổ đau, khổ đau nhất mà đức Phật gọi là địa ngục. Rồi sau đó họ được sinh làm người, mà khi làm người thì mặt mày họ thô xấu.
Bây giờ mình thấy người nào mặt mày mà không đẹp đẽ, không có trang nghiêm, không có những tướng vẻ tốt thì đó là những người đã có những sân hận, những phẫn nộ dữ tợn cho nên họ mới có thân hình xấu, cái gương mặt xấu xí.
Đó thì hôm nay cái bài kinh này thì chúng ta nhìn ở trong chúng ta người nào mà có khuôn mặt xấu xí, có thân hình gù, thân hình tật nguyền, không được đẹp đẽ, tướng không được cao đẹp thì do đó họ có những cái phẫn nộ, những cái dữ tợn ở trong lòng của họ, có những sự bất mãn, bất bình, đối phó, chống lại đó là họ tạo cho họ có thân hình xấu xí. Họ tạo cho họ có gương mặt không đẹp đẽ, răng hô, mặt rỗ hoặc là trán vồ. Tất cả những thân, mặt của họ là do những hành động dữ tợn, phẫn nộ sinh ra.
Đây là con đường đưa đến để cho con người có một thân hình xấu xí.
Ngược lại, chúng ta có những điều gì chúng ta không phẫn nộ, không phật ý, lúc nào chúng ta cũng nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ sanh lên làm người có gương mặt đẹp đẽ, tướng hảo quang minh, không có còn xấu xí nữa. Đó là con đường đưa đến chúng ta có được thân người đẹp đẽ, tốt đẹp.
Qua bài kinh này chúng ta thấy sự phẫn nộ, sự sân hận của chúng ta có tốt không?Không tốt. Vậy từ đây về sau chúng ta phải nỗ lực, nhất là người cư sĩ chúng ta chung đụng trong gia đình quá nhiều, con cái, rồi vợ con, bè bạn, hàng xóm, người thân, cha mẹ… thì chúng ta thấy rằng phẫn nộ đem đến hậu quả cho chúng ta là những con người tật nguyền xấu xí, không có còn đẹp nữa. Cho nên chúng ta nỗ lực mà thực hiện đừng có phẫn nộ, đừng có sân hận, mà luôn lúc nào chúng ta cũng nhẫn nhục, tùy thuận, bằng lòng trong mọi hoàn cảnh, mọi ý nghĩ của người khác, mọi tư tưởng của người khác. Thì như vậy chúng ta sẽ tự tạo cho mình sau này có thân hình rất là đẹp đẽ.
Đó là cái sự so sánh, bài pháp này là bài pháp để cho người cư sĩ tu, bởi vì tu trong các đối tượng của mình nó có sẵn sàng. Còn người tu sĩ giờ họ sống trong rừng, họ sống trong cảnh như mình đây làm sao có sân hận, có phẫn nộ đâu.
Cho nên trước khi chúng ta đi vào cảnh xuất gia rồi thì chúng ta đã thực hiện dứt trừ được cái sân hận, cái phẫn nộ này, thì như vậy chúng ta đã tạo được duyên tốt cho gia đình, cho chính bản thân mình không làm khổ mình, không làm khổ người.
4. Nhân Quả Quyền Thế, Uy Tín
Kế đến Phật dạy tiếp, nếu một người đàn ông hay một người đàn bà tâm tánh tật đố, ganh ghét đối với người khác, thấy người ta được quyền lợi, được sự tôn trọng, được sự tôn kính, cúng dường, đảnh lễ thì mình sanh ra ôm ấp trong lòng tật đố, ganh tỵ.
Đó cái lòng như vậy đó, luôn luôn ôm ấp trong lòng của mình, cũng như bây giờ Thầy thí dụ như quý thầy thấy trong huynh đệ có người tu được, mình thấy mình tu dở hơn họ, đâm ra mình tức tối hoặc thế nọ thế khác, thì cái sự tức tối đó cũng là do lòng ganh tỵ. Nhưng lòng ganh tỵ đó nó có 2 góc độ, một cái ganh ghét rồi tìm cách hại người khác – cái đó quá tệ, một cái mình thấy mình tu hành thua hoặc là mình học hành thua người ta cho nên mình ráng cố gắng mình học hành để cho bằng hoặc hơn chứ mình không chịu thua, thì cái ganh tỵ đó nó cũng có cái ganh tỵ, nhưng cái ganh tỵ đó tốt. Còn cái ganh tỵ kia là mình tìm cách dìm người ta, mình hại người ta, thấy người ta hơn mình mình không muốn họ hơn, mình đem ra nói xấu họ với người này người khác, làm cho người ta bị họ chê cười này kia nọ, mình đặt ra thế này thế khác vu khống họ bằng mọi cách thì mình sẽ tạo nên cái nghiệp đó như thế nào?
Ở đây Phật có vạch cho chúng ta thấy rõ, do nghiệp ấy đã thành đạt, tức là nó thành tựu được, cái nghiệp ấy trở thành nghiệp rồi, khi mà mình có những tâm tật đố ganh ghét như vậy nó đã thành cái nghiệp, lúc bấy giờ khi thân hoại mạng chung mình cũng sẽ sinh vào những cõi giới ác thú, nghĩa là sinh làm những con thú dữ, cõi giới dữ và sa xuống địa ngục để thọ lấy những quả khổ ganh tỵ đó. Nghĩa là mình ganh tỵ, lòng ganh tỵ đó mình làm ra những hành động: mình vu khống hoặc mình tạo thế này thế kia để người mình ganh tỵ thọ lấy những sự đau khổ rất nhiều, và những hành động ác đó thì mình phải gánh chịu ở trong cảnh địa ngục, bị người ta hành hạ, bị người ta cũng làm cho mình đau khổ đủ điều. Sau khi thọ lấy những quả khổ đó hết rồi thì mình sanh ra làm người, thì con người của mình nó không có quyền thế hoặc là có quyền thế rất nhỏ, không có quyền thế lớn. Nghĩa là người ta không tin tưởng mình nhiều, không có thế lực lớn để cho mình làm các công việc lớn được, mình hầu như là không có được quyền thế, mà có được thì có rất nhỏ, rất ít.
Đó là con đường đưa đến không có quyền thế.
Con đường mà mình ghen ghét, tật đố người khác nó tạo cho mình tu hành cũng chẳng ra gì, chẳng đi đến đâu hết. Cho nên vì vậy khi chúng ta hiểu biết được cái này do đó chúng ta không ganh tỵ ai hết, không nói xấu ai hết. Mình nói xấu người khác tức là có lòng ganh tỵ rồi, mình phải thấy cái điều này rất rõ. Cho nên mình thấy người đó mình không ưa mình nói người đó như thế này như thế kia thì cái đó là ganh tỵ. Chẳng hạn như bây giờ thấy ông thầy đó có một cái chùa tốt, thầy thì không có cho nên thầy ganh tỵ cái chùa tốt ông ta, thầy nói ông ta thế này thế khác, thì đó là lòng ganh tỵ của thầy.
Vì vậy mà cái uy thế của thầy, quyền thế của thầy lần lần nhỏ đi đến khi nó mất, nó không còn có nữa. Còn mình không nói ai, mình không có ganh tỵ ai hết thì càng ngày người ta xét thấy thì quyền thế của mình, lòng tin của mình đối với mọi người càng nhiều lên. Mà lòng tin của mình đối với mọi người càng nhiều lên thì mình nói ra lời nói có thế, có thần, người ta tin tưởng ngay liền, cho nên nó có cái lực.
Còn mình nói ganh tỵ, nói những điều mà mình chê bai người này, chê bai người kia đó là cái lòng ganh tỵ của mình. Thí dụ Thầy bây giờ dạy về pháp Giới - Định - Tuệ, có người dạy thiền Đông Độ, Thầy nói thiền Đông Độ không đúng, sai hoặc là thế này thế khác, thì đó là lòng ganh tỵ của Thầy.
Hoặc là Thầy nói thiền Công án sai hoặc Thầy nói Đại Thừa sai hoặc thầy nói niệm Phật sai thì đó là cái lòng ganh tỵ của Thầy.
Bởi vậy, chúng ta đặt thành vấn đề, bảo là sai thì đó là chúng ta đã cón tâm ganh tỵ, mà đã có tâm ganh tỵ thì lần lượt chúng ta sẽ mất quyền hạn và từ đó không ai còn tin tưởng chúng ta nữa.
Cho nên quý thầy thấy rõ ràng, những cuộn băng mà Thầy dạy cho chúng ở đây, hầu như là Thầy phá chấp của họ trong những đường lối tu không đúng đường lối Giới - Định -Tuệ, mà phá chấp như vậy quý thầy thấy cuộn băng nào Thầy cũng cấm không cho lưu hành, tại sao vậy?
Tại vì cho lưu hành như vậy tức là mình bài bác người ta, mà bài bác người ta tức là tâm ganh tỵ của mình, cho nên do đó những cuộn băng mà Thầy dạy cho chúng ở đây để người ta chuyên vào Giới – Định – Tuệ người ta tu hành, vì vậy mà người ta không còn lầm lạc cái đường khác nữa. Do vì vậy mới có những lời nói mạnh bạo, mà lời nói mạnh bạo thì nếu mà đem phổ biến lưu hành ra những lời nói này thì đương nhiên người ta sẽ xem thấy mình và chính để tỏ lòng mình là đang ganh tỵ.
Cho nên Thầy rất cấm bặt là không được lưu hành,thế mà lần lượt rồi các vị cũng lén để cho người này nghe, người kia nghe. Ở đây mục đích của Thầy là nhằm dạy chúng ở đây tu hành, chớ không phải đem ra cho người khác nghe, không được phổ biến những lời Thầy dạy.
Bởi vì trong thế gian này về Phật pháp thì có nhiều đường lối tu tập, mà nếu đứng ở góc độ mình chê người khác thì đó là người sai, người không đúng. Người ta tu được ở trong pháp nào của Phật nó cũng đem đến lợi ích cho họ. Họ lẽ nào tu theo pháp của Phật mà họ làm điều ác. Cho nên chúng ta thấy mỗi Pháp đều có điều lợi ích. Nhưng đi đến cái mức cuối cùng để đạt mục đích của đạo Phật, có tới đó hay không thì đó là tùy phước báu, cái duyên của họ ở trên Pháp môn đó. Còn chúng ta mà có đạt được mục đích cuối cùng đó thì cũng là phước duyên của chúng ta mà thôi, chứ không phải chúng ta hơn thua với họ, không phải chúng ta ganh tỵ với họ.
Ai có duyên với Pháp nào thì chúng ta tu Pháp ấy, mà Pháp ấy nó cũng có lợi ích dù ít dù nhiều nó cũng đem đến cho sự tu tập của chúng ta.
Vì thế mà trên bước đường tu tập, Thầy nhắc quý thầy khi chúng ta được học tu ở đây và giữ gìn được giới luật của mình nghiêm túc ở đây thì chúng ta không nênthứ nhất là không nên khoe khoang; thứ hai là không nên lấy giới luật, thiền định của chúng ta đã làm được ở đây mà chê bai chỉ trích người ta tu không đúng. Cái điều đó là điều Thầy đại kỵ. Người tu sĩ đúng đắn của đạo Phật thì chúng ta phải biết lòng ganh tỵ, tật đố này là cái xấu, là cái tệ chớ không phải là cái tốt đẹp. Và nhân quả của nó sẽ làm người đó mất uy tín, không còn thế lực, không còn quyền lực nữa, mất đi. Vì vậy mà chúng ta là những người tu để thắp lại ngọn đèn của Phật pháp, để thắp sáng lại ngọn đuốc của Phật pháp thì chúng ta cần phải lưu ý về phần tu tập này. Tâm không được đố kỵ, không được ganh ghét một pháp nào trên thế gian này, dù pháp đó của tôn giáo nào cũng vậy.
Cho nên ngày xưa đức Phật rất là cấm kỵ, khi người ta hỏi để tu thì cùng cực lắm đức Phật mới đem ra giảng chớ không bao giờ muốn tranh luận và hý luận. Phật cấm các đệ tử của mình không được tranh luận, không được hý luận với ai, dù người ta có chê bai mình thế nào, mặc, mình biết rằng con đường mình tu là giải thoát, là đem đến sự hạnh phúc cho bản thân mình và cho những người xung quanh. Vì vậy mà mình không nên đố kỵ, không nên ganh ghét ai cả hết.
Ngược lại thì chúng ta không tật đố, không ganh ghét ai hết thì chúng ta sẽ có quyền thế lớn.
Đó thì quý thầy phải nghe lời Thầy dạy là mình không chê bai ai hết thì quyền thế, uy tín của mình càng ngày càng to lớn. Còn mình chê bai, rỉ tai nói người này, rỉ tai nói người kia thì cái quyền thế mình càng ngày bị mất đi, uy tín của mình càng ngày bị mất đi. Thí dụ như trong huynh đệ chúng ta có những người mà chúng ta không hòa hợp nhau được, rồi chúng ta đem ra nói thầy đó vầy vầy vầy thì tức là chúng ta đã tự hại quyền thế của mình, uy quyền của mình, mình đã tự làm mất vì điều mình nói ra người ta sẽ nghe mà người ta không phải tin mình ngay liền mà người ta còn suy nghiệm, không ai nghe mà người ta tin liền đâu.
Cho nên quý thầy cẩn thận, chúng ta không nên đem một người nào, huynh đệ chúng ta mà nói ra. Mà nói ra thì coi chừng chúng ta vì lòng ganh tỵ hoặc vì cái gì bất mãn, không ưa nhau rồi chúng ta nói ra, rồi chúng ta tự mình giết mình chứ không phải giết người đó đâu. Vì người đó còn quan sát, xét mình nói ra, người ta còn theo dõi coi người đó có đúng không, nếu mà thấy người đó không đúng như lời mình nói thì ngược lại nó sẽ giết mình, lời nói của mình sẽ tự giết mình chết đi, nó làm cho mình mất uy tín với mọi người. Làm cho mình không còn ai tin tưởng mình nữa hết.
Đó là một cái bài học để chúng ta hôm nay Thầy răn nhắc, những bài học mà hôm nay cái giáo án của đức Phật đã đem cái bài này để mà giảng dạy chúng ta, đó là chúng ta phải biết nó ngầm có cái ngã của chúng ta, tâm tật đố ganh ghét là cái ngã của chúng ta đồ sộ nó mới có những cái tâm tật đố ganh ghét này.
Vì vậy mà chúng ta phải thực hiện từ bỏ tâm này, luôn luôn lúc nào không bao giờ nói xấu ai hết. Nghĩa là ai làm nhân nào thì họ gặt quả nấy, chúng ta hoàn toàn không nói ai hết. Ai làm gì mặc họ, chẳng biết gì đến ai. Nếu chúng ta đem rỉ tai nói người đó vầy vầy, người kia vầy vầy là chính người đó là người xấu.
Cho nên chính thầy đã học Phật pháp, một người nào mà nói với Thầy người đó vầy, người kia vậy thì Thầy làm thinh chứ Thầy biết, Thầy đánh giá trị cái người nào rồi, chứ Thầy không đánh giá trị người bị nói xấu đâu mà Thầy đánh giá trị cái người đang nói cho Thầy biết.
Thầy nói như vậy là quý thầy biết rằng Thầy không phải là cái người còn ở trong tâm phàm phu, nghe lời những người khác. Chớ Thầy thấy là hầu hết có một số người không sáng suốt ở chỗ này, khi nghe người đó nói thì người đó liền tin lời liền.
Cho nên Thầy nói như thế này để cho quý thầy biết, biết bao nhiêu người mà họ nói với thầy Thanh Từ về Thầy, Thầy là như thế này, như thế khác. Nhưng thầy Thanh Từ có nghe không? Chắc chắn là Thầy không nghe đâu. Bởi vì một bậc tu hành như HT Thanh Từ, chắc chắn là HT Thanh Từ rất rất là sáng suốt. Vì những bài học này là Phật đã dạy, một người mà đem cái người khác nói xấu người kia cho mình nghe, hoặc là nói cái người đó với mình có những cái này cái kia, nói xấu mình thế này thế kia thì cái người được nghe đó họ có tin không? Nếu là một bậc tu thì họ không bao giờ tin đâu. Mà họ quay lại đặt câu hỏi người đang nói xấu đó là cái người xấu.
Vậy quý thầy phải hiểu, Thầy thì ở trong tâm niệm đó, cho nên Thầy nghĩ rằng HT Thanh Từ cũng là con người ở trong tâm niệm đó, không phải bậc chân tu mà người ta theo tâm trạng phàm phu, nói đâu nghe đó, tin đó đâu, không bao giờ tin.
Hôm nay Thầy nói để cho quý thầy rút tỉa những kinh nghiệm, nhiều khi Thầy thấy cái tâm quý thầy còn yếu đuối, rồi tâm nghĩ đến thương Thầy, vì mình theo Thầy mà người ta phỉ báng thầy mình cho nên mình bảo vệ bằng cách này bằng cách khác cũng sai không đúng.
Là tại sao? Tại vì cách bảo vệ vậy nó không đúng, người ta nói gì thì nói, mặc. Không bảo vệ gì hết, để cho người ta sẽ thấy được. Và người đệ tử của Thầy không lý luận, thầy tôi vầy vầy, thì cái đó cũng là cái sai. Người ta nói mèo khen mèo dài đuôi. Cũng như giờ quý thầy học Thầy, ra nói thầy tôi tu như vầy như vậy, khen Thầy như là ông Phật vậy đó. Thì người ta có tin không?
Người ta đâu có tin quý thầy, quý thầy là đệ tử của Thầy cho nên người ta không tin, người ta còn phải thấy thật, người ta còn phải chứng nghiệm thật. Mà chứng nghiệm thật bằng cái gì?
Bằng cái mà quý thầy huênh hoang khoe Thầy như vậy là người ta thấy: học trò của ông thầy đó như vậy, huyênh hoang ông thầy đó như vậy thì ông thầy đó cũng như vậy mà thôi.
Các thầy phải hiểu điều đó, cho nên một người trí người ta đánh giá trị ngược lại khi mình huyênh hoang khoe ông thầy mình. Còn trái lại người ta khen, người ta chê, mặc.
Rồi đây các người sẽ thấy, hiểu biết được. Do đó người ta thấy cái người đệ tử của Thầy trước lời người ta phỉ báng thầy mình vẫn âm thầm vui vẻ, không có buồn, không có tức giận gì hết thì biết rằng hạnh tu của những bậc này không phải thường.
Còn thấy người ta mạ nhục thầy mình, nói thầy mình như thế này như thế khác, mình sùng lên, thì kia ở thế gian họ cũng vậy, có hơn gì mình đâu.
Cho nên hôm nay những bài học này là bài học của những người cư sĩ để chúng ta biết, chúng ta giữ gìn. Nhất là những người cư sĩ thường tiếp xúc, còn chúng ta là những tu sĩ xuất gia chúng ta ít tiếp xúc đời, cho nên chúng ta không có cái khen chê đó.
Nhưng những người cư sĩ đến với Thầy rồi về sống trong gia đình, nhiều khi nghe người ta chạm đến Thầy mình là sùng tức lên liền. Do bài này là bài học của những người cư sĩ còn tại gia muốn bảo vệ thầy mình, chẳng bao giờ nói lời nói nào hết. Họ nói gì mặc, còn mọi người còn để phán xét chứ đâu phải nói ra rồi người ta tin theo cái lời ông đó đâu.
Cho nên quý thầy phải hiểu biết ở cái chỗ Thầy dạy ra là mỗi mỗi chúng ta đều phải thực hiện ở oai nghi tế hạnh, cái đức hạnh của chúng ta ở chỗ đó.
Nhân cái bài dạy người cư sĩ tu tập ở giai đoạn thứ nhất này thì quý thầy sẽ hiểu biết được cái chỗ trích dẫn ra những lời Phật dạy này nhằm mục đích để chúng ta sẽ thực hiện được đức hạnh của người cư sĩ là đệ tử của đức Phật.
5. Nhân Quả Giàu Và Nghèo
Nếu một người đàn ông hay một người đàn bà tâm lòng nhỏ mọn, ích kỷ, không bố thí, không san sẻ, nghĩa là người nhỏ mọn, ích kỷ không có bố thí, không có san sẻ, không có cúng dường, thí dụ luôn luôn lúc nào cũng 9 đồng kiếm thêm đồng nữa để được 10 đồng. Tiết kiệm không dám xài phí thì cái người đó là người không có bố thí, không có lòng rộng rãi thì người này họ chết đi, họ sanh làm người thì con người của họ nghèo khổ. Tài sản của họ không có, mà có đi nữa cũng chỉ có rất nhỏ.
Đó là hiện bây giờ chúng ta thấy trong xã hội có những người nghèo khổ, rách rưới lang thang không nhà không cửa hoặc là có chút ít tài sản đủ ăn qua ngày. Thì những người đó trước là có lòng ích kỷ, hẹp hòi không có biết bố thí san sẻ. Không phải chúng ta nghèo mà chúng ta không bố thí được. Do cái lòng chúng ta đâu có cần chúng ta phải nhiều tiền nhiều bạc. Thí dụ bây giờ chúng ta nghèo, chúng ta không có mà chúng ta thấy người đó nghèo hơn mình, khổ hơn mình hoặc là đang cơn đói, mình chỉ cần san sẻ cho họ một bát cơm, một đồng bạc nó quý hơn là người giàu bỏ ra một triệu bạc. Cái lòng của chúng ta, cái lòng mà người nghèo mà san sẻ, cái tâm mà biết san sẻ bố thí biết cúng dường nó sẽ làm người đó sống trong cảnh đầy đủ và giàu sang, có của cải tài sản lớn.
Cho nên khi mà chúng ta ích kỷ, bỏn xẻn, tiện tặn, không dám bỏ ra cho ai hết, để có bao nhiêu thì mình chi dụng cho mình, cho gia đình mình, thì ngay trong kiếp này họ chắt bóp từng đồng chứ chưa chắc là đã giàu được. Thế rồi kiếp tới họ, họ còn nghèo khổ hơn và tài sản chẳng có gì, có chăng cũng chỉ chút ít mà thôi, cho qua ngày trong cuộc sống của họ.
Phật dạy ở đây để chúng ta muốn được làm giàu, được có tiền nhiều là do có sự bố thí, sự san sẻ, giúp đỡ những người bất hạnh ở trong xã hội của chúng ta.
Do vì vậy mà con đường này, hành động này đưa đến cảnh nghèo khổ của con người.
Hành động ngược lại, mà bố thí, san sẻ, cúng dường. Hành động đó sẽ đưa chúng ta đến tài sản lớn, giàu sang, có tiền của đầy đủ không bao giờ thiếu ăn thiếu mặc.
So sánh được như vậy thì trong cảnh nghèo chúng ta vẫn bố thí.
Cho nên xưa có một bà già đi ăn xin, bà rất nghèo, trong buổi hôm đó bà đi xin mà không được gì hết. Nhưng ông Ca Diếp thấy bà già này cần phải độ bà. Mà bây giờ bà nghèo quá, suốt đời bà không biết bố thí cho ai hết, đi xin mà bà còn không đủ ăn mà, làm sao bố thí cho ai được. Cho nên ông Ca Diếp tìm mọi cách cứu bà này thoát ra cảnh nghèo đói. Cho nên ông đến xin bà: bà hãy bố thì cho tôi thì bà sẽ được giàu sang sung sướng, bà sẽ được đầy đủ hơn, bà hãy bố thí đi, có cái gì bà bố thí đi.
Bà nói: tôi xin hồi sáng đến giờ không được 1 đồng xu đồng điếu nào hết, làm gì tôi bố thí được ông. Tôi còn đói gần chết mà làm sao tôi cho ông được.
Thì ông Ca Diếp ông nài nỉ: bà hãy bố thí đi, bà hãy bố thí cái gì mà bà có trong người của bà, cái gì mà bà có trong lòng của bà thì bà hãy bố thí đi.
Bà nghe ông thầy này nài nỉ bà bố thí một cách rất tha thiết cho nên bà quỳ xuống nói: bây giờ bà chỉ có tấm lòng bố thí cho ông mà thôi, bà dâng 2 bàn tay lên đối với ông Ca Diếp.
Thì ông Ca Diếp nhận sự bố thí của bà với tấm lòng thành của bà chứ chẳng có đồng xu, đồng điếu nào hết, hoàn toàn chẳng có vật gì. Nhưng đêm hôm đó bà chết, thì bà được sanh lên cõi trời. Bây giờ bà đã được hưởng đầy đủ, cái ăn cái mặc gì cũng được đầy đủ.
Đó thì chúng ta thấy chỉ cái một cái lòng bố thí chỉ một chút như vậy với một bậc Alahan thì ngay đó phước báu rất là lớn, rất là vĩ đại, được sanh lên cõi trời liền tức khắc.
Qua một chuyện bố thí này thì chúng ta, người cư sĩ chúng ta cũng cần phải học, học để làm gì? Để chúng ta biết bố thí, để chúng ta biết san sẻ trước những cảnh khổ. Mình khổ còn có người khổ hơn. Mình còn có mái nhà còn người ta ngủ ngoài hè phố, người ta còn ngủ dưới gầm cầu. Mình còn sung sướng hơn. Do đó, mình hãy bố thí cho họ một nắm cơm, một đồng bạc, mặc dù mình đang trong cảnh rất là bức bách, nghèo khổ.
Mình hãy cúng dường cho những bậc chơn tu, giới đức thanh tịnh, thiền định sâu mầu thì công đức thành tâm cúng dường đó nó sẽ đưa chúng ta đến đầy đủ cơm ăn áo mặc hơn. Nhớ cái hạnh bố thí là cái điều rất tốt để giúp cho đời hiện tại cũng như mai sau, chúng ta mãi mãi đầy đủ cơm ăn áo mặc, không thiếu.
Đến đây chúng ta sẽ học thêm một bài nữa.
6. Nhân Quả Hạ Liệt Và Cao Quý
Nếu một người đàn ông hay một người đàn bà tính tình ngạo nghễ, kiêu mạn, không tôn kính những bậc đáng tôn kính, không biết nhường chỗ ngồi, nhường lối đi cho những người già yếu, bệnh tật.
Thì bây giờ chúng ta thấy cái tính tình ngạo nghễ, kiêu mạn là tính tình rất xấu. Nó sẽ đưa đến chỗ nhân quả nào đây?
Đây chúng ta sẽ thấy con đường này. Do nghiệp ấy thành tựu, tức là trở thành thói quen ngạo nghễ, kiêu mạn đó, sau khi thân hoại mạng chung người ấy được sanh về nơi ác thú, đọa xứ, trong cảnh khổ đau. Sau khi sanh lên làm người, sanh trong gia đình hạ liệt, ăn học không đến nơi đến chốn, thường làm những việc lao công cực khổ, bị người khác sai khiến, sai bảo. Đó là con đường đưa đến những gia đình hạ liệt, nghèo khổ.
Vậy thì nếu mà đời này mình ỷ mình có tiền có bạc, có quyền thế nọ kia, có học hành nọ kia mà mình kiêu mạn, coi người ta không ra gì. Ỷ mình tu hành tốt, mà người khác tu không ra gì.Mình có vẻ tự kiêu tự đại của mình, ngạo nghễ của mình, thì hành động, nhân quả này, nghiệp này sẽ đưa chúng ta sanh trong những gia đình hạ liệt. Làm chúng ta không đủ phương tiện đi học, hạ liệt làm sao chúng ta có tiền, gia đình hạ liệt làm sao có sự hiểu biết cho nên làm sao cho con mình đi học đầy đủ, làm sao có đủ duyên mà tu hành.
Cho nên tất cả những cái này là do tánh kiêu mạn, ngạo nghễ của chúng ta mà đưa chúng ta đi đến cái lối này. Làm cho cái đời của chúng ta kế tiếp nó sẽ là bước đường rất là đau khổ, không bằng ai hết trong xã hội.
Ngược lại, quý thầy thấy rất rõ, nếu mà chúng ta diệt tính kiêu mạn, ngạo nghễ, mặc dù chúng ta sống trong gia đình rất là giàu sang chúng ta không kiêu mạn ai hết, không khinh chê ai hết. Chúng ta học hành giỏi, chẳng kiêu mạn, chẳng ngạo nghễ hơn ai hết. Rồi chúng ta có làm những nghề nghiệp kinh tế dồi dào chúng ta cũng chẳng khinh chê ai hết, nghĩa là mình phải xét qua những nhân ác, nhân thiện, qua những hành động bố thí của người ta, do đó lúc nào mình cũng khiêm hạ, từ tốn, không có kiêu mạn, không có ngã mạn trước mọi người, mọi hoàn cảnh. Thì lúc bấy giờ chúng ta sẽ sanh vào ở trong những gia đình cao quý, giàu có.
Đó là con đường đưa đến gia đình cao quý, khi mà mở mắt chào đời thì chúng ta sinh trong gia đình có học thức, cao quý, có tiền bạc, có đầy đủ những quyền thế.
Đó là cái tánh ngã mạn, kiêu căng của chúng ta, mà Thầy thấy hầu hết chúng ta sanh ra là mọi người đều có tánh ngã mạn, kiêu căng đó, hoặc là ngầm hoặc là lộ ra cho mọi người thấy.
Thì tất cả những cái này là những cái đưa đến con đường hạ liệt hay cao quý. Cho nên những lời dạy của Thầy ở đây hầu như giúp cho quý cư sĩ phải thấy rõ được con đường tu tập của mình. Để cho mình dứt bỏ cái tâm ngạo mạn, cái tâm ngã mạn của mình đi. Đừng có xem thường ai hết, bởi vì ai cũng là một con người, thậm chí như một con vật mình cũng thấy nó bằng mình. Vì Phật đã nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tức là đều có sự bình đẳng với nhau đó.
Cho nên vì vậy chúng ta đối xử với mọi người, người nghèo người khổ cũng như tất cả mọi người xấu tốt gì, tất cả đều là do nhân quả của họ, chúng ta hoàn toàn là không khinh chê người nào hết. Mà khinh chê thì tức là có ngã của chúng ta, mà có ngã thì coi chừng cái kiêu căng ngạo nghễ của chúng ta theo đó mà ra. Cho nên từ đó chúng ta phải thấy nghiệp của chúng ta, cái nhân nào nó sẽ chiêu cảm nghiệp nấy mà nó đưa chúng ta đi đến khổ sở.
Sau khi quý thầy đã nhận thấy nghiệp dẫn đi trong luân hồi, trong cảnh giới khổ vui, hạnh phúc hay bất hạnh, giàu sang tốt xấu đều do nghiệp dẫn đi.
Nghiệp là gì, nghiệp là những hành động thân khẩu ý của quý thầy tạo ra.Quý thầy thấy cái nghiệp từ đâu mà có, nó đi từ cái miệng của mình, cái thân của mình, cái ý của mình mà nó ra, mà nó tạo ra những cái mà Thầy đã nói ở trên, để tạo ra cho chúng ta chỗ hạnh phúc an vui hoặc là chỗ đau khổ, hoặc là chỗ trường thọ, chỗ yểu tử.
Đó là những điều mà chúng ta đã thấy, vì vậy mà chúng ta phải phòng hộ, giữ gìn mắt tai mũi miệng thân ý của mình rất là cẩn thận kỹ lưỡng. Cho nên Phật dạy chúng ta Thánh phòng hộ. Nghĩa là chúng ta phải phòng hộ đúng mực của nó. Luôn luôn lúc nào cũng dè dặt cẩn thận giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình, nhất là thân - khẩu - ý của chúng ta, ba nơi hành động của thân chúng ta để tạo thành nghiệp.(BBT:CĐ,03B,00:36:08)(BBT:BN,03,00:44:15)
Thập ác đem đến cho quý vị khổ đau, do đó quý vị phải học thập thiện, sống thập thiện. Đó bây giờ người cư sĩ phải tu tập cái gì, họ phải học cái gì đây?Họ phải học thập thiện tức là 10 điều lành, họ phải sống đúng trong 10 điều lành.
Quý vị đã nghe, đã biết cái nghiệp của mình rồi chứ gì. Những hành động mà tạo cho quý vị khổ đau, đưa quý vị đến khổ đau thế này thế khác mà kinh Phật đã dạy chúng ta như vậy, Thầy trích ra những điều thế này, Thầy giảng thêm để cho quý vị rất rõ về nghiệp nó từ đâu mà có, và bây giờ chúng ta đại khái, nó rất nhiều chứ nó không phải chỉ có những phần này không đâu. Bởi vì nếu mà được thầy giảng về nhân quả luân hồi, nói về nhân quả thì nó có những bài, cái hành động của quý vị làm cái gì thì nó sẽ có cái nghiệp đó đến với quý vị, có cái nhân quả của nó đến với quý vị.
Thì ở đây những bài này nói nghiệp nhưng thực ra đó là nhân quả đó, cái nhân quý vị làm cái gì thì cái quả quý vị phải thọ lấy cái đó. Như cái nhân của mình ngạo nghễ, kiêu mạn thì mình sẽ sanh được vào quả của mình là sinh vào nhà nghèo khổ, hạ liệt. Còn cái nhân của mình không có kiêu mạn, không có ngạo nghễ, không khi dễ ai hết thì cái nhân đó mình sẽ sinh được vào nhà quyền quý, cao quý.
Quý thầy thấy từ đó mà chúng ta suy ra nhân quả, mà nhân quả thì đó là nó tạo thành thói quen, mà thói quen đó gọi là Nghiệp.
Học Tập Thập Thiện
Thì chúng ta biết được con đường như vậy, thì chúng ta là những người cư sĩ, chúng ta phải tiến tới học thập thiện. Thập thiện tức là 10 điều lành. Mà 10 điều lành này là của người cư sĩ. Mà đức Phật nói 10 điều lành này là để tạo cho chúng ta một cái hướng sanh về cõi trời. Thập thiện tức là những vị trời đều là những người sống ở trong thập thiện hết, cho nên mới được sanh về cõi đó, cho nên trời là phải sống thập thiện.
Vì vậy mà người cư sĩ chúng ta còn tại gia, chúng ta chưa xuất gia thì chúng ta phải tu học, tập luyện và sống cho đúng thập thiện. Kế đến quý vị phải tu Tứ chánh cần. Nếu muốn thực hiện thập thiện cho đạt được thì pháp Tứ chánh cần quý vị phải tu tậpQuý vị phải thấy được đường lối của đạo Phật.
Nếu mà quý vị học hiểu được Thập thiện, mà quý vị không tu Tứ chánh cần á, thì quý vị chẳng hề mà thực hiện được Thập thiện. Tức là quý vị không sống được Thập thiện. Và quý vị phải giữ gìn Ngũ giới, lúc bấy giờ quý vị phải được người ta trao cho quý vị những cái giới để quý vị nghiêm chỉnh, thì cái hạnh phúc của gia đình quý vị sẽ mãi mãi, suốt đời không còn khổ đau, không còn phiền não nữa. Nghĩa là vợ nói chồng nghe, chồng nói vợ nghe, không bao giờ mà có sự rầy rà ở trong gia đình, con cái rất là hiếu thảo. Đó đến đây thì quý vị thấy rất rõ, khi mà quý vị học Thập thiện và sống được Thập thiện thì quý vị phải tu tập Tứ chánh cần. Mà phải tu tập Tứ chánh cần thì trong Tứ chánh cần quý vị thấy rằng: cái giai đoạn mà ở đây Phật dạy đó, cái giai đoạn mà Tứ chánh cần thì đức Phật dạy dứt bỏ những gì phải dứt bỏ. Thì cái giai đoạn thứ ba là rất cần thiết cho người cư sĩ, nghĩa là mình phải dứt bỏ.
Thì Tứ chánh cần như thế nào, Thầy giảng sơ, sau này Thầy sẽ giảng Thập Thiện này, Thầy sẽ giảng Tứ chánh cần để cho biết cách thức tu bởi vì đây là giai đoạn thứ nhất của người cư sĩ phải tu, nếu mà không biết pháp tu làm sao tu cho được.
Cho nên muốn tu Tứ chánh cần thì trong bài kinh Phật dạy nó rất đơn giản, nhưng mà giải ra thì nó không phải là đơn giản đâu, không đơn giản như quý vị hiểu đâu. Nghĩa là Tứ chánh cần Phật nói các pháp ác chưa sanh thì chúng ta không cho sanh, mà đã sanh thì cần phải đoạn dứt, từ bỏ liền, không có cho nó tăng trưởng. Các pháp thiện chưa sanh thì chúng ta cho nó sanh, khởi lên cho nó sanh, mà nó đã sanh thì chúng ta tăng trưởng. Đó là Tứ chánh cần, đơn giản chúng ta hiểu như vậy. Nhưng mà sau này thì Thầy sẽ giảng thêm cách thức chúng ta tu tập Tứ chánh cần. Bởi vì nói về thiền định thì gọi Tứ chánh cần là Định tư cụ, là cái dụng cụ để tu thiền định sau này, cho nên ngay từ người cư sĩ mà chúng ta tu tập Tứ chánh cần này là chúng ta chuẩn bị cho con đường tu thiền định của mình sau này chớ không phải gì khác hết.
Mà chính tu Tứ chánh cần này nó sẽ giúp cho chúng ta có một đời sống thập thiện, sống đời sống 10 điều lành. Mà đời sống 10 điều lành này làm cho đời sống quý vị, gia đình quý vị, bà con chòm xóm, làng xã, xã hội của quý vị rất là an vui và hạnh phúc.
Được học và hiểu Phật pháp đến đây sau những ngày áp dụng những bài học vào đời sống của quý vị, quý vị sẽ thấy kết quả an vui hạnh phúc chơn thật của đời sống con người. Nghĩa là lúc bấy giờ quý vị đến xin, lúc này quý vị đã áp dụng được bài học này rồi thì mới đến xin thọ Tam quy, Ngũ giới. Được một vị thầy đại diện cho ba ngôi Tam bảo truyền Tam quy, Ngũ giới cho mình. Còn nếu mình chưa được thì mình vô mình xin thọ Tam quy, Ngũ giới coi chừng mình phạm những lỗi rất lớn. Bởi vậy khi chuẩn bị cho một người cư sĩ thì nó phải đâu ra đó hẳn hòi rồi mới thọ Tam quy - Ngũ giới. Nhưng mà hiện tại bây giờ thì Thầy thấy người cư sĩ muốn đến xin thọ Tam quy - Ngũ giới thì họ nghiên cứu kinh sách một cách rất là bừa bãi… chứ chưa hiểu cách thức tu tập như thế nào.
Cho nên mình chưa có giữ gìn được những cái hạnh, cái đức của mình cho nghiêm chỉnh như một người đệ tử. Mình vô rồi bắt đầu từ đó mình mới tu tập sau. Nhiều khi mình tu tập cũng không thành ra một vấn đề gì nữa hết. Nghĩa là thọ Tam quy cho có Tam quy vậy chứ còn thiệt ra chưa có hẳn làm mình sống như Phật - Pháp - Tăng. Mình thọ Tam quy tức là mình nương theo 3 ngôi Tam Bảo, thế mà mình không có theo ba ngôi Tam bảo mình sống. Ông Phật sống như thế nào? Mình sống được như ông Phật chưa? Chưa.
Vậy mà mình thọ Tam quy là thọ làm sao? Còn thọ Ngũ giới thì có người khi thọ Ngũ giới thì nói con bị nghiền rượu thôi con xin để cái này tập tu lần lần lần lần chứ bây giờ con không dám hứa là con giữ gìn được cái giới đó đâu. Thầy thấy có nhiều người khi mà hỏi họ giới thứ 5 này có giữ được hay không, họ nói cái giới này con giữ chưa được vì con còn nghiền rượu. Để chừng nào con bỏ rồi con mới giữ được. Thôi bây giờ cái giới này để con từ từ sau rồi con giữ. Mà bây giờ 5 giới như vậy đó mà mình không chuẩn bị cho mình, đến đó mình còn hứa hẹn để cho mình tu từ từ thì chắc chắn là người này không bao giờ từ từ được hết và đồng thời họ cũng xem thường Tam quy - Ngũ giới của Phật là cái điều lành, là một pháp môn để đem lại đời sống cho người cư sĩ hạnh phúc và an vui trong gia đình của họ.
Những gì của Phật pháp đều là đem lại sự giải thoát, đem lại sự an vui, mà chúng ta đi đến với Phật pháp thọ Tam quy - Ngũ giới rồi, Thầy thấy mà gia đình Phật tử thọ Tam quy - Ngũ giới rồi, thầy thấy lộn xộn chứ chưa hẳn là có trật tự, có hạnh phúc ở trong đó. Cha vẫn rầy mắng con, không có tìm hiểu con mình như thế nào. Con thì cãi lẫy cha mẹ, muốn đi chơi là đi, muốn ngang dọc như thế nào cũng không cần thiết cha mẹ. Vợ con ở nhà thì rầy rà, giận hờn, canh chẳng ngon mà cơm chẳng lành, nó đủ thứ ở trong gia đình hết. Thế mà người nào cũng đến quy y Tam bảo - Ngũ giới. Người nào cũng có pháp danh này, pháp danh kia rẫy đầy. Thế mà cuối cùng thì cái giải thoát, đem lại đời sống cho họ thì không có. Cho nên Thầy thấy thiệt là quá đau khổ cho những người đệ tử của Phật trong giai đoạn này.
Nếu mà được học giáo án này mà chấp nhận cho một người cư sĩ vào đạo, chúng ta phải trang bị cho họ những pháp môn tu hành nào, những cái gì chúng ta phải dạy cho họ trước. Sau khi họ đã thấm nhuần được, bây giờ mới làm lễ cho họ thọ Tam quy - Ngũ giới thì chừng đó người cư sĩ đệ tử của Phật có phải là đem lại hạnh phúc cho gia đình họ, đem lại sự không đau khổ cho mọi người trong gia đình họ. Còn bây giờ chúng ta không có trang bị cho họ những gì theo giáo án này mà nếu trang bị cho họ đầy đủ rồi thì khi họ thọ Tam quy - Ngũ giới xong rồi, thì họ làm đệ tử Phật thì họ đã xứng đáng chưa? Rất xứng đáng. Họ đem lại hạnh phúc cho gia đình họ, sự an vui cho chòm xóm của họ, không bao giờ họ còn say sưa chửi bới chòm xóm, không bao giờ họ còn giận giữ một con chó, con gà của chòm xóm qua nhà họ mà họ làm thế này thế khác. Đó là những cái chúng ta phải trang bị những pháp môn, những sự thông hiểu, những hiểu biết cho người cư sĩ sắp sửa là đệ tử Phật. Khi họ thọ Tam quy - Ngũ giới thì họ là đệ tử Phật.
Đạo Phật không chấp nhận những người cư sĩ chuyên tâm:
Quý vị phải hiểu khi mình đã thọ Tam quy - Ngũ giới rồi mà mình còn những điều này thì đức Phật làm sao chấp nhận mình là đệ tử của Phật được:
1. Làm khổ người
Hở ra một chuyện gì mình mạ nhục mình đánh đập người ta, mình coi đầy tớ của mình không phải là con người nữa, lúc mình tức giận. Cho nên đó là cách thức mình làm khổ người.
2. Làm khổ mình
Mỗi mỗi chút nào cũng rầu lo, cũng tức giận ở trong người của mình, thì như vậy mình có xứng đáng là đệ tử của Phật không? Người đệ tử của Phật không bao giờ tức giận, luôn luôn lúc nào chúng ta cũng thấy sự phiền não tức giận của mình tức là mình đã tự làm khổ lấy mình rồi. Mình hãy xả bỏ cái đó đi. Thì cái người mình đã đã trang bị cho người cư sĩ sắp sửa trở thành người đệ tử của Phật chính thức thì họ không bao giờ họ làm khổ họ, mà không bao giờ họ làm khổ người.
Thì như vậy, một cái người thầy mà đại diện cho Phật Pháp, là một vị Tăng, là khi một người cư sĩ họ trở thành một (BBT:CĐ,03B,E00:47:35) đệ tử của Phật là mình (BBT:BN,03,00:54:53)(BBT:CĐ,04A,B00:00:17) phải trang bị cho họ đầy đủ những pháp môn, những điều kiện để đến khi họ trở thành một người đệ tử của Phật thì họ thấy rõ ràng đi vào đạo Phật có sự giải thoát cụ thể, có một đời sống rất là an vui hạnh phúc chứ không phải là như những gia đình chưa biết đến đạo Phật. Còn bây giờ chúng ta thấy bao nhiêu Phật tử đến với đạo Phật, là đệ tử cư sĩ đạo Phật, cúng dường thì có nhưng mà hạnh phúc của họ thì có không? Họ cúng mãi cúng mãi, bao nhiêu chùa tháp xây dựng lên vĩ đại mà cuối cùng gia đình họ Thầy thấy hoàn toàn là tan nát, rầy rà chửi mắng đủ điều chứ chưa phải là hạnh phúc trong đó.
3. Làm khổ người, làm khổ mình
Nghĩa là làm cho người ta khổ, làm cho mình khổ. Ví dụ bây giờ một đứa con mình sai thì mình không nên tức giận, la rầy, chửi mắng đứa con, mà phải nên ôn tồn, nhỏ nhẹ khuyên bảo với những lời nói nghiêm trang cộng với gương mặt nghiêm nghị. Mỗi lời nói của mình phải vạch ra cho nó thấy những hậu quả tai hại sẽ làm khổ bản thân chính nó, mà còn chính những điều này sẽ liên lụy làm khổ cha mẹ và anh em trong gia đình. Bắt đầu từ đây con phải chừa bỏ vì đó là một điều tai hại làm buồn khổ cho cả gia đình. Tuy bây giờ chưa có gì xảy ra, nhưng những hành động của con vui chơi với bạn bè vô ý thức, hậu quả sẽ xảy ra to lớn, khổ đau cho gia đình chúng ta. Con hãy suy nghĩ kỹ lại đi, đừng bê tha với những người bạn bè hư thân, rượu chè, bài bạc, đua xe gắn máy cùng những gái buôn hương bán phấn mất nết hư thân. Hãy tìm bạn tốt mà chơi con ạ. Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Con hãy nhớ lấy những câu tục ngữ này, còn nhỏ phải siêng năng học tập, sau này lớn lên mới trở thành người hữu dụng cho bản thân con và xã hội. Cha mẹ sẽ mất đi không thể sống mãi nuôi con. Con phải tự nuôi sống lấy, phải bảo bọc gia đình của con bằng chính bàn tay và khối óc của con.
Những lời dạy này đã không làm khổ người mà có những lời khuyên răn dạy bảo con đúng cách làm cha mẹ. Bởi vậy không chấp nhận làm khổ người. (BBT:BN,03,E00:55:40)(BBT:CĐ,04A,E00:03:03)

XIN MOI XEM TIẾP BĂNG SỐ 04

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét