20/1/15

GIÁO ÁN TU TẬP CỦA NGƯỜI CƯ SĨ BĂNG SỐ 20

BĂNG SỐ 20
(Missing)
(BBT:CĐ,20A,B00:25:42)(BBT:BN,18,B01:10:26)Bây giờ Thầy bắt đầu tiếp tục cái bài giảng bữa trước.
Trau dồi cái kia, tu tập cái nọ thì quý vị sẽ vứt bỏ những hỷ lạc ngon ngọt của thế gian thường tình xong thì mới có thể nếm được mùi vị hỷ lạc xuất thế gian. Bây giờ quý vị mới rõ chớ không phải con đường tu hành theo đạo Phật khô cằn, khô cỗi như bãi sa mạc toàn là cát và nắng nóng bức khó chịu.
Vì thế có người hỏi Thầy: Nếu tất cả mọi người đều tu theo đạo Phật thì thế gian này đâu còn có con ngườ?Đó là đứng núi này mà trông núi khác hoặc là muốn hiểu núi khác thì không thể nào hiểu được. Như con cá ở dưới nước làm sao biết được sự sống trên đất bằng. Cho nên con người thường sống hằng tưởng nên thường tưởng sai. Thậm chí ngay trong thân tâm này của họ, họ còn hiểu không nổi hết huống là họ hiểu cảnh giới của các bậc Thánh Hiền.
Đó thì các thầy muốn mà để hưởng được cái hỷ lạc của các bậc Thánh Hiền, của bậc xuất gia thì phải dứt bỏ cái hỷ lạc của thế gian. Bởi vì nếu mà không có dứt bỏ cái hỷ lạc của thế gian thì không thể nào mà hưởng được cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian được. Bởi vì cái hỷ lạc đó là cái hỷ lạc dục cho nên phải ly dục, ly ác pháp của thế gian ra, thì cái dục lạc của thế gian nó không còn có nữa thì cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian nó mới có. Vì vậy bây giờ chúng ta còn ôm ấp cái dục lạc của thế gian, làm sao chúng ta biết được cái mùi vị của xuất thế gian được. Cho nên hầu hết là quý vị ngồi thiền nhập định mà có trạng thái hỷ lạc, khinh an, điều đó đều là sai hết. Bởi vì chính mình chưa có ly được cái dục lạc của thế gian, tâm mình còn dính mắc cái này, cái kia cái nọ, mặc dù là mình là một vị tu sĩ nhưng mà vẫn còn dính cái chùa chứ chưa đâu phải là mình là một vị du tăng khất sĩ, ba y một bát, không còn chùa không còn cái vật gì gọi là của mình hết như vậy mình mới thấy được cái hỷ lạc của bậc xuất thế. Còn mình chưa có được như vậy mà mình tưởng tượng ra nào là khinh an, nào là hỷ lạc, nào là thế này thế kia, thì cái đó toàn là thứ dục lạc chứ không phải hỷ lạc.
Bởi vì tu hành chúng ta phải biết được cái hỷ lạc nào là chơn chánh, cái hỷ lạc nào mà nó không chơn chánh. Cái hỷ lạc mà đem đến chúng ta muôn thứ khổ đó là hỷ lạc của dục, còn hỷ lạc mà đem chúng ta yểm ly, xa lánh tất cả các sự ham muốn, sự lôi cuốn của thế gian, của các pháp thế gian nó làm cho chúng ta xa lìa được những cái khổ đau đó, thì đó là cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian. Nhưng muốn nếu nếm được mùi vị của nó thì chúng ta phải tách lìa, xa lìa cái hỷ lạc của thế gian thì chúng ta mới thọ hưởng được cái đó. Còn nếu mà không xa lìa, không tách lìa thì chắc chắn là chúng ta không có thọ hưởng được. Cũng như con cá mà muốn biết được ở trên đất bằng sống như thế nào thì ít ra nó cũng phải lìa khỏi cái sông, cái hồ nước của nó, mà nó lên đất bằng nó mới biết được. Còn bây giờ nó ở dưới nước mà nó muốn biết được ở trên đất bằng thì làm sao nó biết được. Cho nên đó là những điều mà chúng ta phải ly được thì chúng ta mới thấy được.
Vì vậy khi mà chúng ta phải thấy được 2 cái lộ trình mà đức Phật đã vạch ra thì chúng ta biết điều đó rất là rõ ràng. Nếu mà chúng ta không thấy được 2 lộ trình này thì chắc chắn khó mà chúng ta có thể đạt được kết quả của cái sự tu hành theo đạo Phật. Vì cái lộ trình của đạo Phật là xuất thế gian, ly tất cả các dục, các ác pháp của thế gian, thì chúng ta mới thực hiện được cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian. Đó thì như vậy không có nghĩa là con đường mà đi tu theo đạo Phật nó khô cằn khô cội, mà cho đến khi không còn có người Không có thai sanh thì tức là chúng ta phải có hóa sanh, mà hóa sanh là nó phải lìa cái dục, nó mới hóa sanh được. Còn nếu mà chúng ta chưa lìa dục làm sao chúng ta hóa sanh được. Cũng như bây giờ chúng ta còn ở trong dục mà chúng ta muốn có thần thông thì thần thông đó là thần thông gì? Thần thông huyễn hoặc, thần thông như là một cái trò ảo thuật gạt người ta. Còn cái thần thông thực là chúng ta phải có một cái sự ly tất cả các dục này thì chúng ta mới sống được hóa sanh. Hóa sanh thì tức là chúng ta muốn như thế nào ? Như là Tứ như ý túc, Dục như ý túc là chúng ta muốn như thế nào nó phải thành tựu như thế ấy. Chúng ta muốn sanh là sanh mà chúng ta không muốn sanh là không sanh. Chớ không phải là bây giờ chúng ta muốn sanh nó cũng không được, mà chúng ta muốn chết cũng không được, muốn sống cũng không được. Đó là chúng ta không có quyền. Còn khi mà cái người mà ly được cái dục lạc thế gian này rồi thì người ta có quyền sống chết, người ta muốn sanh như thế nào là theo cái ý của người ta muốn, muốn người lớn là lớn mà nhỏ là nhỏ. Bởi vì khi mà chúng ta lìa khỏi dục lạc thế gian rồi thì chúng ta có cái sự tự tại như vậy đó.
Cho nên đạo Phật nhắm vào cái chỗ mà chúng ta ly thế gian, ly các pháp thế gian ra thì chúng ta mới đạt được cái kết quả của cái sự làm chủ. Mà cái sự làm chủ đó nó không có nghĩa là làm cho hoại diệt, làm cho tiêu diệt con người ở trên thế gian này. Mà thể hiện con người trên thế gian này càng cao đẹp, càng tốt đẹp hơn và tâm hồn mỗi con người đều có những cái lòng thiện biết thương nhau, biết chan hòa với tình thương nhau, chơn thật không biết ganh đua, không biết tỵ hiềm, không biết tham sân si mạn nghi, không có ngũ triền cái, không có ngũ kiết sử, không có thất kiết sử ở trong đó. Cho nên toàn là hạnh phúc của mọi người với nhau. Vì vậy mà chúng ta thấy con đường của đạo Phật là con đường rất rõ ràng, thực hiện nó một cách là chúng ta lìa xa khỏi cuộc đời ham muốn của thế gian là chúng ta đã đạt được đạo Phật chớ đâu có gì khác hơn.
Như trước kia Thầy đã dạy 25 giới hành thuộc về thân hành, còn 13 giới đức thuộc về tâm hành.
Trạng thái tâm hành là gì? Trạng thái tâm hành là thiền định cho nên thân thuộc về giới hành (à, giới hành hay là giới hạnh) còn tâm thuộc về giới định.Vậy 13 giới đức tức là 13 định trong giới luật của đạo Phật, cho nên có chỗ Phật gọi là giới tâm tuệ. Nghĩa là thay vì Phật gọi Tam vô lậu học đó, Phật gọi Giới - Định -Tuệ, thì có chỗ Phật lại gọi là Giới – Tâm - Tuệ. Cho nên tâm tức là giới đức của chúng ta, vì vậy mà chúng ta hiểu rõ được cái con đường đi của chúng ta chia làm ba cái giới rất rõ. Mà ba giới rất rõ này nó chỉ cho chúng ta nằm ở trong cái vị trí của tam vô lậu học Giới - Định -Tuệ.
Vậy thì giới hạnh tức là giới bổn Pātimokkha, mà giới đức tức là định, mà giới tuệ là huệ. Đó là những điều mà hôm nay quý thầy mới thấy rõ được điều kiện của đạo Phật Giới – Định – Tuệ hoàn toàn thuộc về giới, chớ không có gì khác hơn hết. Nhưng mà vì vị trí của giới nào nó ở vị trí nấy, nó có cái phận sự ở đó, nó làm cho tâm, làm cho hành động của chúng ta thanh tịnh, làm cho tâm chúng ta thanh tịnh, làm cho trí tuệ chúng ta thanh tịnh thì gọi là Giới. Cho nên lúc đầu Thầy có giới thiệu đó:
Giới làm cho trí tuệ thanh tịnh mà trí tuệ làm cho giới thanh tịnh.
Các thầy nhớ cái chỗ đó, vì ở đâu có trí tuệ thì ở đó có giới luật, mà ở đâu có giới luật thì ở đó có trí tuệ. Cho nên cái trí tuệ của giới hạnh, nếu mà chúng ta có trí ở trong cái giới hạnh thì cái hành động hằng ngày của chúng ta nó phải thanh tịnh. Mà cái hành động được thanh tịnh như vậy thì ở đó phải có trí tuệ.
Cũng như giới đức: Ở đâu mà có tâm thanh tịnh thì ở đó nó sẽ có trí tuệ, mà có trí tuệ ở đó thì phải có giới đức ở đó.
Cũng vậy, cái giới tuệ nó cũng vậy: Ở đâu có trí tuệ thì ở đó có giới tuệ, mà ở đâu có giới tuệ thì phải có trí tuệ.
Đó thì đến đây thì quý thầy đã thấy rõ được cái con đường đi của Phật toàn là những pháp thiện, cho nên gọi là sơ thiện là giới hạnh, mà trung thiện là giới đức, mà hậu thiện là giới tuệ, rất là rõ ràng. Bởi vì đạo Phật là đạo thiện pháp, cho nên tất cả đều nằm ở trong giới, mà giới tức là thiện pháp chớ không phải là một pháp môn nào xa lạ. Nhưng muốn thực hiện được những điều đó thì chúng ta có những 37 phẩm trợ đạo để mà chúng ta thực hiện con đường tu, để thành tựu được cái con đường thiện pháp này, con đường thiện pháp này tức là Giới – Định – Tuệ.
Vì vậy ở đây quý thầy phải hiểu giới tâm tức là thiền định, mà thiền định là một cảnh giới thực tại có sự an lạc, tuyệt tĩnh trong cảnh giới đó, không phải không có. Quý thầy hiểu, bởi vì cái thiền định nó có những cái hỷ lạc của nó. Cho nên, Phật có so sánh 2 cái hỷ lạc, hỷ lạc của dục thế gian, chúng ta ăn miếng ngon chúng ta biết ngon, đó là dục lạc của hỷ lạc thế gian. Có một sự êm ấm làm chúng ta thích thú, đó là cái dục lạc của thế gian. Còn ở đây chúng ta ly cái đó ra, cho nên chúng ta đạt được cái sức thiền định thì nó có cái hỷ lạc tuyệt đỉnh hơn là cái dục lạc của thế gian. Nó làm cho chúng ta thấy có một cảnh giới rất là tuyệt diệu ở trong đó.
Vì vậy ở đây quý thầy phải hiểu giới tâm tức là thiền định, mà thiền định là một cảnh giới thực tại có hiện chớ không phải là không có hiện. Nơi trong trạng thái tâm hồn chúng ta chứ đâu. Chớ không phải là cảnh giới nào ở xa xôi đâu, nó ở trong cái tâm trạng chúng ta ở đây. Chỉ chúng ta ly dục là chúng ta sẽ có nó liền. Mà chúng ta không ly dục là chúng ta không có nó mà thôi. Thực tại có sự an lạc tuyệt đỉnh trong cảnh giới đó, không phải không có. Đức Phật đã xác định điều này rất là rõ ràng qua bài so sánh bốn hỷ lạc thế gian của phàm phu và bốn hỷ lạc của xuất thế gian của bậc Thánh.
Tiếc rằng, kẻ phàm phu tu hành chưa tới nơi tới chốn, cứ tưởng tượng ra hỷ lạc thế này thế kia làm sai con đường tu hành theo đạo Phật. Làm cho Phật Pháp gần như mất gốc, người tu thời nay hết biết đường tu. Tu tầm bậy, tầm bạ, đời đạo lẫn lộn. Đạo Phật mà bây giờ lại giống như các tôn giáo khác trên thế gian này, thật rất đau lòng! Kinh sách nguyên gốc của đức Phật còn đó, mà người hiểu theo tâm dục lạc thế gian của mình nên thành sai lệch, quá sai.
Đó thì lấy cái tâm dục lạc của mình hiểu qua kinh của Phật thì làm sao hiểu cho nổi. Ít ra mình phải hiểu được cái kinh sách của Phật là cái tâm của mình phải ly dục lạc của thế gian mà thọ hưởng cái dục lạc của pháp xuất thế gian thì chừng đó mình hiểu từng chữ, từng nghĩa rất rõ ràng không sai. Mà bây giờ nhìn lại, ai là người mà đã ly được dục lạc thế gian, mà đã thọ hưởng được dục lạc pháp xuất thế gian? Mà để nhìn lại kinh sách để dẫn chúng ta đi con đường này? Tức là phải là những bậc A la hán, những bậc mà có thể phải là có những cái kinh nghiệm tu hành chính xác ở trong giới luật của Phật và sống đúng phạm hạnh, đức hạnh của Phật, của đạo Phật thì mới có thể giải nghĩa và diễn giải nghĩa pháp của Phật mới có thể đem lại cho chúng ta thấy rõ con đường tu tập.
Còn những bậc phàm phu có kiến thức học hỏi, nhưng làm sao hiểu được nghĩa lý này cho thông suốt? Cho nên làm sao vạch ra cho được, từ đó tưởng ra thế này, tưởng ra thế khác làm cho con đường của Phật Pháp quá xa xôi, quá xa lạ. Làm cho chúng ta chẳng biết đường nào mà đi vào cho đạt được kết quả giải thoát. 13 giới đức trong giới luật của đạo Phật, của đức Phật đã xác chứng thiền định của đạo Phật là giới luật nghiêm chỉnh mà thành thiền định. Nghĩa là thiền định của đạo Phật phải là lấy giới luật nghiêm chỉnh nó mới có thiền định. Bởi vì thiền định của đạo Phật, mà muốn có thiền định của đạo Phật thì không thể một cái người mà tu thiền định đó mà còn sống ở trong dục lạc thế gian được. Như quý vị bây giờ ăn 3, 4 bữa làm sao quý vị có thiền định được, còn chưa có ly cái dục ăn mà. Quý vị còn ham ngủ làm sao quý vị thực hiện được con đường thiền định này? Quý vị thấy rất rõ. Cho nên từ cái kiếp sống của quý vị, quý vị còn ham thích từ cái nhà, từ cái cửa, từ cái vật dụng, từ phật tử, từ cái danh, cái nhỏ nhỏ làm trụ trì, hoặc làm ông này bà kia, thì thử hỏi cái đó là cái dục lạc của thế gian mà, mà chưa có ly được hết thì làm sao mà quý vị thực hiện được con đường thiền định chơn chánh của đạo Phật?
Cho nên, hầu hết là cái sự tu hành của quý vị đều sai hết. Không có còn cái chỗ nào gọi là đúng. Bởi vì từ cái chỗ Sơ thiền của Phật chúng ta thấy rõ ràng ly dục, ly bất thiện pháp, nhập Sơ thiền, từ đó nó mới có cái hỷ lạc của ly dục, chớ đâu phải khi không mà có được, tức là mình phải ly cho sạch. Đó thì thấy, qua một cái Sơ thiền, một cái thiền thứ nhứt của đạo Phật mà chúng ta đã thấy được cái điều kiện mà Phật đã xác định như vậy.
Chớ không phải ngoài giới luật mà đi tìm thiền định có được. Bởi vậy, ly dục ly bất thiện pháp mới nhập được Sơ thiền. Điều này quá rõ ràng, giới luật sanh ra thiền định. Nghĩa là từ ở trong cái giới hạnh của chúng ta mới có được cái giới đức chứ không phải là tự dưng mà không có giới hạnh mà giới đức có được. Nghĩa là quý vị mà không dẹp bỏ tất cả những cái nghề nghiệp của thế gian mà sống, mà còn có 1 bình bát, 3 cái y mà đi xin ăn á thì chắc chắn là quý vị có làm một cái nghề gì đi mà sống trong cuộc đời này, mà quý vị chẳng bao giờ xa lìa được cái dục lạc.
Mà chẳng xa lìa được cái dục lạc thì giới hạnh của quý vị chưa xong thì quý vị không bao giờ mà có thể nếm được cái mùi vị của giới đức được. Do đó làm sao có thiền định được nếu không có giới hạnh thì không bao giờ có giới đức. Mà giới hạnh, quí thầy đã biết, một vị tu sĩ chỉ còn 3 y, 1 bát không còn có một nghề nghiệp gì sinh sống, chỉ đi xin ăn mà thôi. Đời sống không nhà không cửa, không người thân thuộc, ruột thịt. Giữa mọi con người tình thương bao la, rộng mở. Có sống như thế thì định kia mới sanh ra, tức là giới đức mới tròn đủ. Giới hạnh được Phật xem là sơ thiện, còn giới đức được xem là trung thiện. Vậy quý thầy học được đến đây là chúng ta đã học được sơ thiện và trung thiện trong giới luật của đạo Phật. Đến đây Thầy dừng lại.
Bây giờ để tiếp tục chương trình học của giáo án, trước khi mà học đến giới tuệ thì Thầy xin thuật lại một vài mẩu chuyện của các bậc Thánh tăng, để bước qua cái giới tuệ chúng ta biết giới tuệ là như thế nào.
Nếu mà không có những gương hạnh này thì chắc chắn là chúng ta chưa biết được cái giới tuệ của Phật là như thế nào bởi vì hầu hết là các thầy cũng có học giới luật không phải không, nhưng mà các thầy chưa có được nghe những cái lời giảng mà do từ kinh nghiệm bản thân của Thầy, mà Thầy thấy đó là một cái điều cần phải lưu lại qua cái giáo án này. Cho nên qua những cái điều kiện mà nêu lên những cái gương hạnh của những bậc Thánh tăng trong thời đức Phật để quý thầy lấy cái đó mà thấy được khi mà bước sang qua giai đoạn mà giới tuệ là nó như thế nào? Chớ không khéo là quý thầy tưởng như là giới hạnh, hoặc là giới đức nữa, nó là khác rồi, nó không giống rồi.
Để tiếp tục học chương trình giáo án này ta nên noi gương các bậc Thánh tăng thời đức Phật để lấy đó mà làm gương hạnh sách tấn tu hành cho mình. Bây giờ Thầy thuật lại ông Phú Lâu Na, chắc ai cũng nghe cái ông này hếtKhi đến tuổi trưởng thành, hình như là ông Phú Lâu Na Thầy đã thuật lại rồi phải không các con? Ông ngài Niép Ta đã có thuật rồi, ngài Vasapala cũng đã thuật rồi. Bây giờ tới Ngài Gavampati.
Ngài Gavampati, Ngài theo Phật xuất gia và chứng quả A la hán. Một hôm Đức Thế Tôn và một số đông tỳ kheo trên đường du hành vượt sông Sarabhu. Nhưng đến đó trời tối, mọi vị tỳ kheo phải nằm nghỉ trên bãi cát sông Sarabhu. Đến nửa đêm nước sông dâng lên và các thầy tỳ kheo trẻ tuổi la ồn náo.
Thế Tôn nghe vậy bảo Gavampati can thiệp, vị trưởng lão dùng giới tuệ thần túc thông của mình làm theo lời Phật dạy, dừng dòng nước lại từ xa. Khiến cho dòng nước dựng đứng lên như ngọn núi mà không tràn vào bãi cát được. Do vậy, mọi người biết ngài có thần thông siêu việt. Hôm sau, chúng và Thế Tôn được ngài đưa sang sông an lành.
Sau khi Đức Phật và đại chúng đi xong thì người ta không còn thấy ngài nữa, ngài đã ẩn bóng. Do vậy, Bậc Đạo Sư dùng kệ tán thán công đức của ngài:
Với tuệ thần túc thông
Dựng đứng nước Sarabhu,
Chính Gavampati,
Không ỷ lại, không động,
Ẩn bóng giấu tung tích,
Vượt qua mọi trói buộc,
Chư thiền đều đảnh lễ,
Bậc Ðại sĩ Mâu-ni
Ðã vượt qua sanh hữu.
Đó là cái bài kệ của đức Phật tán thán cái vị tu sĩ này. Đó thì khi mà đến giới tuệ thì các thầy thấy sức thần thông của họ đến cái mức độ nào. Nước sông tràn như vậy mà dùng thần thông chặn đứng nước sông cao như núi mà không tràn xuống được. Đó là cái ý muốn của người ta muốn như thế nào được như thế nấy. Đó gọi là tuệ giải thoát đó, chứ không phải tri kiến giải thoát đâu.
Ở đây chúng ta lầm tưởng, lấy cái chỗ mà tuệ của định sinh ra, là cái tuệ nó không phải là cái tuệ tầm thường của phàm phu, không phải là trí tuệ tầm thường. Cho nên chúng ta thấy ở trong kinh sách thường nói, khi mà chúng ta niệm hương á, có cái bài hương mà đầu tiên đó: Giới hương nè, định hương nè, dữ huệ hương. Thì cái huệ hương đó nó thuộc về nằm ở trong giới định tuệ thì nó khác rồi. Nhưng mà tri kiến và tri kiến giải thoát hương thì 2 cái hương mà sau cùng này, cái hương tri kiến và cái hương tri kiến giải thoát nó không phải là tuệ đâu.
Nhưng mà, cái hương tri kiến giải thoát nó nằm trong góc độ của tuệ thứ nhứt, của giới tuệ thứ nhứt, thì một lát nữa quý thầy sẽ học đến giới tuệ thứ nhứt, giới tuệ thứ nhất thì quý vị biết đó là tri kiến giải thoát. Còn cái tri kiến mà chúng ta dùng đây nó không phải là tuệ đâu, nó là cái tri kiến cho nên nó là cái sự kết tập những sự hiểu biết, chứ không phải là như các vị mà đã giảng, thường giảng cho chúng ta biết là văn, tư, tu. Nó có 3 cái tuệ gọi là: văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ.
Những điều đó là những điều kiến giải của bậc học giả, không phải là của những bậc tu hành chứng(BBT:BN,18,E01:29:31)(BBT:CĐ,20A,E00:45:47).(BBT:CĐ,20B,B00:00:00)(BBT:BN,18,B01:29:31) Cho nên họ không có biết tri kiến như thế nào và tri kiến giải thoát như thế nào. Cho nên họ gồm cho đó là trí tuệ của họ, sự thật ra chưa phải, họ chưa hiểu. Bởi vì cái trí tuệ của đạo Phật mà khi từ định sinh ra trí tuệ vô cùng siêu việt, không phải là cái trí tuệ tầm thường. Họ ở trong cái Tứ như ý túc mà họ sử dụng cái trí tuệ đó chứ không phải là tầm thường.
Còn khi mà họ ra bình thường mà họ sống như bình thường chúng ta, họ dùng tri kiến giải thoát cho nên gọi là tri kiến giải thoát. (BBT:CĐ,20B,00:00:28)Nhưng tri kiến giải thoát nó chỉ nằm ở trong 13 cái giới tuệ của đức Phật. Mà cái giới tuệ đầu tiên đó là cái tri kiến giải thoát của họ, còn tất cả những cái tuệ sau cùng, tới sau cùng đều là những cái tuệ do từ định mà sanh ra. Cho nên cái tuệ siêu việt chớ không phải là tuệ tầm thường.
Để rồi học tới đó thì quý thầy mới thấy được cái giới tuệ của đức Phật tuyệt diệu chớ không phải cái thứ mà tri kiến mà kết tập, tích hợp lại những cái sự hiểu biết của kinh sách của các vị kim cổ, hiểu biết của các bậc thánh hiền để lấy làm của mình đó thì cái tri kiến đó gọi là cái tri kiến chứ chưa được gọi là trí tuệ, chưa được gọi là cái gì cả hết, mà cũng chưa được gọi là cái tri kiến giải thoát nữa.
Thì đủ biết rằng cái con đường của đạo Phật nó dạy cho chúng ta rất rõ ràng và cụ thể. Cho nên ở đây chúng ta thấy cái vị này họ đạt được cái giới tuệ Thần túc thông. Ở đây người ta dùng cái danh từ giới tuệ thần túc thông. “Dựng đứng nước Sara”, tức là dựng đứng nước sông Sarabhu. “Chính Gavampati”, tức là ngài Gavampati, ngài dựng đứng nước sông, không có cho nước tràn vào bờ, vào bãi cát để cho chúng tỳ kheo yên ổn mà ngủ suốt đêm đó để mà sáng mà lên đường đi.
Khi mà làm được những cái hành động như vậy thì ngài không có ỷ lại, ngài không có ngã mạn cho nên không ỷ lại không động. Tâm ngài không có thấy đó là mình hơn ai hết, nghĩa là bình thường như mọi người. Rồi khi mà đưa chúng tỳ kheo đi xong rồi thì ngài lại ẩn bóng, ngài giấu tung tích của mình. Chẳng bao giờ ai thấy ngài ở trong cái đoàn đó nữa. “Vượt qua mọi trói buộc”, ở đây mọi trói buộc không có nghĩa là, nghĩa là vượt qua cái sự khen tặng của các tỳ kheo, của các vị cư sĩ trong cái thời đó. Cho nên ngài đã ẩn bóng, ngài không để cho lộ tung tích nữa. Đó là ngài đã vượt qua cái sự mà khen của các vị đó. “Chư thiên đều đảnh lễ”. Hồi nãy cái chỗ câu này là “Chư thiên” chứ không phải là “chư thiền”, “Chư thiên đều đánh lễ” nghĩa là các chư thiên đều thấy cái sự ẩn bóng, và thấy cái hành động mà ông ta làm mà tâm không có ngã, không ỷ lại. Thì cho nên chư thiên ở trên các cõi trời đều đến đảnh lễ ngài.
Bậc đại sĩ Mâu ni”. Những người đó gọi là đại sĩ Mâu ni. “Đã vượt qua sanh hữu” - nghĩa là không còn dính mắc cái sự sanh hữu, tức là khen chê, hoặc cái này cái kia. Họ đã vượt qua hết những cái đó rồi. Đó là qua bài kệ, như vậy chúng ta thấy khi mà cái trí tuệ, mà giới tuệ của họ, thần túc thông như vậy, siêu việt như vậy đó thì họ là những con người siêu việt mà không thể nào mà tưởng tượng được. Khi mà chúng ta tu hành tới mà giới tuệ thì chúng ta cũng như vậy (BBT:BN,18,E01:32:32)(BBT:CĐ,20B,E00:03:05)(nghĩa là chúng ta muốn như thế nào là đạt như thế nấy chứ không phải là cái muốn của chúng ta như còn phàm phu muốn ăn, muốn ngủ đâu, hay hoặc là muốn nhà, muốn cửa, muốn chùa to tháp lớn nữa đâu, hay hoặc là muốn làm danh ông này ông kia đâu, không có đâu. Người ta sẽ muốn cái khác, chứ không phải, muốn làm sao cho tất cả thế gian này được hưởng hạnh phúc, muốn làm sao cho tất cả mọi )
(BBT:CĐ,20B,B00:03:05)(BBT:BN,19,B00:00:00)
Nghĩa là chúng ta muốn như thế nào là đạt như thế nấy chứ không phải là cái muốn của chúng ta như còn phàm phu như là muốn ăn, muốn ngủ đâu, hay hoặc là muốn nhà muốn cửa, muốn chùa to, tháp lớn nữa đâu, hay hoặc là muốn làm danh làm ông này, ông kia đâu, không có đâu. Người ta sẽ muốn cái khác chứ không phải như vậy, muốn làm sao cho tất cả thế gian này được hưởng hạnh phúc, muốn làm sao cho tất cả mọi người đều thực hiện những cái thiện pháp để đem lại những cái quả lành cho mọi con người để được an lành trong cuộc sống. Đó là cái muốn của những bậc mà người ta có Trí tuệ, có Giới tuệ. Còn những bậc mà chưa có Giới tuệ, họ còn muốn danh, muốn lợi của thế gian, họ còn muốn tiền tài của báu, họ còn muốn chùa to, tháp lớn hoặc còn muốn đồ chúng, họ còn muốn bành trướng chỗ này đến chỗ kia để gây cơ sở bằng cách này, bằng cách khác. Đó là cái muốn của họ đó. Đó là cái muốn của thế gian!
***
CHUYỆN NGÀI UTTARA
Bây giờ Thầy thuật lại cho quý thầy thấy một vị nữa: Ngài Uttara, Ngài sanh ở thành Vương Xá, Ngài thông minh và thông suốt ba bộ kinh Vệ Đà. Ngài có danh tiếng tốt, Ngài có đức hạnh và dung sắc đẹp đẽ. Ngài được một vị Bộ trưởng ở thành Ma Kiệt Đà gả con gái cho Ngài, nhưng Ngài từ chối và xuất gia với ông Xá Lợi Phất nên Ngài thường làm bổn phận của một chú Sa Di hầu thầy. Một hôm Tôn giả Xá Lợi Phất bị bệnh, Ngài phải ôm bình bát ra bờ hồ lấy nước cho ông Xá Lợi Phất. Khi lấy nước xong, Ngài để bình bát ở trên bờ rồi lội xuống hồ để tắm, cùng lúc ấy có một tên trộm bị lính đuổi chạy ra khỏi thành. Khi chạy ngang qua bình bát của Ngài đang để trên bờ sông, gã ăn trộm liền quăng của báu đánh cắp vào bát của Ngài. Các người lính đuổi theo thấy trong bình bát của Ngài có của báu ăn cắp nên bắt Ngài về đưa cho Bộ trưởng đó (Vassakàra đó, là cái người muốn gả con cho ông ta đó, mà ông từ chối ông đi tu đó) để trừng trị. Nghĩa là bây giờ bắt ông đem về trừng trị do cái tội ông ăn cắp.
Ngài bị hành hạ đến chết đi, sống lại. Bậc Đạo sư liền đến khuyên Ngài : “Đây là kết quả của nghiệp đời trước của ngươi, ngươi cần phải chấp nhận và nhờ sức mạnh tư duy khổ thọ, tu tập Định vô lậu thì mới thoát khỏi nghiệp khổ này”. Bậc Đạo sư nói xong, đặt tay nhẹ lên đầu ông. Trong lúc đó ông bị cột trói ở trong một cái trụ cột rất là to và đồng thời thì đức Phật hiện đến và khuyên ông nên lấy cái Định vô lậu đó mà thực hiện cái khổ thọ, lấy cái đề mục khổ thọ mà đặt ra trước mặt để mà thực hiện cái Định vô lậu. Khi nói xong, thì đức Phật xoa đầu ông một cái rồi đức Phật biến mất. Nhờ thế mà tâm tư ông phấn khởi, đặt niệm quán xét thọ khổ, cuối cùng đoạn tận các uế nhiễm và lậu hoặc, chứng sáu thắng trí, chứng quả A La Hán. Lúc bấy giờ ông đang bị cột trói trong một trụ cột rất to. Khi chứng quả xong, ông dùng Giới tuệ Thần túc thông, vươn mình lên khỏi trụ cột, Ngài đứng trên hư không và hiện thần thông. Vì lòng từ mẫn đối với kẻ khác, Ngài không làm hại một người nào hết. Nghĩa là ông bị hành hạ đến cái mức độ mà tàn nhẫn sức không chịu đựng nổi. Bởi vì cái thù hận của cái ông bộ trưởng này đó là vì gả con cho ông mà ông không có nhận, cho nên khi mà bắt ông là ăn trộm rồi thì ông này hành hạ rất là độc. Do đó khi ông đã thực hiện được, nhưng cái lòng từ mẫn của ông, ông không bao giờ hại những cái kẻ mà đã làm hại ông. Trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, các vết thương trên thân Ngài đã bị tra tấn quá tàn ác đều được lành hẳn. Nghĩa là lúc bấy giờ ông dùng thần thông thì các vết thương ở trong thân của ông nó đều lành hết, nó không còn bầm xanh, hoặc là còn đổ máu hoặc còn  rỉ máu hoặc còn mủ máu nữa.
Có người hỏi Ngài, “Trong cảnh đau khổ ấy, làm sao Ngài còn bình tĩnh mà tu tập được?”.Ngài trả lời: “Tôi nhờ bậc Đạo sư nhắc nhở và an ủi, khi tôi thấy rõ sự đau khổ là nhân quả kiếp trước tái sanh của tôi và tánh nhân duyên sanh của sự vật và sự nguy hiểm của sự đau khổ trước kia nhiều hơn hiện tại. Vì thế tôi không còn dao động, tôi phát triển Thiền quán Vô lậu và chứng được kết quả. Sau khi chứng quả, tôi có làm bài kệ”.
Ở đây, cái chỗ này thì quý thầy phải hiểu, ông thấy rõ, khi mà được đức Phật nhắc ông thì ông thấy rõ cái nhân quả cái kiếp trước ông, ông đã tạo cho người ta khổ còn gấp mấy lần trong hiện tại ông đã chịu khổ. Ông ấy đã thấy được cái điều đó, cho nên ông nhận kiếp trước mình đã làm cho người ta khổ biết bao nhiêu, thì bây giờ cái chuyện hiện tại ông, cái khổ mà hiện bây giờ bị hành hạ như vậy nó không có khổ nhiều đâu. Vì thế mà tâm ông không còn dao động nữa, ông đã hiểu được như vậy, tức là đã hiểu được cái nhân quả chứ gì, cho nên tâm ông không sợ hãi, không dao động nữa, từ đó mà ông yên tâm, ông phát triển. Đang bị cột trói như vậy mà ông vẫn an nhiên mà phát triển cái con đường thiền quán của ông, cuối cùng ông thành quả. Cho nên ông viết cái bài kệ để cho chúng ta rút tỉa những kinh nghiệm mà tu tập.
“Không có gì có mặt
Lại thường còn mãi mãi
Không có các hành gì
Lại thường hằng, thường trú
Các uẩn được khởi lên”
Đó là cái pháp hướng, cái đề mục của ông mà ông đã đặt thành một cái niệm tu cái Định vô lậu mà qua cái bài kệ này ông lấy ra.
“Đến đời khác diệt vong
Biết được nguy hiểm này
Tôi chấm dứt sanh hữu
Từ bỏ tất cả dục
Tôi chứng lậu hoặc tận”
Nghĩa là ở đây Thầy giải thích từng câu kệ cho quý thầy thấy rõ. Khi mà quán vô thường mà đặt cái niệm khổ, niệm thọ khổ này, ông thấy lúc có đau, lúc không đau, cho nên ông thấy “không có gì có mặt”. Nghĩa là trong thế gian này không có một cái gì mà có mặt hết. “Lại thường còn mãi mãi”,nghĩa là vật này có thì nó không có kéo dài được trường tồn, cũng như bây giờ chúng ta có, chưa chắc đã là nó mãi mãi được, nó sẽ bị hoại diệt đi. Đó là cái sức quán của ông, thấy nó vô thường như vậy đó. “Không có các hành gì” tức là cái hành động nào, “Lại thường hằng, thường trú”, nghĩa là không có hành động nào mà nó thường hoài được, mà không có cái pháp gì mà trong thế gian này mà thường trú được, nó luôn luôn nó thay đổi và hoại diệt. Đó là ông thấy các pháp vô thường đó!
“Các uẩn được sanh khởi”,tức là năm cái uẩn của chúng ta nó sanh khởi thì nó lên nó thành cái thân, mà nó không có sanh khởi thì nó hoại diệt, thì nó đâu có cái thân. “Đến đời khác diệt vong”,nghĩa bây giờ hiện đời này thì nó hợp nhau nó sanh khởi thì nó có mình, mà đến đời khác thì nó mất đi. Cho nên đến đời khác thì nó diệt vong mất, nó đâu còn nữa. “Biết được nguy hiểm này”, nghĩa là thấy sự sanh khởi, sự vô thường, sự vô ngã của nó, sự thọ khổ của nó như vậy thì biết nó là cái sự nguy hiểm, rất là nguy hiểm. “Tôi chấm dứt sanh hữu”, sanh hữu là cái gì các thầy biết không? Sanh hữu tức là những cái dây mà trói buộc như nhà cửa, của cải, tài sản, anh em, cha mẹ ruột thịt, dòng họ, tất cả những vật nhỏ, vật lớn, đó gọi là sanh hữu. Cho nên, ông nghĩ rồi bắt đầu ông buông hết, không có còn gì trong tôi nữa hết, nghĩa là tôi phải buông sạch, thì buông sạch như vậy là còn ba y, một bát chứ gì? Từ lâu tới giờ ông đi theo, ông thọ theo làm Sa Di, theo hầu với ông Xá Lợi Phất nhưng ông có hết sanh hữu không? Còn sanh hữu chứ, chứ chưa phải hết. Cho nên, tới bây giờ ông mới quán được cái sanh hữu, ông mới diệt sạch nó, dứt sạch nó.
“Từ bỏ tất cả dục”,tất cả lòng ham muốn ông cũng đều bỏ hết xuống, không có ham muốn nữa. Mà dứt bỏ sanh hữu tức là dứt bỏ dục, bởi vì không có vật để mà dục nữa thì sao mà có dục? Cho nên ông không còn vật gì để mà ham muốn nữa. “Tôi chứng lậu hoặc tận”, nghĩa là lậu hoặc ông quét sạch rồi, không còn nữa, cho nên Định Vô lậu ông đã thành tựu, từ đó nó thực hiện được Tam minh, tức là có cái Trí tuệ, cái Giới tuệ của ông hẳn hoi.
Đó thì đó là một vị mà đã có thần thông, đã bị cột trói rồi từ cái chỗ mà chứng đạt thì Ngài thực hiện cái Tuệ, cái Giới tuệ vô lậu của Ngài mà Ngài thực hiện được thì Ngài biến ra một con người đứng ở trên hư không, rồi từ đó người ta hoảng sợ, người ta quá là sợ hãi rồi, không còn ai mà có thể hành hạ ông ta được nữa hết, và cuối cùng thì ông không trả thù người nào hết hoàn toàn, người nào đối xử với ông như thế nào ông cũng không có thù nhưng ông chỉ nghĩ rằng mình được giải thoát mà thôi.
Đó hôm nay chúng ta thấy những cái đó là những cái mà chúng ta bước sang qua một cái điều kiện mà chúng ta học về cái Giới tuệ, thì cái Giới tuệ là cái vấn đề mà chúng ta phải có Thiền định. Bởi vì nếu mà không có Thiền định, làm sao mà chúng ta có cái này được? Nếu không có Thiền định thì làm sao chúng ta có được? Có Thiền định là như thế nào? Chúng ta bảo các hành phải ngưng, thì bây giờ trong thân chúng ta các hành ngưng tức là thân định, mà tâm chúng ta nó diệt tầm tứ thì nó là định rồi. Cho nên lúc bấy giờ tâm nó định ở trên thân, mà thân bây giờ định ở trên tâm, cho nên Phật nói khi mà thân định trên tâm mà tâm định trên thân thì chúng ta câu hữu Tứ như ý túc, là Dục như ý túc, chúng ta muốn như thế nào là nó sẽ theo như thế nấy.Mà bây giờ cái hơi thở, các hành trong thân của chúng ta mà chúng ta bảo nó ngưng, thì nó ngưng được thì cái lực mà của tinh thần của chúng ta trong cái pháp hướng nó vi diệu đến mức độ nào nó mới ngưng chứ? Còn bây giờ chúng ta tập thở rồi chúng ta ngưng thở, thì cái điều đó không phải là chúng ta dùng cái lực của tinh thần mà chúng ta dùng cơ để nín thở. Dùng cơ nín thở thì chắc chắn là không đạt được kết quả mà phải dùng pháp hướng mới kết quả.
Cho nên Thầy thường nhắc quý thầy, người ta chỉ dùng cái pháp hướng mà người ta tu Định Vô lậu để người ta quét sạch được cái lậu hoặc của người ta thì cái pháp hướng đó nó trở thành hiệu quả mà người ta điều khiển được cái thân nó ngưng hoạt động, chứ không phải là chúng ta ngay đây mà chúng ta tập thở chậm hoặc là thở như thế nào chúng ta cũng có vận dụng cái sự thật chậm của nó thật, nhưng không phải quá sức của nó, quá sức của nó sẽ rối loạn cơ thể và làm chúng ta sẽ trở thành bệnh. Cho nên chúng ta phải hiểu được, còn cái lực mà tinh thần của chúng ta điều khiển nó rất là vi tế, nó ra lệnh, tuần tự nó sẽ chậm, nhẹ dần theo nó mà nó sẽ không bị rối loạn, nó thay đổi toàn bộ cơ thể chúng ta, đến khi nó dừng mà chúng ta không chết.
Quý thầy phải hiểu con đường tu tập theo đạo Phật là như vậy nó mới đúng cách. Cho nên ở đây chúng ta cần làm sao ly dục, ly bất thiện pháp mà thôi, mà ly được rồi thì chừng cái điều khiển này nó không phải khó khăn, bởi vì trong cái thời gian mà ly dục, ly bất thiện pháp đó chúng ta phải tu tập Định vô lậu và Chánh niệm tỉnh thức định cho cái sức tỉnh của chúng ta rất cao độ, để chúng ta phóng ra những cái tri kiến, làm cho cái sự quán xét của tất cả lậu hoặc chúng ta đều bắt được nó, cho nên chúng ta phải quét cho ra khỏi tâm. Mà quét ra khỏi tâm thì tâm chúng ta tịnh rồi, tức là cái pháp mà chúng ta đã dùng pháp hướng để quét tất cả lậu hoặc, nó trở thành một cái tinh thần, cái lực của tinh thần, cho nên gọi là lực định, hay hoặc là cái Định lực.
Trong đạo Phật nó có năm cái lực (Ngũ lực đó) thì: Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Định lực và Huệ lực. Năm cái lực này chúng ta thấy rất rõ ràng nếu mà chúng ta tu tập đúng thì chúng ta có năm cái lực đó. Mà năm cái lực đó thì cái Niệm lực là nơi mà chúng ta tu cái Định vô lậu là nó đã có Niệm lực, mà cái Niệm lực đó thì đó là cái lực tinh thần của chúng ta, nó là cái pháp hướng, cho nên chúng ta ra lệnh thì ngay đó các hành trong thân của chúng ta ngưng, tức là cái Định lực. Do cái Định lực nó đã điều động được cái thân định - rồi thì lúc bấy giờ chúng ta mới dùng cái Huệ lực của chúng ta, do vì vậy mà cái Tam minh, cái Lậu tận minh nó mới thể hiện, nó mới thấy đây là khổ thật, đây là nguyên nhân của khổ, đây là con đường diệt khổ, đây là cảnh giới Niết Bàn.
Đó, nó mới thấy thật, mới chứng được cái lý Khổ - Tập - Diệt - Đạo. Còn bây giờ chúng ta hiểu là cái ngộ chứ chưa phải là cái chứng lý. Chờ khi nào mà cái Lậu tận minh nó hiện ra thì cái Trí tuệ của cái Giới tuệ này nó hiện ra thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấy nó mới chứng được cái lý Khổ - Tập - Diệt - Đạo, nó mới rõ ràng hơn.
Đó thì trên cái bước đường tu tập, thì quý thầy phải thấy, hiểu được những cái sự tu tập của chúng ta nó như thế nào mà đúng, như thế nào sai. Qua cái bài giảng của Thầy rồi thì quý thầy biết, quý thầy tu. Từ lâu tới giờ quý thầy tu sai hay đúng quý thầy biết liền. Còn ngay bây giờ quý thầy mà đi vào từ cái Chánh niệm Tỉnh thức, rồi bắt đầu từ cái Định Vô lậu mà quý thầy tu tập cho đến khi mà quý thầy thấy ly được dục, ly được ác pháp rồi thì quý thầy lấy những cái pháp hướng mà quý thầy đã từng tập luyện đó nó có cái hiệu quả đó, thì ngay đó bây giờ quý thầy chỉ thay đổi, thay đổi Trạch pháp cái câu ra, cái câu này bây giờ phải sử dụng cho nó như thế nào, sử dụng cho nó muốn nhập Nhị thiền thì mình chỉ ra lệnh rằng : “Tầm tứ phải tịnh chỉ, phải ngưng, không có được hoạt động nữa”. Thì ngay đó chúng ta chỉ dùng cái pháp hướng đó, nhắc một lần, hai lần thì ngay đó là Tầm, Tứ chúng ta diệt liền chứ khỏi cần phải mà ức chế nó đâu. Các thầy thấy rất rõ, bây giờ chúng ta muốn sáu cái loại tưởng hay mười tám cái loại tưởng mà để cho nó ly ra thì chúng ta chỉ cần ra lệnh “Mười tám cái loại tưởng phải ra khỏi”, tức là ly hỷ, trú xả đó, thì ngay đó là mười tám cái loại tưởng nó sẽ ra khỏi tâm chúng ta liền tức khắc, từ đó chúng ta sẽ nhập vào Tam thiền, đâu phải là cái khó? Đâu phải còn ma chướng nữa?
Còn chúng ta chưa có cái hiệu quả của cái pháp hướng tức là lực của tinh thần chúng ta chưa có mà chúng ta thực hiện thì chúng ta không bao giờ mà đạt kết quả được hết. Chúng ta phải có một cái sức lực của tinh thần của chúng ta, mà lực tinh thần tức là Niệm lực chứ cái gì? Cái Niệm lực là cái Pháp hướng, câu pháp hướng đó nó trở thành cái Niệm. Nếu mà không có cái câu đó, làm sao gọi là niệm? Chẳng hạn bây giờ chúng ta bảoTầm - Tứ phải diệt mà không có cái tên Tầm - Tứ thì làm sao gọi là cái niệm? Quý thầy phải hiểu một cái đoạn văn, một cái câu nào đó nó là cái niệm. Mà cái niệm đó để chúng ta ra lệnh, truyền lệnh cho cái hành động của cái đối tượng đó nó phải ngưng, phải dừng, cho nên gọi là cái niệm. Vì vậy mà gọi là Niệm lực. Mà Niệm lực thì quý thầy phải biết nó là Tứ niệm xứ, mà Tứ niệm xứ thì nó ở đâu? Thân, thọ, tâm, pháp của chúng ta ở trong thân của chúng ta chứ đâu? Đâu phải ngoài thân? Cho nên chúng ta ra lệnh trong thân chúng ta để mà làm chủ. Vì vậy mà học tới Tứ niệm xứ Thầy sẽ giảng cái này rất rõ để cho quý thầy biết để mà sử dụng ở trong Tứ niệm xứ. Nếu mà chúng ta chưa tu Tứ niệm xứ mà vội tu bốn Thiền thì cái chuyện đó hoài công.
Bởi vì Niệm rồi mới tới Định chứ? Chứ đâu lý nào mà Định đi trước Niệm được? Đó thì quý thầy phải biết, chứ không có thể nào mà chưa có Định mà có được cái Trí tuệ Tam minh thì làm sao có, làm sao có Trí tuệ mà thần thông được? Đâu có thể nào có Trí tuệ đó được? Cho nên phải tuần tự mà chúng ta tu tập từng cái bước của mỗi bước đi trên con đường của đạo Phật, xây dựng cho chúng ta từng chút để cho chúng ta không lạc lối.

CHUYỆN NGÀI GANGÀTIRIYA
Bây giờ tới một cái Ngài nữa, Ngài Gangàtiriya, Ngài này thường cái tên quá dài là tại vì cái tên này để mà dịch nghĩa ra là, trước kia thì Ngài không có cái tên, nhưng mà thường Ngài ở bên bờ sông Hằng, Ngài cất cái chòi ở trên đó, mà Ngài theo Phật xuất gia và Ngài ở trên cái bờ sông đó Ngài tu cho nên người ta gọi cái tên đó là cái người sống ở trên bờ sông Hằng. Cái tên của Ngài đó là “Người sống ở trên bờ sông Hằng”, chúng ta dịch ra Việt ngữ là như vậy đó! Còn gọi chung cái tên của Ngài là như vậy! Ngài xuất gia theo Phật tu hành, Ngài chọn đời sống khổ hạnh, ở trên bờ sông Hằng nên người ta gọi Ngài là “Người sống trên bờ sông Hằng”. Ngài làm một cái chòi để ở, Ngài nguyện không nói với một ai. Nghĩa là Ngài nguyện suốt cái thời gian tu hành, Ngài ở trên cái bờ sông Hằng đó, không có bao giờ nói với ai một lời nào hết. Suốt một năm, Ngài không thốt ra một lời nói nào. Trong năm thứ hai có một người nữ nhân trong làng thường mang thực phẩm đến cúng dường cho Ngài, muốn biết Ngài có phải là người câm hay không. Bởi vì suốt thời gian cả năm trời, mà không thấy ông này ổng nói một lời nói nào hết, cứ đem sớt bát rồi đi về chứ ông cũng không hỏi gì hết, không có nói chuyện gì hết, mà cũng không xin thêm cái gì hết, cứ cho cái gì thì ăn nấy chứ không hỏi gì hết. Cho nên cái cô này cô ấy không biết ông này ổng câm hay sao mà không nói tiếng nói nào hết, không thấy không nói nào hết, cho nên muốn thử ông ta coi thử coi có nói hay không. Thì đến năm thứ hai, cô mới đem đồ ăn uống đến cúng dường, khi đổ sữa cúng dường, cô làm đổ sữa ra ngoài.
Nghĩa là thay vì cô đổ vào trong bát cho ông ta thì cô lại làm cho nó đổ ra ngoài đi. Thì do đó, Ngài mới nói “Thôi, vừa rồi bà chị”, nghĩa là đổ ra ngoài khiến tràn bát ông, ổng thấy kỳ quá rồi cho nên buộc lòng ông phải nói tiếng nói “Thôi đủ rồi bà chị, đừng đổ nữa!”. Đó, như vậy là bà này biết ông này nói chứ không phải là câm. Các con thấy bà này cũng khéo đấy chứ? Để dò biết mà khiến ông ấy nói “Đổ vừa thôi chứ đổ gì đổ dữ đổ tràn ra mà cứ đổ hoài”. Nhưng đến năm thứ ba thì ông chứng quả A La Hán, nghĩa là khi mà bà ta biết ông nói được rồi thì bà ta cứ đem cơm đến cúng dường cho ông, rồi ông chẳng nói nữa. Suốt năm thứ ba thì ông đã chứng quả A La Hán. Ngài có làm bài kệ tán thán hạnh cũ của mình. Đó, thì các thầy nói là Thầy dạy độc cư mà các thầy mà giữ gìn đúng như vậy để chờ người ta thử như vậy. Bởi thấy nó kỳ lạ quá thì mới thốt ra nói thôi chứ còn cái chuyện mà không kỳ lạ chắc ông này không cạy miệng ổng được đâu! Cho nên ông ấy lập hạnh cũng dữ tợn lắm đó!
“Trên bờ sông Hằng
Dùng ba lá thốt nốt
 Chỉ dùng có ba lá thốt nốt thôi chứ ông ấy cũng không có dùng cái gì hết.
Ta dựng lên cho ta
Một chòi lá nho nhỏ
Bát ta là cái ghè
Dùng cúng sữa người chết
Nghĩa là ông lấy cái bát không phải cái bát như chúng mình đâu, mà là cái ghè người ta để ngoài gò mả để khi mà người ta tảo mộ đó, người ta đổ sữa vô đó để cúng người chết. Ông lấy cái đó ông làm cái bát ông ăn cơm. Các con thấy ghê gớm không? Mình thì chắc không dám đâu!
Bát ta là cái ghè
Dùng cúng sữa người chết
Còn y áo của ta
Lượm chấp từ đống rác
Suốt hai năm sống vậy
Ta chỉ nói một chữ
Nghĩa là chỉ có nói một lời với cô ta đó thôi chứ còn không có nói với ai nữa hết.
Trong khoảng năm thứ ba
Khối si ám tan tành”
Nghĩa là tất cả vô minh đã tiêu sạch hết rồi.
Đó, thì qua cái bài kệ này chúng ta thấy những bậc trong thời đức Phật có những bậc thiệt là vĩ đại thiệt chứ không phải thường đâu! Thậm chí là câm đến nỗi người ta tưởng là ông này câm thiệt, không có nói nên người ta mới thử đó, còn chúng ta chưa có gì hết, chúng ta lia lịa hết, không có còn giữ được cái chuyện gì nữa.
Qua cái hạnh này Thầy mới ghi chép lại cho chúng ta biết rằng những cái sự tu tập của chúng ta nó phải theo những cái gương hạnh. Bởi vì mình quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng mà? Mình phải quy y cho đúng các bậc Thánh Tăng chứ? Chứ không lẽ mình quy y nó không đúng các bậc Thánh Tăng thì mình nương với ai đây? Cho nên mình phải nương các bậc này, vì những bậc này chúng ta thấy tuyệt diệu, quá là tuyệt!
Bây giờ về bên phái nữ thì Thầy cũng khai triển luôn về cái phần nữ để chúng ta có những cái gương hạnh của người nữ, vì chúng ta ở đây, Tu viện chúng ta ở đây cũng có phái nữ, cho nên Thầy cũng khai triển thêm một vài vị tăng, một vài vị ni, Thánh ni.

CÂU CHUYỆN BÀ SHIHA
Bà được cha mẹ cho xuất gia tu hành theo Phật. Bà tu tập thiền quán nhưng không thể chặn đứng tâm tư chạy theo ngoại vật khả ý. Nghĩa là bà tuy tu vậy nhưng lòng bà cứ luôn luôn chạy theo sự ham muốn ở bên ngoài chứ không có nhiếp tâm được.
Bảy năm bị dày vò, nghĩa là bà tu tập bảy năm như vậy mà cái tâm ham muốn, cái tâm mà còn dính mắc cái này, cái kia của thế gian, còn thương mẹ, thương cha hoặc cái này kia nó vẫn còn hoài, nó không hết mà suốt bảy năm như vậy, làm sao thoát khỏi nếp sống ức nhiễm này? Bà nói cái ức nhiễm tức nó là cái thương, cái ghét, cái này, cái kia, cái nọ, ham muốn cái này cái kia, làm sao mà thoát ra được? Mà ông Phật, ông dạy mình mà tu hoài cũng không được! Nó không xả ra được, nó cứ dính hoài à! Cho nên bảy năm trời bà rất đau khổ! Ta hãy chết là tốt, bà nghĩ rằng mình đi tu như vầy mà cái tâm nó như vầy mà dẹp nó không được thì thôi chết cho rồi đi, để làm gì?
Bà cột một cái dây thòng lọng ở trên nhánh cây, đút cái cổ vào cái dây thòng lọng để thắt cổ chết cho rồi. Trong những giờ phút cuối cùng bà cố gắng triển khai thiền quán. Tức là bà đút cái cổ bà vô trong cái dây thòng lọng nhưng mà bà chưa có dám đạp cái ghế, sợ đạp nó siết họng chết đi. Cho nên lúc bấy giờ bà lúc đó bà chờ nếu mà quán mà nó không trôi được rồi, nó không xa được rồi thì bà đạp cái ghế một cái cho nó siết cái họng bà cho chết cho rồi chứ đừng có để cho nó dính dính ở trong đó nữa. Đó! các thầy thấy cái gương hạnh của người xưa kinh không? Người ta tu mà người ta thấy cái tâm nó không có dẹp được, người ta chỉ còn tìm cái chết. Mà giờ trước khi giờ chết người ta còn đem cái pháp ra để người ta tu hành coi xem cái giờ phút cuối cùng này nó ra hay không, hay nó còn dính nữa? Dính nữa thì ta đạp cái ghế cho mày đứt luôn! Đó, các con thấy cái sự tu hành của cái người xưa sao mà tuyệt quá! Họ không coi cái thân họ ra gì hết mà chỉ coi cái sự giải thoát là hơn hết!
Bà cố gắng triển khai thiền quán, trí tuệ viên mãn, nội tâm thiền quán tràn đầy, bà chứng được quả A La Hán, mở thòng lọng tức là cái dây cột cổ bà đó, bà trở về Tịnh xá. Nghĩa là bà chứng rồi đó, bà trở về Tịnh xá. Chỉ có đút cái cổ vô đó mà bà đã tu chứng, xa lìa được cái tâm thế gian tức là ly dục, ly bất thiện pháp đó. Những cái gương hạnh thiệt là tuyệt vời! Bà sung sướng, phấn khởi nói lên bài kệ:
“Không như lý tác ý
Bị dục tham ám ảnh
Nghĩa là luôn luôn lúc nào bà cũng tu tập theo lời Phật dạy mà bà không có cái Như lý tác ý ra, tức là Ám thị đó! Các thầy thấy bà sơ xuất ở chỗ Ám thị này! Ở trong này bà nói “Không như lý tác ý”, cho nên “Bị dục tham ám ảnh”, cái lòng ham muốn cái này, cái kia nó ám ảnh bà hoài mà không dứt được là do bà không có Như lý tác ý, tức là bà không dùng Pháp hướng. Còn chúng ta bây giờ hằng ngày tâm chúng ta khởi ham muốn cái gì hoặc là khởi có cái gì thì chúng ta dùng Pháp hướng chúng ta đánh bạt nó đi. Thì như vậy là chúng ta Như lý tác ý chứ gì? Còn cái này không, bà không có dùng theo cái lời Phật dạy cho nên bà nói:
Không như lý tác ý
Bị tham dục ám ảnh
 (nó cứ ám ảnh bà hoài à!)
Ta trước bị dao động
Không chế ngự được tâm
Bị phiền não chi phối
Lạc tưởng ngự trị ta
Tâm ta không thăng bằng
Bị tham tâm chi phối
Bảy năm sống ốm yếu
Da vàng, dung sắc xấu
Đêm ngày không an lạc
Ta sống chịu khổ đau
Do vậy ta lấy dây
Đi vào giữa khu rừng
Tốt hơn ta treo cổ
Còn hơn sống hạ liệt
Nghĩa là bà thấy cái tâm mà nó còn thương, còn ghét, còn ham, còn muốn này kia là cuộc sống hạ liệt, đâu phải là cuộc sống mà cao thượng đâu? Cho nên bà biết như vậy mà sao lại ly không được? Do cái chỗ bà không dùng pháp hướng, cho nên khi mà chứng rồi bà mới thấy, cái chính là do không Như lý tác ý, Như lý tác nó nó mới chính là cái chỗ để dẹp, còn bà không có dùng cái đó, cho nên bây giờ bà mới vô đầu bà nói “Không như lý tác ý” cho nên tâm bà bị tham dục, bà nhắc cho chúng ta thấy cái chỗ đó.
Bởi vì qua cái bài kệ này Thầy thấy qua những cái kinh nghiệm mà người ta nếu một người có tu, người ta nghe cái câu đó người ta biết rằng cái bà này thiếu Như lý tác ý tức là pháp ám thị, cho nên bà mới khổ sở bảy năm trời như vậy, cho nên đến chừng mà đút thòng lọng vô trong cổ đến gần chết rồi bà cứ nhắc đi nhắc lại, bà tác ý lia lịa, đến chừng đó bà xả được cái tâm của bà liền. Bà thấy đúng là pháp Như lý tác ý là cái pháp tuyệt diệu nhất chứ không có gì hơn. Đó thì, hôm nay lấy cái bài kệ này thì các thầy đã biết cái pháp nào mà các thầy tu rồi chứ gì? Cái gì mà tâm của quý vị nó khuấy động thì quý vị phải biết nó động tâm vì cái gì chứ gì, mà nó động tâm gì thì ngay ngay ngồi dậy thẳng lưng liền để mà đặt cái niệm đó trước mặt mà lấy cái pháp Như lý tác ý đó mà tát tai cho nó văng ra đi, đừng có để nó ôm ở trong bụng của quý vị thì quý vị sẽ thoát khỏi chứ gì? Cứ như vậy mà tu tập thì vô lậu nó sẽ đến với quý vị chứ có gì khác hơn?
“Còn hơn sống hạ liệt
Làm chắc dây thòng lọng
Ta cột ở cành cây
Quàng thòng lọng quanh cổ
Tâm ta liền giải thoát”
Mau không? Các thầy thấy xỏ cái đầu vào dây rồi bắt đầu ở đó mà quán, mới dùng Như lý tác ý ra, tất cả đều khổ, bây giờ có đứt cổ thì chết cũng là khổ, có nghẹt họng cũng chết cũng là khổ, cho nên vì vậy mà bà quán riết trôi ra hết tất cả, từ đó giải thoát.

Ðó thì, những cái gương hạnh của người tu nó gần gũi với chúng ta quá chừng, mà gần cái pháp mà Thầy dạy cho các thầy quá đỗi. Mà cái người ta không có tu tập mà người ta không có khai triển được cái gương hạnh này ra? Những cái bài kệ bà ta viết rõ ràng, bà ghi lại ở trong kinh rõ ràng như vậy, thế mà không có ai khai triển nổi ra những cái pháp tu hành này! Còn bây giờ, vì cái sự kinh nghiệm tu tập, qua cái pháp hướng mà Thầy biết đó là Ám thị chứ gì? Như lý tác ý chứ gì? Do đó Thầy khai triển ra thì đâu đâu nó cũng giống nhau như là in rập khuôn hết. Cho nên các vị đều là những bậc Thánh tăng, những bậc Thánh ni thời xưa, cũng đều là có những cái tu tập giống như mình không khác, mà người ta đạt được cái kết quả là do cái pháp hướng chứ không phải gì. Bởi vì chúng ta tu tập sai thì nó làm sao mà nó đúng được?

CÂU CHUYỆN BÀ PATACARA
Bây giờ Thầy nhắc đến bà Patacara, bà Patacara này là người ta còn dịch cái tên theo cái âm của người Hoa đó thì bà có gọi là cái tên là Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo, mà cái tên này thường thường chúng ta hay nghe bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo. Ở đây, cái câu chuyện của bà thì dài dòng lắm, nó không có ngắn, nhưng mà ở đây thì Thầy tóm lược lại để cho chúng ta biết để mà qua những bài kệ của bà để mà chúng ta lấy kinh nghiệm mà tu tập thôi. Khi bà đến với đức Phật với một tâm trạng đau buồn nhất, hai đứa con đã chết, chồng cũng chết, cha mẹ và đứa em trai cũng chết. Nghĩa là đồng thời trong một cái ngày hôm đó là cả một cái gia đình chết tan nát, chỉ còn một mình bà sống thôi. Đức Thế Tôn dùng kệ khuyên bà:
“Nước bốn biển ít hơn
Nước mắt của loài người”
Đức Phật nói nước bốn biển nó còn ít hơn nước mắt loài người.
“Khóc than vì đau khổ
Vậy sao ngươi hủy hoại”
Nghĩa là bà đang ở trong cảnh đau khổ, hai đứa con chết, chồng chết, rồi cha mẹ, rồi đứa em trai cũng chết, làm sao bà không khổ? Vì vậy mà đức Phật có cái bài kệ để khuyên bà, thì đức Phật ví như nước bốn biển ít hơn nước mắt của bà trong lúc này nữa, nhưng đức Phật có cái ý trách bà sao bà lại quá ngu si vậy, khóc than để mà mình tự giết hại mình, hủy hoại cái sinh mạng của mình sao? Nghe kệ xong, bà nguôi được cơn đau buồn. Bậc Đạo sư lại dạy tiếp :
“Các con, cha, bà con
Không phải chỗ nương tựa
Khi thân hoại, mạng chung
Bà con, huyết thống ngươi
Không thể che chở ngươi
Thấy được sự thật này
Kẻ trí sống giới đức
Và mau chóng thành tựu
Con đường hướng Niết Bàn”
Đó, đức Phật nói là dù mình có thương, có gì đi nữa mà khi thân hoại, mạng chung hoặc mình đau bệnh, mình già chết thì chắc chắn là bà con huyết thống của mình, những người thân, cha mẹ của mình không thay thế mình được cái điều đó đâu! Cho nên cái người trí biết thì phải sống với giới đức, giới hạnh, còn cái người không biết thì không sống với giới đức, giới hạnh thì không có thể nào mà hướng tới con đường mà Niết Bàn được.
“Và mau chóng thành tựu
Con đường hướng Niết Bàn”
Đức Đạo sư lại dạy tiếp:
“Người sống một trăm năm
Không thấy pháp sinh diệt
Tốt hơn sống một ngày
Thấy được pháp sanh diệt”
Nghĩa là Ngài khuyên như vậy để rồi Ngài cho một cái đề mục. Ngài khuyên cho bà này và an ủi được bả rồi, bả hiểu được rồi là lấy giới mà sống, khi mà sống được với Giới đức rồi thì cái người đó phải dùng cái Định vô lậu mà quán xét, quán xét cái sự vô thường, cái sự sanh - diệt của các pháp, cho nên cái bài kệ, bốn câu kệ này :
“Người sống một trăm năm
Không thấy pháp sinh diệt
Tốt hơn sống một ngày
Thấy được pháp sanh diệt”.
Chúng ta tuy là biết cái thân này nó vô thường, nó sanh - diệt liên tục ở trong này, mà chúng ta biết, hiểu như vậy mà chúng ta không sợ hãi, không có lo lắng tu hành mà cứ sống để cho nó sanh - diệt, sanh - diệt mãi.
Cho nên, coi như là sống dù một trăm tuổi mà không biết nó sinh - diệt, như bây giờ chúng ta là những người chưa biết sinh - diệt, cho nên chúng ta chưa dám ly gia đình, chưa dám bỏ của cải, chưa dám bỏ tài sản. Đó là chúng ta chưa biết pháp sinh diệt, bởi vì tất cả các pháp sinh - diệt nó đều thay đổi liên tục. Bữa nay nó là của mình, ngày mai nó là của người ta chứ còn là của mình nữa sao? Thế mà mình cứ chấp là của mình, mình cứ ôm giữ nó hoài. Cũng như bữa nay là vợ mình, ngày mai biết là vợ ai đây? Cho nên vì vậy mà mình cứ ôm nó là vợ mình không à, mà không ngờ rằng ngày mai mình chết, ngày mốt nó đi lấy thằng khác mất rồi! Mình đâu có biết được chuyện đó, vì nó là pháp sinh - diệt mà? Nó đâu có phải là thường còn được? Cho nên có ông Trang Tử ông ấy vỗ bụng ca đó, khi mà vợ ổng chết ổng đánh trống ổng vỗ: “Vợ chết trước là vợ ổng, vợ chết sau là vợ người ta”.
Rõ ràng là cái lời của ông Trang Tử nói rất đúng về pháp sinh - diệt, cho nên nó đâu có thường hằng được? Mình nghĩ là mình chết chắc vợ mình nó ở vậy nó nuôi con thôi chứ, nhưng mà sự thật ra ba bữa sau nó chờ cho mình chôn xuống mồ rồi, ba bữa sau nó đi theo thằng khác rồi. Cái điều đó là mình không ngờ được cái sự sinh - diệt đó, thế mà mình cứ ôm ấp cho mọi cái là của mình hết. Tiền của bữa nay do mồ hôi, nước mắt mình làm ra, chưa chắc gì mình đã thọ hưởng hết được, tối mình làm ra rồi mình đem cất trong tủ, tối thằng trộm nó vô nó lấy hay hoặc ăn cướp nó vô nó cạy họng, nó đánh mình u đầu, đổ máu rồi lấy ra cũng sạch. Đó là pháp sinh - diệt, nó càng đem cái sự khổ đến cho mình, cho nên ở đây đức Phật nói:
“Tốt hơn sống một ngày
Mà thấy pháp sinh diệt”.
Thấy được pháp sinh - diệt thì người ta vứt bỏ hết chứ người ta đâu có thèm nữa? Nó là rắn độc mà, nó là thú dữ mà, tại sao mình cứ huân vô để mình lấy khổ? Nó không giải thoát được! Cho nên ở đây, khi một người mà đã hiểu được Phật pháp rồi người ta rất sợ các pháp sinh diệt! Mà các pháp sinh diệt là gì? Là xung quanh chúng ta toàn là các pháp, nó luôn luôn sinh - diệt! Cho nên chúng ta phải ra khỏi, ra khỏi cho mau chứ không phải là còn một phút giây nào là đau khổ, cũng như là bây giờ Thầy còn cái thân này nè tức là Thầy còn đau khổ chứ? Bữa nay nó không đau nhưng ngày mai nó đau.
Suốt cái thời gian mà Thầy giảng cho quý thầy, quý thầy thấy Thầy cũng mệt nhọc, cũng khổ sở, cũng đủ thứ hết, cũng nhức đầu, cũng mệt cái này, cũng mệt cái kia chứ đâu phải, đó là cái pháp sinh - diệt mà làm sao mà bảo nó đừng làm cái chuyện đó được? Cho nên bỏ nó là chúng ta khỏe, vì vậy mà bỏ nó tức là Thầy được giải thoát hoàn toàn, cho nên đâu có thiết gì cái thân này mà phải trường thọ làm gì?
Khi nghe kệ xong, bà đặt cái pháp trạch pháp đó, bà lấy các pháp vô thường sinh diệt, bà đặt thành một cái pháp hướng, cho nên từ đó bà quán cái pháp hướng đó mà bà tu tập cái Định vô lậu, bà chứng được quả A La Hán liền tức khắc. Các thầy thấy chưa, nội cái ông Phật, ông cho bốn cái câu kệ này là bà ấy đã biết được đó là cái pháp hướng của bà rồi. Còn chúng ta nghe cái câu kệ này chứ chưa biết đâu, phải không? Nhưng mà Thầy giải thích ra thì quý thầy biết đây là một cái pháp hướng trạch ra cái câu này, tức là ông Phật ông ấy biết không có thế nào mà không dạy cho cái bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo này mà hiểu được cái pháp hướng này thì chắc là không hết cái lậu hoặc của bà ta đâu! Cho nên ông Phật tiếp thêm cho bà cái câu trạch pháp ra, cái câu pháp hướng.
“Người sống một trăm tuổi
Không thấy pháp sinh diệt
Tốt hơn sống một ngày
Thấy được pháp sanh diệt”.
Do đó bà đặt cái câu này ra bà làm cái trạch pháp của bà, thì hằng ngày bà dùng cái đó mà quét sạch cái tâm vô lậu của bà, cho nên bà chứng quả A La Hán. Sau khi bà chứng quả A La Hán rồi thì bà cũng có làm một cái bài kệ nói lên cái chỗ tu tập của mình:
”Với cày, cày ruộng đất
Gieo hạt giống trên đất
Loài người được tài sản
Nuôi dưỡng vợ và con
Sao ta giới đầy đủ
Làm theo Đạo sư dạy
Lại không chứng Niết Bàn?
Không sợ, không dao động
Khi ta đang rửa chân
Làm cho dòng nước chảy
Thấy được nước rửa chân
Từ cao chảy xuống thấp
Nhờ vậy tâm ta được định
Như ngựa hiền khéo luyện”.
Đó, thì khi mà đức Phật khuyên bà để cho bà không có buồn khổ, rồi khuyên bà để bà thấy rằng các pháp thế gian không phải là chỗ nương tựa như cha mẹ, anh em, huyết thống gì đó, không phải là chỗ nương tựa, của cải, tài sản cũng không phải là chỗ nương tựa, nhưng mà bà cứ bà tu hoài mà sao bà thấy rằng giới luật của Phật giảng cho bà như vậy, bà giữ giới luật như vậy. Bởi vì trong cái bài kệ trước thì quý Thầy thấy có cái chỗ “Kẻ trí sống giới đức” đó, cho nên bà giữ gìn giới đức của Phật dạy, cái giới nào bà cũng giữ rất là nghiêm chỉnh, nhưng mà bà thấy sao mình lại không chứng Niết Bàn? Làm theo lời Đạo sư dạy lại không chứng được Niết Bàn, mà tâm thì không sợ, không dao động, không có buồn lo nữa mà sao vẫn không chứng?
Một hôm đó bà được đức Phật cho cái bài kệ tiếp bà cũng chưa hiểu nữa. Cho nên bây giờ hôm đó bà đang rửa chân, bà rửa chân, rồi bà thấy cái dòng nước mà nó chảy xuống, rồi thấy được nước rửa chân từ trên cao mà nó chảy xuống thấp, “Nhờ vậy tâm ta định”, nghĩa là trong lúc đó bà mới nhớ lại câu kệ này, tức là cái dòng nước nó chảy hoài, chảy hoài thì bà nghĩ rằng nó chảy hoài tức là vô thường chứ gì?Đó, thì các pháp sinh - diệt đó nó không còn cái chỗ mà một mực nữa, cho nên từ đó mà bà mới ngộ được bốn cái câu ở bài kệ trên, do đó bà mới đặt nó thành một cái câu thiền quán vô lậu của bà để cho bà quét sạch những lậu hoặc. Nhờ cái thực hiện rửa chân rồi bà, bởi vì đức Phật nói mà bà chưa có hiểu, bà chưa có thấu đạt cái lý đó, từ cái chỗ bà rửa chân, bà thấy nước nó chảy xuống, chảy xuống mà nó không có chảy lại được, do đó bà mới thấy à cái dòng nước là cái dòng các pháp sinh - diệt, cho nên bà ngộ được rồi. Bà ngộ được rồi thì cái tâm bà nó được định tỉnh rồi, được định tỉnh rồi thì bà mới như thế nào để cho tiếp tục trên con đường tu hành của bà.
“Rồi ta cầm cây đèn
Bước vào ngôi Tịnh xá
Nằm trên chiếc giường nhỏ
Ta nhìn, quán ngọn đèn
Rồi ta lấy cây kim nhỏ
Dìm tim đèn xuống dần
Thấy cây đèn Niết Bàn
Tâm ta được giải thoát”.
Như vậy là như thế nào? Bây giờ cái ngọn đèn nó như thế này, đang cháy ngọn lửa đó, bà lấy cái kim bà đè cái tim đèn cứ dần dần xuống thì ngọn lửa cứ nhỏ dần, nhỏ dần cho đến khi cái tim nó bị lún sâu quá và ngọn đèn nó tắt đi, thì bà thấy ngay đó là cái dòng sinh - diệt nó đã hết rồi. Các thầy thấy, đó là qua cái kinh nghiệm tu hành của người ta, quán xét từng chút để người ta thấy được cái tâm của người ta thay đổi từng chút từng chút ở trong cái sự quán xét của Định vô lậu nó như vậy. Còn mình ngồi quán quán gì thì mình cũng chẳng biết gì hết, còn người ta rất là vi tế ở trên cái sự tu tập của người ta để người ta quán xét được cái chỗ tu tập đó. Đó là những cái bài kệ qua những cái kinh nghiệm tu tập rất là vi tế khi mà chúng ta tu Định vô lậu. Chúng ta phải xét từng chút, nếu chúng ta cứ đặt một cái câu rồi chúng ta quán thường nó thì không có nhằm nhò gì hết.
Cho nên Thầy nói Thầy ngồi ở trên núi, ở trên cái Hòn Sơn đó, Thầy ngồi mà Thầy dùng những cái sự quan sát những loài chúng sanh, Thầy thấy như thế này, thế khác, nó làm cho tâm của Thầy nó mới có khởi lên cái lòng thương yêu đối với chúng sanh sâu sắc. Còn các thầy không chịu ngồi quan sát thì làm sao các thầy có lòng thương yêu đó được? Cho nên, ở đây chúng ta muốn vô lậu thì chúng ta phải quan sát tất cả những sự kiện thay đổi, mà những sự kiện thay đổi đó nó làm cho chúng ta sâu ở trong cái chỗ pháp, cho nên chúng ta mới chứng được cái lý vô thường. Còn các thầy cứ nghe Thầy nói câu nào viết đó, rồi cứ nhai đi nhai lại cũng như nhai bã mía vậy thì thôi thôi nó có vô thường gì được? Các thầy hiểu điều đó không?
Cho nên Thầy mới thấy bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo này thiệt là hay à! Cái bài kệ này thật là tuyệt diệu, nó ở trong cái hành động để mà phá vỡ cái lậu hoặc. Nếu mà không đem cái bài kệ này giảng cho quý thầy thì chắc chắn là quý thầy cũng nhai lại bã mía của Thầy thôi chứ không có gì khác hơn, nhai hoài mà lậu hoặc nó vẫn còn, cũng vẫn còn nhớ nhà nhớ cửa, cũng còn nhớ này kia mà nó không hết. Đó, đến đây là chúng ta đã qua những cái gương hạnh của Thánh Tăng và những bậc Thánh ni.
***
GIỚI HẠNH VÀ GIỚI ĐỨC

Tiếp tục trong cái phần giáo án hôm nay, để bổ túc thêm phần Giới hạnh và Giới đức, quý thầy hãy lắng nghe cho kỹ ở phần này để biết, mà giữ gìn và trau dồi thân, tâm đầy đủ Giới hạnh và Giới đức, để không còn vi phạm một lỗi lầm nhỏ nhặt nữa, để tâm trọn vẹn lìa xa lòng ham muốn và các ác pháp thế gian, để tâm sống trong cảnh giới thanh thản, an lạc mà các bậc Thánh đang thọ hưởng, đang sống thầm lặng trong cảnh giới đó, cảnh giới của Giới hạnh và Giới đức đã viên mãn.
Bây giờ quý thầy hãy lắng nghe những câu hỏi và trả lời, những câu hỏi để truy tìm cái gốc tội lỗi, ngõ hầu để biết rõ dùng Giới hạnh và Giới đức đập tan tành cái gốc khổ của loài người. Nghĩa là chúng ta phải truy tìm ra khi mà học cái Giới đức và Giới hạnh xong thì chúng ta phải truy tìm coi những cái gốc khổ và cái gốc mà làm cho con người đau khổ như thế nào. Mặc dù là trong kinh Phật có nói là do cái lòng ham muốn là đau khổ, nhưng mà chúng ta phải truy tìm cho nó sâu xa hơn nữa, chứ không thể nói đơn giản là do cái lòng ham muốn đó, do cái tâm dục của mình là cái nguyên nhân sanh ra đau khổ, mà nó còn có những cái chi tiết li ti nhỏ mà chúng ta phải thấu đáo. Nếu không có thấu đáo thì chúng ta không có biết đường đâu mà chúng ta dẹp.
Bây giờ, đầu tiên có một câu hỏi và có một sự trả lời để chúng ta theo đó mà chúng ta tìm ra xem cái lối nào mà cái tâm chúng ta nó đi đến cái chỗ tham dục đó?
Tại sao con người lại sanh ra oán thù và đánh đập nhau bằng dao gậy?Đó, vào đầu cái câu hỏi đầu tiên đó, thì chúng ta thấy cái sự đau khổ của con người ở trên thế gian này là cái sự oán thù, cái sự đánh đập nhau bằng dao gậy.
Bắt đầu để trả lời cái câu hỏi đó, sự sanh ra oán thù và đánh đập nhau đều do lòng tham lam và ganh ghét.Do lòng ham muốn, tham lam của mình, tham cái này, tham cái kia và cái sự ganh ghét đó nó mới có cái sự đánh đập nhau, mới có sự thù hằn nhau. Thì chúng ta thấy nếu mà không có lòng tham lam, không có sự ganh ghét thì làm sao đánh đập nhau? Đúng không? Đó là câu trả lời rất đúng! Không thể nào mà chúng ta phủ nhận rằng cái câu trả lời này là sai được.
Lòng tham lam và ganh ghét do đâu mà sinh ra?Người ta lại đặt câu hỏi thêm cho mình thấy, bây giờ mình nói bây giờ có sự đánh đập, cái sự thù hằn nhau là do lòng tham lam và ganh ghét thì ai cũng chấp nhận rồi. Nhưng mà bây giờ người ta hỏi lòng tham lam và ganh ghét này ở đâu mà sanh ra?
Đó, tức là chúng ta phải truy ra thử coi nó ở chỗ nào? Thì đây là câu trả lời Phật đã trả lời trong kinh để chúng ta thấy rất rõ, “Lòng tham lam và ganh ghét là do thương, ghét mà sanh ra”,có thương, có ghét thì mới sanh ra, chứ không phải là ngoài cái thương ghét mà nó có cái lòng tham lam và ganh ghét được.
Thì người ta lại hỏi :  thương, ghét do đâu mà sanh ra?
Trả lời, thương, ghét là do tham dục mà sanh ra.Mình có thương, có ghét là do cái lòng ham muốn của mình mới sinh ra. Bây giờ mình mới thấy cái chỗ dục đó, truy ra từ cái chỗ mà oán thù, đánh đập đến cái chỗ tham dục thì mình mới biết rằng thương, ghét này là nó do cái sự tham dục mà sinh ra. Vậy chúng ta có thương cũng là do tham dục, mà có ghét cũng do tham dục. Mà có thương, có ghét thì nó mới có tham lam và ganh ghét (BBT:BN,19,0:45:29), (BBT:CĐ,20B,E00:43:27)mà có tham lam và ganh ghét thì nó mới có đánh đập và oán thù. Đó, bây giờ mình đi ngược trở lại thì mình thấy rất rõ.
Rồi bây giờ người ta hỏi : tham dục do đâu mà sinh ra?Đó, từ đó rồi bắt đầu mình mới trở về cái gốc của tham dục đó, tức là Phật nói cái gốc muôn khổ đó. Vậy thì người ta hỏi tham dục do đâu mà sinh ra?
Trả lời, do tưởng mà sinh ra!Mình tưởng chứ nó đâu phải có thật? Mình tưởng ra, mình ham muốn cái gì đó rồi mình tưởng ra chứ đâu phải khi không mà mình có ham muốn cái chỗ đó được? Mình tưởng ra, mình tưởng ra nó đẹp, mình tưởng ra nó xấu, mình tưởng ra thế này, kia. Đó là do tưởng mà sanh ra! Đúng không? Tham dục của mình do tưởng mà sinh ra chứ không có tưởng thì chắc chắn không có. Cho nên cái người mà người ta dẹp cái tưởng rồi thì người ta có tham dục nữa không? Người ta hết tưởng là hết tham dục mà còn tưởng là còn tham dục!
Cho nên chúng ta biết cái người mà tu thiền định là phải dẹp tưởng! Mà dẹp tưởng dần thì sẽ hết tham dục!
Tưởng do đâu mà sinh ra?Người ta hỏi tưởng do đâu mà sinh ra?
Bắt đầu ở đây Phật mới trả lời “Tưởng do điệu hý mà sinh ra”,điệu hý là cái gì? Các thầy có hiểu hai chữ này không? Đó, điệu hý có nghĩa là hý là vui, thích vui, mà điệu hý là cái kiểu cách làm thế này thế kia cho vui đó. Cũng như bây giờ mình thấy người ta đá banh cái mình thấy mình thích tức là mình bị điệu hý đó rồi, bị điệu hý đá banh rồi. Thấy người ta đánh cờ mình nhòm vô mình cũng ngứa nghề vô đánh cờ, thấy người ta bài bạc mình cũng ngứa nghề, thấy người ta uống rượu mình cũng ngứa nghề mình vô gọi là điệu hý! Đó, thấy không, cái đó là nó vui, nó đủ cái màn cách của nó gọi là điệu hý của nó đó! Cái danh từ người ta dùng như vậy, mình hiểu như vậy là nó gợi cho mình những cái vui thích, nó gợi cho mình vui thích. Do cái sự vui thích đó nó mới do cái tưởng và cái tưởng này nó mới sanh ra cái tham dục, nó mới có cái tham dục.
Mình tưởng cái đó là vui, đó cái điệu hý đó, tưởng do điệu hý sinh ra, cho nên do điệu hý với mấy cái chuyện người ta làm đó, nó vui vẻ đó, cho nên mình tưởng nó là vui, cho nên cái tưởng nó mới có sinh ra chứ biết đâu chừng đó là cái chuyện đau khổ của người ta? Cho nên mình tưởng nó là ngon rồi mà không ngờ mình vào đó là thấy mệt. Nhìn mấy thằng đá banh tưởng đâu là ngon lắm chứ nó đá, Thầy thấy nó thở muốn chết nó luôn, đâu có sung sướng gì đâu? Nhiều khi nó đá banh nó té ngã gãy chân, (BBT:CĐ,21A,B00:00:00)gãy giò nó nữa, coi nó muốn chết chứ đâu có sung sướng gì? Thế mà ở ngoài thì người ta vỗ tay khen, đó là điệu hý đấy! Thầy giải thích như vậy, dùng cái danh từ đó như vậy thì quý thầy chắc hiểu nó rồi!(BBT:BN,19,E00:48:16)(BBT:CĐ,21A,E00:00:20)
(PHẦN TIẾP THEO ĐẾN HẾT TRÙNG VỚI CÁC CHƯƠNG SAU)
(BBT:CĐ,21A,B00:00:20)(BBT:BN,19,B00:48:16)
Nếu người tu theo đạo Phật diệt trừ hết điệu hý, cho nên Phật cấm mình không có cho vui chơi gì hết ấy, các thầy thấy không? Cho nên vui chơi là nó điệu hý đó, nó sẽ không an trú được đâu!
Nếu người tu theo đạo Phật diệt trừ hết điệu hý, an trú trong cảnh tịch diệt được chăng?Đó, bây giờ có cái người mà hỏi đức Phật, bây giờ nếu mà nói như vậy thì là do cái này nó tưởng ra nó mới tham dục, bây giờ mình muốn diệt tham dục thì tức là mình phải diệt hết cái điệu hý này đi thì chắc chắn là nó hết chứ gì? Thì hỏi ông Phật và ông Phật nói “Không có trừ bỏ được điệu hý mà có thể an trú cảnh giới tịch diệt”, nghĩa là ở câu này Thầy xin đọc lại để cho nó rõ ràng hơn, nếu người tu theo đạo Phật diệt trừ hết điệu hý, an trú trong cảnh tịch diệt được chăng? Hay không trừ bỏ được điệu hý mà có thể an trú được trong cảnh giới tịch diệt được chăng? Nghĩa là hai câu hỏi này nó rất là rõ ràng. Một câu hỏi thứ nhất là nói mình diệt trừ hết điệu hý thì mình có an trú trong cảnh tịch diệt được chăng? Mà hay là không trừ bỏ hết điệu hý này thì mình vẫn có thể an trú được trong cảnh giới tịch diệt chăng?
Bây giờ đức Phật trả lời “Tu sĩ không trừ hết điệu hý mà an trú trong cảnh giới tịch diệt thì sao được?”.Phải không? Nghĩa là mình còn vui thì mình làm sao an trú trong cảnh tịch diệt được? Cho nên ông Phật, ông trả lời một câu mà bằng cách là trả lời luôn cả hai câu. “Vì thế gian có nhiều cõi, chúng sanh đều y cứ theo loại cảnh ấy và giữ gìn chắc chắn không thể rời bỏ, đồng thời họ cho đây là thật, còn ngoài ra là hư dối”.Đó, nghĩa là thế gian thì người ta chấp cứng trong những cái vui đó, cái điệu hý đó, cho nên người ta cho những cái đó là cái vui, cái hạnh phúc của họ. Cho nên ngoài ra thì nó không thật và là hư dối hết, chỉ có những cái đó là cảnh giới của họ, dục lạc của họ, thích thú của họ mà thôi. Cho nên nếu cái người mà muốn mà được ở trong cái cảnh giới mà tịch diệt, an trú ấy thì phải ly trừ hết những cái điệu hý thì nó mới có an trú trong cái cảnh giới đó được! Vì vậy mà đức Phật trả lời “Tu sĩ không trừ hết điệu hý mà an trú cảnh giới tịch diệt sao được?”.Đức Phật nói như vậy thì chúng ta biết rõ.
Vậy có bao nhiêu điệu hý?”,có người hỏi đức Phật thêm, có bao nhiêu cái điệu hý đó?
“Có ba điệu hý. Một là về khẩu, hai là về tưởng, ba là về mong cầu”.Quý thầy thấy ông Phật, ông dạy chúng ta từng cái chi tiết nhỏ để chúng ta hiểu biết được, đó là chúng ta phanh ra để chúng ta diệt cái lòng tham dục của chúng ta. Một người mà còn vui theo, thì tức là mình còn thích nói chuyện với nhau là còn vui theo chứ gì? Mà còn vui theo tức là điệu hý rồi! Nghe người ta thuật lại chuyện đông chuyện tây mình cũng khoái lắm chớ. Nghe người ta thuật lại chuyện cổ tích rồi mình cũng nghe cũng thích chứ! Đó thì tức là mình còn đang ở trong cái chỗ điệu hý. Đó là điệu hý về khẩu. Một là hại mình! Cái sự vui chơi đó nó làm cho mình có hại nè. Rồi hai là hại người. Cái chuyện mà vui chơi đó nó có thể làm hại người đó. Cái điệu hý đó nó có tên là (..?.) 52:10, và ba là hại cả hai, nghĩa là hại mình và hại người. Trong cái điệu hý đó nó có xảy ra về khẩu thì một là mình nói ra mà hại mình, hai là mình nói ra hại người, ba là mình nói ra là hại cả hai (cả mình và cả người).
Đó là đức Phật phân tích cho chúng ta thấy là về cái khẩu thì mình có những cái điều kiện đó. Nếu mà xả bỏ lời nói hại mình, hại người, hại cả hai và nói đúng lời, nói chân thật, không hại mình, không hại người, không hại cả hai thì chuyên niệm không tán loạn thành vô lậu. Đó, đức Phật nói mình nói ra cái lời nói gì, miệng của mình mình nói ra lời nói mà hại mình thì không nên nói, đó là điệu hý thứ nhất. Điệu hý thứ hai là nói ra lời nói mà hại người thì không được nói. Mà cái điệu hý thứ ba là nói ra lời nói mà hại mình, hại người thì không được nói. Cho nên mình phải nói như thế nào, nói như thế nào để cho đúng cách. Nói lời nói đúng như thật, không hại mình, không hại người mà không hại cả hai thì chuyên niệm không tán loạn thành vô lậu. Vậy thì mình nói lời nói mà không hại ai hết thì cái đó nói sao quý thầy thấy chưa? Là không nói! Phải không? Không nói là độc cư thì nó đâu có hại ai? Cho nên bây giờ nó chuyên niệm chứ gì? Cho nên tâm không tán loạn! Còn mình nói là tán loạn. Rõ ràng thấy không? Đó là mình diệt trừ cái điệu hý thứ nhất về khẩu của mình đó! Có đúng không? Nhờ vậy là chúng ta biết rằng diệt điệu hý tức là chúng ta sẽ diệt lòng tham của mình chứ gì? Đi từ cái gốc nhỏ đó mà chúng ta diệt ra chứ gì? Vậy thì chúng ta sống độc cư, không nói thì tức là không hại mình, không hại người mà không hại ai hết. Do đó là tâm không tán loạn, thành ra vô lậu! Ta thấy chỉ nội cái miệng của mình mà nó đã có được cái vô lậu rồi đó!
Về phần tưởng cũng có ba, tưởng mà hại mình, tưởng hại người và tưởng hại cả hai. Nếu xả bỏ tưởng ấy và dùng tưởng như thật, không bị hại mình, hại người, hại cả hai thì chuyên chú, nhớ mãi không quên, sáng suốt, thành vô lậu. Đó, không tưởng! Các thầy nghĩ đức Phật dạy như vậy thế nào? Nghĩa là ngồi đừng có tưởng tầm bậy! Mà không tưởng tầm bậy thì nó có hại ai đâu? Phải không? Mà không hại mình, không hại người, không hại cả hai thì lúc bấy giờ có tưởng nữa không? Mà không tưởng thì nó chuyên chú, nhớ mãi cái việc gì thì các con biết không? Đó thì chỉ còn có cái tâm của mình thanh tịnh, yên lặng, thanh thản đó thôi. Cho nên, sáng suốt thành vô lậu! Đúng không? Ông Phật dạy rất đúng! Như vậy là mình phá cái tâm tham dục của mình rất là dễ dàng đâu có gì khó? Biết cách làm như vậy, vì vậy cho nên bây giờ ngồi đừng có tưởng, ngồi đây mà tưởng đến chuyện nhớ nhà thì cái đó là như thế nào? Điệu hý rồi còn gì đâu? Nhớ cái này, nhớ cái kia là điệu hý rồi. Bởi vậy ông Phật ổng dạy để chúng ta biết rất rõ những cái điều kiện để mà chúng ta ngồi một cái tâm niệm của chúng ta chúng ta biết rằng nó thuộc về cái loại nào rồi!
Cho nên ở đây nếu mà Thầy không giảng cái này ra thì Thầy thấy thiệt là cái lời ông Phật dạy chỉ là phí cho ông, ông mệt mỏi quá rồi! Ông giảng ra cho chúng tỳ kheo trong thời đó mà bây giờ người ta chối bỏ cái này, người ta nói cái gì mênh mông ở trên trời ấy mà không dạy cho chúng ta biết từng chút này để mà chúng ta ly để mà chúng ta được cái tâm vô lậu. Mà thấy cái này rồi chúng ta biết cái tâm tư của mình bây giờ nó ở trong tưởng này, tưởng điệu hý này, phải không? Bây giờ miệng mình đang nói cái gì thì mình biết đây là khẩu nè, là điệu hý nè, biết nói như vậy là hại mình, hại người và hại cả hai nữa. Thôi thì im luôn cho rồi! Như vậy là mình ở trong cái chánh niệm của mình. Đó, tức là nó thành vô lậu! Thì cái tưởng nó cũng như vậy cho nên nó cũng thành vô lậu.
Về mong cầu cũng có ba, sự mong cầu của mình mà, mình ngồi mình mong cầu cũng có ba cái điệu hý của nó, hại mình, hại người và hại cả hai. Nếu xả bỏ sự mong cầu, thấy và mong cầu đúng cho thật, không hại mình, hại người, hại cả hai thì mong cầu đúng như thế sẽ chuyên chú, nhớ mãi không quên thành vô lậu.
Sự mong cầu mà không hại mình, không hại người và không hại cả hai hết thì cái sự mong cầu đó là mong cầu cái gì quý thầy biết hay không? Đó tức là mong cầu sự giải thoát nơi tâm của mình, là không có ai dính mắc vào trong tâm của mình được hết, cho nên nó thành vô lậu. Có gì đâu mà khó khăn khi mà nó mong cầu một cái gì khác hơn thì mình biết liền, mà nó không mong cầu thì tức là nó ở trong thanh thản rồi, nó ở trong cái tâm rất là an ổn rồi thì đó là vô lậu. Tâm niệm của mình chút nào là mình biết nó ở trong cái chỗ nào. Thì như vậy là chúng ta đã thấy được những cái điệu hý của nó rồi. Như vậy là biết được cái nguồn gốc để mà chúng ta tu về cái Định Vô lậu để cho nó quét sạch vô lậu, để cho nó quét sạch cái tâm tham dục của chúng ta.
“Bậc Thánh hiền xả thân có ba”.Bây giờ cái thân của chúng ta có xả ba cái cách của nó. Bây giờ hồi nãy là chúng ta do cái điệu hý, bây giờ chúng ta lại xả vì cái thân của chúng ta. Một là Hỷ thân, hai là Ưu thân, ba là Xả thân. Bây giờ đến cái giai đoạn của những bậc Thánh hiền tu tập, hồi nãy là những bậc phàm phu đó là chúng ta có những điệu hý, còn giờ là bậc Thánh hiền thì có vui nữa không? Có vui điệu hý như chúng ta này nữa không? Không! Hết rồi! Vậy thì bậc Thánh hiền có xả thân có ba là Hỷ thân, Ưu thân và Xả thân. Trong cái thân của chúng ta coi vậy nó còn có cái Hỷ nè, còn cái Ưu nè, rồi còn cái Xả của nó nữa nè. Bây giờ chúng ta là những bậc Thánh rồi, chúng ta đã xa lìa những cái tham dục của thế gian rồi, bây giờ còn cái phần thân của chúng ta để nó như thế nào đây?
Cho nên bậc Thánh mới có ba phần này! Hỷ thân cũng có ba, hại mình, hại người và hại cả hai. Bởi vì khi mà mình đã đứng vào trong những bậc Thánh hiền rồi thì mình coi chừng cái thân của mình nó cũng có thể làm hại mình, hại người và hại cả hai. Nếu xả bỏ hỷ ấy, chỉ dùng hỷ đúng như thật, không hại mình, hại người và hại cả hai, nhờ đó chuyên chú mãi không quên, đây là thọ Cụ túc giới. Bây giờ đó mới là một bậc Thánh hiền, mới gọi là thọ Cụ túc giới đây, chứ không phải như hồi nãy là Vô lậu đâu mà đây là thọ Cụ túc giới, nó mới đầy đủ cái giới, đầy đủ của cái vị tu sĩ đây. Nếu mà chúng ta dùng cái hỷ mà cái hỷ đó nó như là chúng ta tu về cái Hỷ vô lượng tâm đó. Cái Hỷ vô lượng tâm đó nó sẽ giúp chúng ta xả được không hại mình, hại người và hại cả hai. Cho nên chúng ta biết cái hỷ đó là hoan hỷ, vui theo với mọi sự, mọi vật. Do đó chúng ta không làm hại người nào hết, không làm khổ ai hết, không làm khổ mình, khổ người nữa.
Do đó mà chúng ta đã thực hiện Tứ vô lượng tâm thì chúng ta thấy cái hỷ này rất là cần thiết cho cái sự tu tập của chúng ta. Do đó thì chúng ta nhớ mãi không quên do cái lòng hỷ này, đó là chúng ta mới thọ Cụ túc giới.
Về Ưu thân cũng có ba, hại mình, hại người và hại cả hai. Chữ Ưu đây là cái sự buồn khổ đó, buồn khổ trong cái thân của mình. Thân mình nhức chỗ này, thân mình đau chỗ kia, lói chỗ nọ đó là sự buồn khổ của cái thân đó. Nếu xả bỏ Ưu thân này, dùng Ưu thân đúng như thật, không hại mình, không hại người và hại cả hai. Đây gọi là thọ Cụ túc giới. Nghĩa là chúng ta dùng cái Ưu thật, nghĩa là đừng có lấy cái đau khổ của mình mà làm cho mình khổ sở đó là cái sai.Mà lấy cái đau khổ phiền toái của chúng sinh mà làm cái chỗ thương xót, thì đó là chúng ta đã thọ Cụ túc giới đó. Như Thầy dạy Từ, Bi, Hỷ, Xả đó, quý thầy tu tập về cái lòng thương yêu của mình đó. Đó là cái chỗ về Ưu thân có ba đó, là không hại mình, hại người và hại cả hai. Tức là thực hiện tâm từ bi của mình đó. Đó gọi là xả về cái Ưu thân của mình. Đây gọi là thọ Cụ túc giới thứ hai.
Về Xả thân cũng có ba. Mình xả, có cái mình xả mà hại người, có cái mình xả hại mình, có cái mình xả hại cả hai. Cho nên mình phải xét cái nào mình xả, mình bỏ ra mà hại người khác. Cũng như bây giờ mình tính thôi bây giờ mình bỏ đi, mình bỏ mình đi tu đi, mình xả bỏ hết của cải, tài sản đi, bỏ luôn cả vợ con đi. Lúc bấy giờ vợ con không ai nuôi, không ai làm cho nó sống hết, nó khổ sở. Đó, mình xả cái kiểu đó là mình xả hại người ta đó, chết đó! Bây giờ con mình mới sanh ra, nó chưa có ai mà chăm sóc, chưa có ai lo lắng mình muốn xả bỏ con đi đi thì lúc bấy giờ ai nuôi nó? Đó là mình xả như vậy là sai! Vì vậy cho nên chúng ta khi mà xả những cái gì mà ở trong thân của chúng ta cũng như xả một cái gì đó thì chúng ta phải sáng suốt, khéo léo. Cũng như bây giờ, cái thân của chúng ta như thế này thôi bây giờ mình chặt cái đầu nó chết đi, nó là vô thường đi, mình xả bỏ nó đi cho nó không khổ nữa. Cái điều đó là mình xả ngu rồi chứ không phải là xả đúng. Cho nên vì cái sự xả đó mà làm khổ mình, hại mình thì cái đó là Phật nói xả kiểu đó là xả thân mà hại mình thì đừng có làm cái chuyện đó. Cho nên có một thời tỳ kheo mà nghe quán thân bất tịnh rồi họ thấy cái thân này ghê gớm quá, họ mướn người khác đâm cho họ chết đi thì một lúc sau đức Phật hay được cấm không có cho làm cái chuyện đó, không phải là cái chỗ như vậy.
Đó thì chúng ta thấy trong cái bước đường, nói về xả thì chúng ta phải sáng suốt xả mà không hại mình, không hại người mà không hại cả hai. Chứ có nhiều người ham tu, xả, bỏ gia đình, bỏ chồng con, trời ơi! Tức tối gần chết, vợ con gì nói nó không biết nghe, nó bỏ nó đi tu thì chắc là ông thầy chùa nào quyến rũ như vậy, tao đốt chùa. Bởi vậy trong cuốn Diệu Thiện đó, mà cô Diệu Thiện, cổ đi tu đó, cha cổ giận quá ổng đốt chùa. Ổng nói ông thầy quyến rũ con ổng, công chúa đi tu ổng giận đốt chùa, cho ớn, cho ghét! Đây gọi là thọ Cụ túc giới.
Về các căn, đầy đủ trong luật nghi của Hiền Thánh có chừng bao nhiêu tâm? Có người hỏi, về các căn mà được đầy đủ trong luật nghi của Thánh hiền có chừng bao nhiêu căn?
Đó, thì đức Phật cũng giải thích cho chúng ta thấy rằng về luật nghi mà đối với các căn của chúng ta được đầy đủ của Thánh hiền, về mắt thấy sắc, ta nói có hai. Nghĩa là đối với mắt ta thấy cái sắc, thấy các pháp đó thì ta thấy phải có hai, để cho cái luật nghi của giới Thánh hiền nó phải như thế nào đúng ở trong cái chỗ căn đó, cho nên đối với mắt thì nó có hai.
Một là đáng thân cận, hai là không đáng thân cận. Đó thì các thầy thấy khi chúng ta thấy một cái vật đó mà chúng ta đáng thân cận, mà khi chúng ta thấy cái vật đó mà chúng ta không đáng thân cận. Thì chúng ta phải thấy khi con mắt thấy cái vật đó mà chúng ta thân cận, mà thấy cái vật đó mà chúng ta không nên thân cận, thì cái này nó là Luật nghi của Phật đó, cái luật nghi của Phật. Mình thấy một cái gì đó mà gợi cái tâm dục của mình lên là không nên đáng thân cận, mà thấy cái đó mà tâm dục của mình không có gợi lên và không có ham thích đó, thì cái đó là đáng thân cận. Cũng như bây giờ các thầy vô đây ăn ngày bữa cơm mà không cho quý thầy ăn phi thời ấy, thì cái đó là quý thầy đáng thân cận. Thấy thực phẩm ở đây mà bắt đầu cho quý thầy không thấy thèm, thấy khát cái gì hết đó, thì đó là đáng thân cận. Mà các thầy thấy còn thèm ăn, còn này kia thì không nên đáng thân cận, vì cái chỗ đó không phải là cái chỗ tu.
Cho đến tai nghe cũng vậy, mà mũi ngửi mùi cũng vậy, lưỡi nếm vị cũng vậy, thân xúc chạm cũng vậy, ý duyên pháp cũng vậy. Nghĩa là cũng có hai pháp, lúc thì cái mũi ngửi mùi của mình, cái tai nghe tiếng của mình thì cái tiếng nào đáng thân cận, cũng như nghe Thầy thuyết giảng thì các con nghe cái tiếng đó là đáng thân cận. Mà nghe ca, nghe hát, nghe mấy cô đào ở thành phố mà phát đài á, các con mở đài ra nghe ca hát, trời du dương quá! Tám câu vọng cổ, mười câu vọng cổ nghe trữ tình dữ tợn, nghe nó muốn xiều hết á, thì các con nên dẹp những cái thứ đó đi! Cái đó là không có đáng nghe! Cái tiếng đó là không có được nghe!
Còn những cái mùi thơm, mùi này mùi kia, mùi mà làm cho chúng ta gợi lên cái thích ăn, thích mà gần gũi thì những cái mùi đó dẹp đi! Những cái mùi vị của đạo thì nên là gần gũi, còn cái mùi vị mà của thế gian thì không nên gần gũi!
Còn cái lưỡi nếm vị cũng vậy, vị ngon, vị đắng, vị này kia tất cả, xa lìa nó đi, đừng có nếm những cái vị đó nó không có được! Phải nếm cái vị Cam Lồ của cái sự tu hành của chúng ta mà thôi!
Thân xúc chạm cũng vậy, ý duyên pháp cũng vậy, cho nên nó cũng có hai. Đó là quý thầy nhớ kỹ để mà chúng ta nỗ lực tu hành.
Đó là như thế nào? Mắt thấy sắc mà thiện pháp tổn giảm. Nghĩa là đức Phật nói khi con mắt chúng ta thấy một cái hình ảnh đó mà cái thiện pháp nó bị làm giảm xuống đi mà bất thiện pháp nó tăng trưởng thì không nên thân cận cái đó. Bây giờ các thầy hiểu chưa? Mà bây giờ mắt nó thấy cái sắc đó mà cái thiện pháp nó tăng trưởng. Bây giờ thấy thí dụ như có người ăn mày đi sang đường của mình, đi ngang trước ngõ mình, mình thấy cái người đó đói khổ quá, tội nghiệp, mình lấy gạo mình cho người đó, hay lấy cơm cho người đó, hay lấy thực phẩm cho người đó, hay lấy tiền cho người đó thì cái đó là mình thân cận cái đó!
Còn mình thấy một cái người uống rượu mà mình nhào vô mình uống rượu với họ, thì thôi thôi đừng đừng thấy cái này thì thôi, đó là ác pháp nó tăng trưởng rồi đó, mà thiện pháp nó giảm xuống thì mình tránh xa cái bọn uống rượu đi! Như vậy đó là mình mắt thấy sắc mà thiện pháp nó tổn giảm thì ngay đó là mình lui đi, thấy người ta bài bạc thôi đừng rớ vô vì đó là cái ác pháp rồi. Bất thiện pháp nó sẽ tăng trưởng lên mà thiện pháp nó giảm, vì vậy cho nên mình tránh xa đi!
Mắt thấy sắc mà thiện pháp tăng trưởng, bất thiện pháp tổn giảm thì nên đáng thân cận! Đây là các căn đầy đủ luật nghi Thánh hiền. Đó thì quý thầy thấy chưa? Bởi vì mình muốn cho cái luật nghi của Thánh hiền mình, cái oai nghi, cái tế hạnh của luật của mình được đầy đủ thì mình có con mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý của mình đối với pháp nào mà đáng thân cận và pháp nào không đáng thân cận. Thấy thiện pháp tăng trưởng thì thân cận, còn thấy ác pháp tăng trưởng thì mình không được thân cận. Đó, Phật dạy cho mình từng chút để mình giữ oai nghi, cái luật nghi tế hạnh của mình ở trong những cái chỗ mà mình có thể tiếp xúc chứ đâu phải là đức Phật dạy luật nghi mà không có cái hiểu biết như vậy thì quý thầy sẽ bị phạm hết sao?
Cho nên trong cái dạy về giới luật Thầy dạy rất kỹ về cái vấn đề này để cho quý thầy thấy được cái chỗ tu tập của chúng ta trong cái giới hạnh cho nó nghiêm chỉnh, biết được nó cái nào là đúng, cái nào là sai ở trong cái oai nghi, chánh hạnh của bậc Thánh hiền.
“Có bao nhiêu cứu cánh?”,ở đây có người hỏi đức Phật, “Có bao nhiêu cứu cánh?”.
“Bị ái làm khổ thân, tâm mà diệt được thì là cứu cánh”.Đức Phật trả lời đó! Bị ái, tức là bị thương ghét, bị ham muốn làm khổ thân, tâm của mình mà diệt được cái đó là cứu cánh!
“Vậy thì cứu cánh có bao nhiêu?”.
“Có ba cứu cánh!”.Đó, đức Phật phân tích cho chúng ta thấy nó có ba cứu cánh. Bây giờ chúng ta diệt ái mà nó sạch rồi thì thân, tâm của chúng ta không còn khổ được nữa, thì đó gọi là cứu cánh chứ không phải là cứu cánh có một cảnh giới nào khác lạ hơn là cái chỗ mà chúng ta diệt cái lòng ham muốn của chúng ta. Do đó, khi mà cái lòng ham muốn nó hết thì đó gọi là cứu cánh. Nhưng mà nó có mấy loại cứu cánh? Ở đây Phật nói có ba loại cứu cánh.
- Một là cứu cánh phạm hạnh.Cứu cánh phạm hạnh tức là giới hạnh đó, các con thấy giới hạnh đó! Vậy thì cứu cánh phạm hạnh, một người mà còn làm nghề nông nè, còn làm thư ký nè, còn làm thầy thuốc nè thì cái đó có phạm hạnh không? Không có phạm hạnh! Cho nên nó còn bận tâm lo là đi vào rừng đào rễ cây về vạt, rồi hốt, rồi bằm, sắc, sao, rồi đốt hay hoặc là tẩm rồi chế cái này, chế cái kia ra rồi mới hốt cho họ thành thang để họ trị bệnh, thì như vậy họ có cứu cánh không? Hay hoặc là họ đang bận công việc, họ đâu có giải thoát đâu mà gọi là cứu cánh? Cho nên không thể nào mà gọi là cứu cánh phạm hạnh được! Mà cứu cánh phạm hạnh thì gọi là giới hạnh.
- Cái thứ hai là cứu cánh an ổn.Cứu cánh an ổn gọi là giới đức. Một người mà tu mà ngồi thiền định mà nhập từ Sơ thiền đến Tứ thiền, có an ổn không quý thầy? Rất an ổn, hỷ lạc rất tràn đầy, lúc bấy giờ ngồi như ở trên cái cảnh giới mà Thiên đàng chứ đâu phải là ngồi dưới đất này đâu? Cho nên vì vậy gọi là Giới đức.
- Ba là cứu cánh Vô dư,đó là cứu cánh Vô dư, đó là Giới tuệ. Cái cứu cánh Vô dư đó là Giới tuệ. Các thầy thấy, ba cái cứu cánh này nó ứng với ba cái giới mà chúng ta đã học, Giới hạnh, Giới đức, Giới tuệ.
Đó, thì qua những cái bài học như vậy thì chúng ta đã thấy, biết được con đường mà chúng ta tu tập nó phải đi từng bậc nào để đi vào trong những cái giới luật mà chúng ta đã học.
Tiếp tục Thầy giảng thêm cái phần này để chúng ta thấy được con đường mà tu tập giới luật của chúng ta nó thực hiện như thế nào để mà chúng ta biết được cho nó rõ ràng hơn để mà chuẩn bị cho cái sự bước qua một cái giai đoạn mà giới tuệ cho nó thông suốt. Chứ còn nếu không bước qua giới tuệ thì tức là chúng ta thấy như mình ở trên trời xanh chứ chưa phải là ở dưới đất đâu!
NĂM DỤC TRƯỞNG DƯỠNG
Có năm pháp khiến dục lạc tăng trưởng!Hồi nãy chúng ta nói dục đó, tham dục đó, thì bây giờ cái việc mà khiến cho dục lạc nó tăng trưởng, có năm pháp khiến cho dục lạc tăng trưởng. Người tu sĩ Phật giáo phải xem năm pháp này là dây xiềng xích, lòi tói trói chặt người tu sĩ, không có vẫy vùng, khó mà vẫy vùng ra khỏi. Nghĩa là phải thấy năm pháp mà khiến cho cái dục lạc của thế gian nó tăng thịnh ở trong tâm của chúng ta. Vậy năm pháp đó là gì?
Những pháp, những sắc pháp do mắt cảm nhận khả ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục lạc, ái lạc.Đó, thì cái pháp nào, lẽ ra thì Thầy đã giảng ở trong cái chỗ mà ngũ dục lạc, rồi sáu cái dục lạc sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đó, nhưng mà Thầy lướt qua cái chỗ đó đi. Cho nên bây giờ Thầy nghĩ là nếu mà không nhắc lại sơ cái này coi như lược sơ ấy, thì quý thầy, không có giảng cái phần đó thì coi như là hơi thiếu. Thay vì phải giảng cái phần đó thì nó cũng quá nhiều cho nên Thầy không giảng nhưng ở đây Thầy chỉ lược sơ để cho quý thầy thấy được cái chỗ mà sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp đó, đó là nó lôi hút, nó cám dỗ chúng ta cũng dữ lắm!
Nhưng ở đây, để xuyên qua trong cái phần mà giới luật của Giới tuệ thì chúng ta nhắc lại cái phần này để chúng ta thấy được cái chỗ mà chúng ta tiến vào con đường của đạo Phật.
“Những sắc pháp do mắt cảm nhận, nó làm cho chúng ta thấy khả ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục lạc và ái lạc”.Đó, thì những cái pháp đó chúng ta thấy nó là những cái sợi dây mà xiềng xích, lòi tói mà trói chặt chúng ta lắm đó! Coi chừng những cái hình ảnh, những sắc pháp đó nó sẽ cám dỗ chúng ta mạnh lắm đó!
Những tiếng pháp do tai cảm nhận, những cái âm thanh, tiếng pháp đó, coi chừng nó cũng có thể là những sợi dây xiềng xích, lòi tói nó trói chặt chúng ta lắm đó!
Những hương do mũi cảm nhận, những hương thơm do mũi cảm nhận, nó cũng là sợi dây xiềng xích, lòi tói trói chặt chúng ta đó!
Những vị do lưỡi cảm nhận, tức là những ngày mà chúng ta ăn những cái món ăn ngon, dở, coi chừng nó trói chúng ta chặt lắm đó! Nó là sợi dây xiềng xích, lòi tói rất là chặt đó!
Do xúc cảm nhận, do xúc thân cảm nhận,đó thì những cái điều kiện đó nó là những cái sợi dây trói chặt.
Năm pháp này khiến cho con người chấp trước, mê đắm, bị trói buộc, không thấy nguy hiểm của chúng, không nhận thức sự không thoát ly chúng.Nếu mà chúng ta không nhận nó được thì nó sẽ trói buộc chúng ta rất chặt chứ không phải là đơn giản đâu! Thường thường là chúng ta xem thường nó lắm, nhưng mà rồi chúng ta sẽ bị nó trói chặt! Cho nên ở đây, Phật chỉ nêu lên năm cái pháp để mà nó lôi cuốn, nó trói chặt chúng ta, nhưng chúng ta còn quên có một cái pháp nữa, tức là cái pháp thứ sáu đó, do cái ý, ở đây nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Thân thì có xúc, mà ý thì nó có cái khởi ra các pháp. Cho nên cái pháp đó nó làm cho chúng ta trở thành những cái kiến chấp, nó cũng ghê gớm vô cùng, nó trói chặt chúng ta. Biết cái pháp của mình là sai chứ chưa dám bỏ đâu!
Khi mà mình nghĩ rằng con đường thiền của tôi tu đây là đúng của Phật rồi, mà sự thật thì nó trật lất à, nó không đúng, mà họ nói đó là đúng rồi, họ bỏ không có được, cũng như họ tu tập thiền xuất hồn, họ nói đây là xuất hồn, tôi đã xuất hồn được rồi, cho nên từ đó họ không bỏ được. Đó là cái pháp, cái pháp làm cho họ dính mắc, nó cũng cám dỗ dữ lắm! Khi mà đọc được một cái bài nào đó họ thích thú, cũng chẳng hạn như là có người đọc sách của ông Krisnamurti, trời ơi nó hay quá, quá chừng hay, do đó mở miệng ra cứ là Krisnamurti không hà, mà cuối cùng thì ông ta chỉ có miệng không hà, chứ không có giải thoát như Krisnamurti chút nào hết. Cho nên cuối cùng thì cái đó gọi là cái kiến chấp của pháp, mà cái đó nó lôi cuốn cũng mạnh lắm! Hở ra chút nào thì ông ta vươn cổ lên mà khạc ra ba cái thứ đó. Nó không phải là con đường mà giải thoát mà là con đường tà kiến, một con đường sai mà lý luận nó nghe nó siêu việt dữ lắm, cho nên từ đó chúng ta bị cái lầm chấp đó, chúng ta thấy nó hay cho nên chúng ta bị dính nó rồi!
Nó cũng làm cho chúng ta thích thú, cũng say mê, cho nên nó trói buộc chúng ta rất chặt. Cho nên ở đây thì Phật nói năm chứ sự thật nó là sáu: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà! Chứ đâu phải là cái thứ thường đâu!
NĂM TRIỀN CÁI
Bây giờ tiếp tục, chúng ta sẽ học cái phần này, bởi vì chúng ta nghe triền cáirồi nghe nào là kiết sửmà chúng ta không hiểu nó thì chúng ta biết ở đâu mà chúng ta dẹp những cái triền cái này? Bắt đầu chúng ta phải học cái này.
Có năm triền cái được gọi là chướng ngại, được gọi là màn che, triền phược trong giới luật của bậc Thánh.Nghĩa là năm cái này nó làm cho chúng ta, nó làm che mất cái giới luật nghi của các bậc Thánh, nó làm cho chúng ta không giữ trọn được các giới của bậc Thánh là năm cái triền cái này. Cho nên một cái người mà học về giới luật mà không thông được năm cái triền cái này thì chúng ta bị nó che, bởi vì “cái” là cái màn che, nó che ngăn, nó làm cho chúng ta không có thấy được, cho nên chúng ta phạm giới chứ không phải gì hết. Còn chúng ta thấy được thì chúng ta không phạm giới. Cho nên trong cái luật của bậc Thánh hiền mà khi mà chúng ta rõ được năm cái triền cái này thì chúng ta không còn bị nó che mất cái luật của chúng ta đi. Còn nếu mà không rõ thì nó bị che mất đi, nó làm cho chúng ta phạm giới.
- Một là Dục cái, tức là Tham cái đó;
- Hai là Sân cái;
- Ba là Hôn trầm - thùy miên cái;
Bốn là Trạo hối cái;
- Năm là Nghi cái.
Đó là năm cái được gọi là Ngũ triền cái đó! Năm cái triền cái, năm cái sự ngăn che làm cho chúng ta mờ mịt, làm cho chúng ta phạm giới của bậc Thánh hiền, đó thì đó là năm cái này.
Dục cái hay là Tham cái, tức là cái lòng ham muốn của chúng ta nó ngăn che, nó làm cho chúng ta phạm giới. Bởi vì mình ham muốn, ví như mình thấy một cục đường hay hoặc một miếng kẹo, cái bánh mình thèm ăn rồi thì bắt đầu mình lấy mình bỏ vô miệng mình nhai và nuốt đi thì tức là cái lòng tham muốn của mình đó đó mà nó che đi, làm cho mình phạm giới ăn uống phi thời, phải không? Quý thầy thấy rất rõ, cho nên chỉ một chút xíu thôi là mình bị phạm giới, chỉ một chút hà, nó ham muốn cái đó thì nó bị che giới luật đi đó là mình bị phi thời.
Sân cái tức là cái tâm sân hận của chúng ta, giận dữ lên thì nó làm chúng ta phạm vào những cái giới luật, lời ăn, tiếng nói của chúng ta thô lỗ. Tức là nó phạm vào cái giới luật đó rồi. Nó chửi mắng người ta, nó nạt nộ người ta, nó làm dữ tợn, thì đó là phạm phải cái giới luật của về khẩu nghiệp của chúng ta. Cho nên chúng ta có phạm vào cái giới.
Ba là Hôn trầm - thùy miên cái. Hôn trầm là ngủ gục, Thùy miên là ngủ. Những cái người mà ngủ này họ thường thường là họ bị phi thời. Cho nên trong cái vấn đề Hôn trầm - thùy miên này nó mới sanh ra cái nghi, à cái si mà cái si tức Si cái ấy tức là cái ngu si, cái vô minh thì gọi là hôn trầm ,thùy miên cái tức gọi là si cho nên gọi là tham, sân, si á, nó là ba cái độc. Hôn trầm, thùy miên là cái trạng thái của cái người ngu si, mà ngu si thì nó làm cho người ta vô minh, người ta không có thấy cái đúng, cái sai, cái nào là hại, cái nào không hại, cái nào là đúng chân lý, mà cái nào là không đúng chân lý. Vì cái si mà làm sao đúng được? Cho nên do đó nó bị lầm chấp!
Cũng như bây giờ mình chấp một cái pháp nào đó, mình cứ cho nó đúng, tức là do cái si mê của mình, bị cái kiến chấp. Cũng như mình lầm chấp cái thân của mình, có cái ngã ở trong này, có cái thật ở trong này. Đó là cái lầm chấp, mà cái lầm chấp đó gọi là si, si mê. Mà cái si mê đó nó hiện ra cái tướng hôn trầm, thùy miên. Tức là cái người mà ngu si là cái người ham ngủ. Cái người mà ham ngủ, ngủ gà ngủ gật là mấy cái người ngu si đó! Họ không có thông minh. Mặc dù là họ thông minh cái gì kệ họ nhưng mà đối với Phật pháp, đối với sự giải thoát, tu hành họ là người ham ngủ thì họ là cái người ngu si, họ không sáng suốt được, họ không thấy được cái chân lý đúng là cái chỗ giải thoát. Cái người mà ngu si mà hôn trầm, thùy miên đó thì cái người đó họ luôn luôn là những hạng người chạy theo dục chứ không bao giờ họ thoát ra khỏi dục.
Bốn là Trạo hối cái. Trạo hối cái là những cái loạn tưởng, những cái vọng tưởng nó liên tục, nó từ cái này đến cái khác. Nó làm cho họ nhớ, tiếc, thương cái này, nhớ, tiếc, thương cái kia. Ngồi đây mà nhớ chuyện quá khứ không thì cái chuyện đó là Trạo hối của họ. Gọi là Trạo hối cái, nó che làm cho họ không có thấy được cái tâm của họ đang dày vò, đang đau khổ, đang nhớ cái này, đang tiếc cái kia gọi là Trạo hối!
Cũng như mình đến mình học với ông thầy nào đó dạy mình nghi ông thầy ổng chưa có tu chứng như thế này như thế khác, thôi mình học ít bữa mình bỏ đi. Như mình thấy cái vị đó mình tu hành, mình đâu có hiểu được họ như thế nào. Trong một ngày, hai ngày đâu làm sao thông họ được? Ông thầy này ổng ở bẩn quá, không thể được! Rồi mình ở với ông thầy này, ổng lại khổ hạnh quá, mình ở cũng không được! Ông thầy này ổng ăn uống ngày có một bữa như vậy, mình sống sao nổi mà tu? Ông thầy này ổng làm cái kiểu cách của ổng chứ chưa chắc đã là chứng! Do đó mình nghi ổng đi! Mình nghi ổng tức là mình phải bỏ ổng thôi, mình không làm sao mà tu. Cho nên, những cái nghi đó nó che mờ mà mình không thấy được cái (sự thật). Hoặc là ông thầy ổng thể hiện qua sự thử thách người đệ tử, cái người đệ tử tưởng là ông thầy này còn phàm phu quá, thấy kiểu cách của ông ấy không phải là bậc Thánh. Nhưng mà không ngờ là người ta thử thách mình, nhưng mà cuối cùng thì mình bị người ta gạt mình, rồi mình đâm ra mình nghi. Từ đó mình sẽ mất cái chỗ đứng của mình để mình tu tập.
“Bởi năm triền cái này mà người tu sĩ bị che khuất, bị trói buộc, bị triền phược, bị chướng ngại khiến cho người tu sĩ phạm giới”.Đó, thì năm cái triền cái đó nó sẽ làm cho cái người mà tu sĩ phạm giới, đều là do năm cái triền cái đó.
NĂM HẠ PHẦN KIẾT SỬ
Vậy thì chúng ta đã biết được năm cái triền cái rồi thì bây giờ chúng ta học thêm năm cái Hạ phần kiết sử. Bởi vì về Kiết sử thì nó có Năm hạ phần kiết sử và Năm thượng phần kiết sử. Nếu mà chúng ta không học thì chúng ta làm sao biết được? Do đó chúng ta thấy Triền cái nó cũng giống, mà lại là Kiết sử nó cũng giống, nó cũng giống như nhau, nó không khác nhau. Chỗ nào là Kiết sử, mà chỗ nào là Triền cái? Chúng ta phải phân biệt được cái chỗ này!
Năm hạ phần kiết sử : Một là Tham, hai là Sân, ba là Si, bốn là Mạn, năm là Nghi.
Tham tức là hồi nãy là Dục cái đó, chúng ta thấy nó che ngăn,nó làm cho chúng ta không thấy, gọi là Cái. Mà nó làm cho chúng ta bị trói buộc, bị dính mắc đó, thì đó là Kiết sử. Kiết sử có nghĩa là nó trói chúng ta, rồi nó sai chúng ta, nó làm cho chúng ta chạy theo nó, gọi là Kiết sử. Cho nên, khi mà chúng ta bị một cái tâm tham mà nó kiết sử á thì chúng ta bị nó trói chúng ta, rồi nó sai chúng ta, gọi là Kiết sử. Mà khi một cái tâm tham mà của chúng ta nó bị mờ ám, nó làm cho chúng ta phạm giới thì cái đó là Dục cái. Chúng ta không rõ cho nên do cái tâm ham muốn đó mà nó xảy ra, nó làm cho chúng ta phạm giới. Đó là Dục cái!
Chẳng hạn như bây giờ mình bị che mờ, mình thấy một cái cô phụ nữ đi ngang qua, trong tâm mình khởi lên có cái tâm dục thì do đó mình bị cái tâm dục mình nó che đi, tức là cái tâm tham dục nó che đi, do đó cái ý mình khởi lên thấy cô ta đẹp. Chứ mình chưa khởi gì hết, thấy cô ta đẹp thì ngay đó là mình bị che mờ đi do cái ý đó mà mình đã bị phạm giới. Còn bây giờ thì Kiết sử nó lôi chúng ta chạy theo cười cợt, nói chuyện với cô ta rồi đó, thì cái chuyện đó là Kiết sử! Bây giờ nó lại gần hơn đó, hồi đó nó che chúng ta, rồi chúng ta không thấy, chúng ta mới khởi ý thích thôi thì bắt đầu cô này ngó mình một cái, liếc qua, rồi mình cũng ngó theo, mình liếc theo bắt đầu bây giờ đi theo gót cô ta tìm cách gợi chuyện nói. Thì như vậy đó là mình đã bị Kiết sử, nó trói mình đó.
Sân nó cũng vậy, mà Si, ở đây chỗ Si mà gọi là Năm hạ phần kiết sử thì Phật còn gọi một cái tên là Giới cấm thủ. Giới cấm thủ nghĩa là cái Si nó làm cho mình dính mắc, giữ gìn cái đó trở lại, nó làm cho ḿnh không có thấy nên ḿnh không có buông ra được, mình không có ly ra được. Đó, chạy theo hoài mà không có biết mệt mỏi. Đó gọi là Si, cho nên Phật còn gọi là Giới cấm thủ.
Mạn tức là ở đây Phật còn gọi chữ Mạn đó là Thân kiến, nghĩa là mình chấp cái thân của mình. Cái phần mà Năm hạ phần kiết sử này là thay vì Mạn là ngã mạn, là kiêu mạn, thì ở đây cái Mạn của Năm cái hạ phần kiết sử này thì Phật cho là Thân kiến, tức là mình chấp cái thân của mình là có thật, ở trong cái thân này nó có cái thật ở trong này. Ở trong cái thân Tứ đại này nó có cái thật ở trong này, cho nên đó gọi là Thân kiến, kiến chấp, tức là chấp cái thân có thật.
Cho nên chữ Mạn đây là chỉ cái Thân kiến chứ không phải Mạn là ngã mạn, cao ngạo, mà đây là Thân kiến. Cho nên Năm hạ phần kiết sử đây mình chấp cái thân mình là có, vì vậy mà những cái vật chất xung quanh là cái năng sở của nó, nó trói buộc mình, làm cho mình bị cái Mạn này.
Nghi thì chắc chắn là lúc nãy Thầy có giảng ở Nghi cái rồi, bởi vì cái nghi này khi nó nghi rồi bắt đầu nó cứ theo dõi này kia nọ, nó đủ cách nó lôi cuốn mình đó, gọi là Nghi. Mà cái Kiết sử thì nó lôi mình đi theo cái sự Nghi đó mà nó không bao giờ mà rời, gọi là Kiết sử. Cho nên đây gọi là Năm hạ phần kiết sử!
NĂM THƯỢNG PHẦN KIẾT SỬ
Năm thượng phần kiết sử thì như thế nào?Một là Sắc tham, hai là Vô sắc tham, ba là Mạn, bốn là Trạo cử, năm là Vô minh. Vô minh ở đây chúng ta phải hiểu nó là Si đó, là Hôn trầm, thùy miên như hồi nãy đó, là ở trên cái Cái kia, còn chữ Si ở Năm hạ phần kiết sử này là Giới cấm thủ tức là bị dính mắc, nó không rời ra được, nó giữ chặt, bị nó trói buộc ở trong cái vật chất, cái giới đó rồi. Nó làm cho chúng ta chặt ở trong đó. Cho nên cái Si này nó bị mờ mịt, nó không thấy, nó vô minh không thấy mà cứ cho đó là cái chấp của mình, như mình bây giờ Thân kiến, mình chấp cái thân này thật mà mình bị Giới cấm thủ của cái Si cho nên mình coi nó là thật, ai nói gì mình cũng chẳng nghe hết. Tức là mình bị Si, tức là Giới cấm thủ đó!
Còn ở đây, còn ở Năm thượng phần kiết sử này, Sắc tham nghĩa là có một cái hình ảnh, có một cái sắc tướng nào đó làm cho mình chạy theo cái sắc đó, trói buộc mình chạy theo sắc đó tức là Sắc tham. Vô sắc tham tức là mình ngồi, mình tưởng tượng ra cái hình sắc này, hình sắc kia thấy thích thú ở trong đó, đó là kiết sử nó Vô sắc tham. Ba là Mạn, Mạn tức là ở trong chỗ này là cao mạn, kiêu mạn chứ không phải Mạn là Thân kiến nữa đâu! Nghĩa là nó coi mình là trên hết đó! Thì cái Mạn cũng có nghĩa là Thân kiến, mà cũng có nghĩa là cao ngạo, mà cũng có nghĩa là chấp ngã. Trạo cử, Trạo cử như hồi nãy mà ở chỗ Trạo hối đó. Trạo cử là nó lăng xăng, nó nghĩ chuyện này đến chuyện kia, lung tung đó.
Đó là Năm thượng phần kiết sử! Thì cái triền miên của cái tư tưởng nối tiếp nhau nó gây cho chúng ta có cái sự liên tục, trói buộc nhau ở trong cái triền miên suy nghĩ đó thì cái đó gọi là Trạo cử của Kiết sử, Năm thượng phần kiết sử. Vô minh tức là Si thì Si vô minh thì nó cũng giống như những cái Si kia, nhưng mà cái Si này nó thể hiện qua cái chỗ vô minh, mờ không thấy rõ năm cái Thượng phần kiết sử này, là không có thấy rõ cái chân lý giải thoát của đạo Phật. Còn cái Si hồi nãy á, nó là cái Hôn trầm, thùy miên, đó là cái sự ngu si của một cái mất tỉnh thức, nó không sáng suốt.
Còn cái chỗ Vô minh này nó có minh, cái chỗ vô minh của thượng phần kiết sử này là người đó có thể là một nhà bác học, có thể là một nhà tiến sĩ học rất thông minh, thông minh mọi mặt của thế gian nhưng mà họ không có thông minh cái con đường giải thoát của họ, không có trí tuệ hiểu biết chân thật như Bốn cái chân lý của Phật là Khổ, Tập, Diệt, Đạo, cho nên họ không giải thoát được họ, vì vậy cái Vô minh này gọi là Si, họ không thấy được cái chân lý giải thoát và họ thấy toàn là chạy theo cái danh lợi, chạy theo cái danh của thế gian, cái lợi của thế gian, cái sắc của thế gian, cái ăn, cái uống, ngủ của thế gian. Họ làm cái gì họ cũng lo phục vụ cho những cái đó thì họ gọi là Vô minh chứ họ thông minh lắm chứ đâu phải, họ làm ông giám đốc, bà giám đốc không chứ đâu phải làm nhỏ đâu? Họ làm ông lớn không chứ không phải làm nhỏ, nhưng mà họ vẫn vô minh là vì họ không giải thoát.
Cho nên chữ Si của Năm thượng phần kiết sử thì chúng ta phải hiểu chữ Si này nó nằm ở chỗ nó là chạy theo những cái thông minh của dục lạc chứ không phải là Si theo cái kiểu mà buồn ngủ như mấy cái thằng làm biếng đó đâu, như là Triền cái đó đâu! Đó thì phải hiểu như vậy thì chúng ta mới hiểu được những cái danh từ ở trong kinh điển của đạo Phật đã chỉ cho cái tên của nó như thế nào!
BẢY KIẾT SỬ
Và về phần Kiết sử mà gọi chungthì đức Phật có cho nó là bảy cái kiết sử. Nghĩa là hồi đó thì năm cái Hạ phần kiết sử rồi năm cái Thượng phần kiết sử, tức là mười cái Kiết sử, nhưng mà đức Phật tóm lạithì cho chúng ta biết rằng có bảy cái Kiết sử. Đó là, một là Ái kiết sử, hai là Sân kiết sử, ba là Kiến kiết sử, bốn là Nghi kiết sử, năm là Mạn kiết sử, sáu là Hữu tham kiết sử, bảy là Vô minh kiết sử.Đó, thì chúng ta thấy nó rõ ràng là bảy cái Kiết sử này mà gồm chung nó là mười cái Kiết sử kia là Năm hạ phần kiết sử và Năm thượng phần kiết sử. Gồm lại thì nó chỉ có bảy kiết sử, tắt lại thì có bảy kiết sử mà thôi!
Ở đây, thì những kiết sử cũng là Ái kiết sử tức là Dục kiết sử hay là Tham kiết sử thôi chứ không có gì. Sân thì biết rồi, Kiến thì Thân kiến biết rồi, Nghi thì quý vị cũng biết rồi, Mạn thì cũng biết rồi, Hữu tham kiết sử mà Hữu tham kiết sử thì các vị cũng biết rồi, mà Vô minh kiết sử thì cũng biết rồi, Hữu tham tức là có khởi một cái lòng ham muốn. Hữu là có nghĩa là có khởi một cái lòng ham muốn, tức là có kiết sử liền tức khắc.
BẢY TÙY MIÊN
Nói như vậy là chúng ta đã rõ hết là bảy cái Kiết sử. Vậy thì rõ biết bảy Kiết sử thì chúng ta phải rõ thêm bảy Tùy miên.Tùy miên đây không phải Thùy miên là buồn ngủ. Còn Tùy miên, Tùy là theo, Miên là liên tục. Theo liên tục, cho nên cái này gọi là theo liên tục đó! Thì gọi là Bảy tùy miên. Cho nên có nhiều người không hiểu thấy trong kinh sách có chỗ sao để Thùy miên và có chỗ sao lại để Tùy miên? Họ không hiểu! Họ không hiểu cái danh từ chỗ người ta dùng và người ta cũng không hiểu bởi vì chữ Tùy với chữ Thùy nghe nó gần như là cái âm nó gần giống nhau, nhưng mà cái nghĩa nó cách xa lắm! Chữ Thùy là nó ngủ, mà chữ Tùy là nó theo! Đó phải hiểu như vậy để rồi chúng ta mới thấy được bảy cái chỗ Tùy miên này, nó có bảy Tùy miên chứ không phải có thùy miên, hôn trầm, thùy miên không. Cái kia là ngủ nghỉ, ngủ gục thôi. Nó khác!
Cho nên bảy Tùy miên này nó như thế nào?
Một là Dục ái tùy miên,nghĩa là cái lòng tham ái, tham dục của mình nó miên man, nó thích thú ở trong đó, nó kéo dài thích lắm, nó kéo dài cái thời gian liên miên ở trong đó. Cái người mà có cái tâm dục nó miên man ở trong những hình ảnh của các cô gái mà khiêu gợi họ đó, họ không bao giờ quên những hình ảnh đó. Cho nên nó làm cho họ miên man ở trong cái chỗ thích dục đó!
Sân tùy miên cũng vậy.Người ta chửi mình, cái bắt đầu suốt ngày đó nó cứ ở trong lòng nó cứ liên tục phiền não, phiền não hoài gọi là tùy miên Sân đó, đó là mình phải hiểu cái chỗ đó! Ngay sân rồi thì mình dứt đi liền, không, để nó kéo dài từ ngày này đến ngày khác, ba bốn bữa mới cười cười được một chút, chứ cái mặt nó sầu. Đó là nó bị tùy miên Sân đó!
Kiến tùy miên cũng vậy,luôn luôn lúc nào mình cũng chấp những cái ý nghĩ của mình, cái gì của mình đúng luôn luôn mình cứ cho nó đúng, luôn luôn liên tục hoài cái gì cũng cho đúng đó. Coi chừng cái đó nó kéo dài mình mà nó không bao giờ cho mình thoát ra khỏi những cái tà kiến nữa! Nhiều khi những cái tà kiến của mình mà mình cứ cho mình đúng rồi mình cứ miên mật, cứ luôn luôn liên tục ở cái chỗ đó mà mình cho nó là đúng, đúng, đúng, không bao giờ sai hết. Ai nói gì cũng trật, chỉ có mình là đúng thôi! Thì cái đó là cái tùy miên đó, Kiến tùy miên.
Nghi tùy miên cũng vậy.Nghi người nào thì nghi chết thì thôi hà, không có chịu suy nghĩ con người ta có đúng có sai, người ta có ăn trộm hay không mà cứ nghi người ta ăn trộm, cứ để nghi người ta ăn trộm hoài mà người ta có ăn trộm đâu? Đó là Nghi tùy miên!
Mạn tùy miên cũng vậy!Ngã mạn, cống cao, luôn luôn lúc nào hở ra cũng nghênh mặt ở trên trời, đi thì không ngó dưới đất mà ngó lên trời coi thiên hạ không ra cái gì, coi ngýời ta nhý kiến cỏ đó. Ðó là Mạn tùy miên!
Hữu tham tùy miên.Lòng ham muốn của chúng ta, có cái gì cũng ham muốn liên tục ở trong đầu, thấy cái gì cũng ham, thấy cái gì cũng ham, gọi là Hữu tham tùy miên. Thấy vật gì nhỏ, lớn gì cũng tham hết, cũng đem nhét cất hết, đó là Hữu tham tùy miên đó!
Vô minh tùy miênlà luôn luôn lúc nào cũng không thấy hiểu biết gì hết à. Cái gì cũng chấp, cái gì cũng dính, cái gì cũng mắc hết á. Lúc nào nó cũng miên mật ở trong cái đầu của người đó hết, thì đó gọi là Vô minh tùy miên, không có hiểu cái gì hết! Cái gì cũng bị dính mắc hết!
Đó là những cái phần mà chúng ta học về những cái từ để chúng ta biết được những cái trạng thái của tâm của chúng ta nó rơi vào ở trong cái trạng thái nào của Kiết sử, của Cái, của Năm triền cái, của bảy cái Tùy miên. Chúng ta biết được những cái chỗ đó để mà chúng ta biết được cái tâm niệm của mình nó đang ở cái dạng nào mà chúng ta diệt trừ nó chứ không có để. Nói như vậy nó quá nhiều, quý thầy cũng khó nhớ, do đó quý thầy cũng cần phải đọc đi đọc lại nhiều lần để nhớ những cái này.Khi tâm chúng ta khởi ra, chúng ta biết nó nằm ở trong cái Kiết sử nào, cái Dục cái nào như thế nào thì chúng ta mới loại trừ nó ra được, còn nếu không thì chúng ta khó mà loại trừ ra được!
Bây giờ Thầy đọc lại chỗ Tùy miên để cho các con kiểm tra lại bảy có phải không? Một là Dục ái tùy miên, hai là Sân tùy miên, ba là Kiến tùy miên, bốn là Nghi tùy miên, nghi là nghi ngờ đó, năm là Mạn tùy miên, sáu là Hữu tham tùy miên, bảy là Vô minh tùy miên. Đủ rồi phải không?

GIỚI TUỆ
Để tiếp tục cái chương trình giáo án này, quý thầy học đến Giới tuệ. Sau thời gian đã qua, đã được học Giới hạnh, Giới đức và bây giờ là học Giới tuệ. Giới tuệ phải được đặt trên nền tảng của Giới đức, nếu không đặt trên nền tảng Giới đức thì khó mà xây dựng ngôi nhà Giới tuệ được. Nghĩa là không tu tập xong Giới đức thì không thể nào tu tập Giới tuệ được. Cũng như các thầy không tu tập Giới hạnh được mà vội tu (BBT:CĐ,21A,E00:44:17)Giới đức thì khó mà tu tập được. Ví như trường học ngoài đời có ba cấp, một là Tiểu học,(BBT:CĐ,21B,B00:00:00) hai là Trung học, ba là Đại học. Nếu học chưa xong Tiểu học thì làm sao lên Trung học học được? Nếu học chưa xong Trung học mà lên Đại học thì làm sao học được? Vì vậy quý thầy muốn tu theo đạo Phật thì quý thầy phải tu tập lớp Sơ thiện tức là Giới hạnh. Khi đã tu tập lớp này xong mới tiến lên lớp Trung thiện - Giới đức. Sau khi đã tu tập xong lớp Trung thiện xong thì quý thầy mới tiến lên lớp tu tậpHậu thiện là Giới tuệ.
Đó thì quý thầy thấy nó phải có từng bước từng bước, cũng như bây giờ thí dụ như cái lớp mà Sơ thiện là cái lớp Giới hạnh, mà cái lớp Giới hạnh thì quý thầy biết rằng đó là cái lộ trình của người tu sĩ. Bây giờ quý thầy còn ở trong chiếc áo của cư sĩ, còn gia duyên còn làm những công việc, còn bao nhiêu nghề nghiệp để sinh sống thì thử hỏi quý thầy không có thực hiện cái lớp đó mà bây giờ cho quý thầy ngồi cái lớp Giới đức để tu thiền định thì có được không?
Như vậy là quý thầy không có học cái lớp Tiểu học mà nhảy lên Trung học học thì ngồi đó chỉ ngó thôi chứ làm cái gì? Người ta cho bài ra thì chỉ còn có nước cắn ngòi bút chứ làm sao mà làm? Đó thì quý thầy thấy điều đó là một cái điều mà quý thầy đã lạc ở trên con đường tu tập. Cho nên cái ba y, một bát mình chưa xong mà mình vội mình ngồi tu thiền thì chẳng qua là mình đi vào cái thiền ma, thiền quỷ thôi chứ làm sao mà thiền gì đúng được?Bởi vì đức hạnh của con người là cái Giới hạnh, là phải dẹp tất cả cái đời sống của thế gian mới đi vào cái con đường này được!
Bởi vậy đến Giới tuệ, quý thầy mới thấy cái lực của Giới tuệ nó tuyệt vời không thể nào tưởng tượng được là vì người ta phải dẹp hẳn cái cuộc sống của thế gian, hoàn toàn là người ta thực hiện cái đời sống của bậc tu sĩ rồi. Do đó mới đến cái Giới tuệ này chúng ta mới thấy nó là cả một cái sự siêu việt của con người chứ đâu phải là tầm thường?
Cho nên muốn đi được vào cái chỗ này mà quý thầy còn sống ở trong thế gian thì thử hỏi làm sao mà quý thầy được? Cho nên cái lớp Sơ thiện mà không được thì làm sao mà học cái lớp Đại học – cái lớp Giới tuệ được, cái lớp mà Hậu thiện được? Đâu có phải chuyện dễ đâu?
Lẽ ra người dạy đạo tu hành không thể dạy mênh mang như thế này được.Nghĩa là đối với Thầy là một người mà dạy đạo thì không bao giờ mà dạy mênh mang. Nhưng vì cái giáo án tu tập của đức Phật đã có sẵn mấy ngàn năm, nghĩa là cái giáo án của Phật đã để lại trong kinh sách của chúng ta mấy ngàn năm chứ không phải là ít, hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm chứ đâu phải ít? Thế mà đến bây giờ chưa có ai sắp xếp lại được những cái thứ lớp này. Cho nên ở đây vì vậy mà Thầy phải dạy mênh mang như vầy chứ còn lẽ ra mà dạy đạo là tùy theo căn cơ của mỗi người. Bây giờ đến đây là phải sống đúng cái hạnh của người tu. Nghĩa là phải bỏ hết của cải, tài sản, dẹp hết những nghề nghiệp, đến đây chỉ ôm bát đi xin mà thôi, thì cái đó là cái Giới hạnh thứ nhất!
Cho nên chấp nhận được thì vô tu, còn không chấp nhận được thì thôi chứ còn tu lơ mơ mà như thế này thì tốn của đàn na thí chủ chứ có ích gì đâu? Nó có đi đến chỗ nào được đâu? Cho nên khi mà chấp nhận cái đời sống mà xuất gia tu hành rồi thì phải ba y một bát rồi. Đó là cái Giới hạnh!
Về cái Giới đức thì bắt đầu bây giờ mình đã ly được rồi thì ngay đó cái Giới đức mình có thể tiếp tục mình tu được rồi, đâu có gì khó đâu? Đó thì quý thầy thấy cái điều kiện tu tập nó phải rõ ràng. Còn bây giờ mà thầy dạy mênh mang như thế này thì thử hỏi cái lớp mình có ai dứt được chưa? Chưa à! Phần nhiều là chúng ta còn đang ở trong lưng chừng chứ chưa phải là rõ nét đâu, khó lắm chứ không phải dễ!
Đó, nhưng vì giáo án tu tập của đức Phật đã có sẵn mấy ngàn năm nhưng chưa ai sắp xếp có lớp lang, có kỹ thuật, thấy sao thấp cao cho rõ ràng để người tu tập được dễ dàng, vì thế Thầy phải sắp xếp có lớp lang, có kỹ thuật nên mới dạy mênh mang như thế này. Vả lại nếu Thầy không làm điều này thì nhìn trước, nhìn sau còn có ai làm được và làm sống lại giáo lý của đức Phật? Nghĩa là bây giờ nhìn trước, nhìn sau thì Thầy thấy chưa có một vị thầy nào, chưa có một người nào mà có thể gánh vác cái trọng trách này được! Cho nên buộc lòng Thầy phải dạy cái cách thức mênh mang như thế này nè. Chuyện mà các thầy chưa tu tới mà phải nói á, gọi là dạy mênh mang đó! Thay vì tu tới đâu Thầy dạy tới đó chứ không phải là dạy như cái kiểu này được! Cho nên ngày xưa đức Phật dạy đệ tử của Ngài cũng vậy. Khi tu tới đâu thì Ngài dạy tới đó, mà người nào chưa tu tới thì Ngài chưa có dạy tới những cái mà chưa có thể mà dạy cho họ được. Còn bây giờ vì có những cái điều kiện cần phải làm cho nên Thầy phải làm mà thôi! Chứ dạy như thế này nhiều khi gieo vào trong tâm tư của quý vị những cái tưởng giải trong đó không hà, những cái tưởng tượng của các vị trong đó không hà, chứ không phải là cái tốt lành gì đâu!
Cho nên Thầy không có mong muốn làm cái điều này. Cho nên từ cái ngày mà Thầy tu hành xong ấy, Thầy ra thất, Thầy không bao giờ Thầy muốn viết một bài kinh nữa. Thầy đã hiểu biết cái lầm lạc đó vì viết bài kinh là giết người ta chứ chưa phải là độ người ta đâu! Vì khi mà người ta hiểu nó hay là người ta bị dính nó rồi. Rồi khi mà người ta chưa tu tới đó, người ta tập chưa có căn bản, đầu chưa có mà người ta tập, người ta thấy cái hay đó, người ta bắt đầu người ta tập cái đó thì cái tưởng của người ta sẽ sinh ra. Mà nó sinh ra thì nó là ma chướng của họ chứ đâu phải là chuyện dễ? Cho nên viết kinh sách là một cái tai hại! Cho nên thời đức Phật Ngài không có viết kinh sách và người nào tu tập tới đâu là dạy tới đó rồi sai thì Ngài nhắc nhở chứ cũng không cho ai lấy lá buông hay hoặc là lấy lá thốt nốt mà ngồi viết chữ lên đó hết để mà ghi nhớ lại như bây giờ đâu!
Còn bây giờ chúng ta ghi nhớ như vậy, nó làm cho đầu óc của chúng ta không có sống độc cư, không có sống trầm lặng được! Thường thường là chúng ta hay quên, mà chúng ta tu tập vốn tu tập chứ không phải vốn để nhớ. Tu tập để giải thoát chứ không phải là nhớ một cái bồ chữ đó đâu, một cái tủ đựng kinh sách đó đâu! Cho nên chúng ta vốn để nhớ, nhớ để nó trở thành cái tâm của chúng ta trở thành một cái tủ đựng kinh sách, từ đó mới giải thoát nó không có. (BBT:CĐ,21B,E00:05:55)
(BBT:CĐ,21B,E00:05:56)... toàn là có tri kiến mà thôi. Đó là cái tai hại khi mà Thầy dạy đạo Thầy biết cái này rất là rõ ràng, không có phải là một cái chuyện đơn giản. Vì vậy mà vì vấn đề mà giáo lý của nhà Phật bây giờ phải sắp xếp mà nhìn trước nhìn sau thì ai mà làm cái này, cho nên Thầy phải buộc lòng mà làm, làm với cái sự bất đắc dĩ của mình chớ không phải làm với cái sự cầu danh cầu lợi ở trong này. Thầy chỉ mong có người tu hành chứng đạo chứ không phải mong cho người ta có kiến thức hiểu biết như thế này đâu. Cho nên cái viết ra là một cái tai hại rất lớn, cái nói ra mà khi người ta chưa tới là một cái điều rất tai hại cho tư tưởng, làm hư hoại tâm hồn của họ, làm hư hoại tư tưởng của họ.Họ hiểu rồi, nó dính mắc ở trong đó, nó khó mà giãy dụa, cho nên họ đâu còn thanh thản được. Họ bị lời nói của Thầy, họ bị những dòng chữ của Thầy làm cho họ bị chi phối tâm hồn của họ. Cho nên họ đâu còn là một tờ giấy trong sạch nữa, họ bị Thầy gạch mực ở trong đó quá nhiều ở trong đó rồi. Cho nên những điều này là điều bất đắc dĩ mà Thầy phải làm thôi.
Bây giờ quý thầy bắt đầu tu, học tập Giới tuệ.
Khi tu tập Giới đức xong thì toàn thân của quý thầy chỗ nào cũng được thấm nhuần, thuần tịnh, trong sạch. Nghĩa là khi mà tu tập Giới Đức rồi thì thân tâm của quý vị nó thuần tịnh, nó thấm nhuần, rất là trong sáng và thanh tịnh, rất là sáng suốt. Nghĩa là lúc bấy giờ khi mà Giới Đức mà  thực hiện xong rồi thì nó thuần tịnh lắm! Tâm hồn của quý vị nó không còn ô nhiễm một chút gì ở thế gian, nó không còn có khởi một sự ham muốn dục lạc của thế gian, mặc dù là có bao nhiêu sức cám dỗ của nó cũng không lôi cuốn được quý vị nữa. Cho nên nó gọi là thuần tịnh, thấm nhuần, thuần tịnh, trong sáng. Đó, thì bắt đầu bây giờ quý vị mới học Giới Tuệ thứ nhất của cái tâm này đây!
“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản”.
Như vậy nghĩa là lúc bây giờ cái tâm của quý vị nó đang ở trong cái trạng thái như vậy đó. Những cái danh từ mà Thầy chỉ đọc ra đây để cho quý thầy nghe được cái tâm của mình như vậy đó. Thầy đọc lại một lần nữa để quý thầy xét cái tâm của mình khi đã tu Giới Đức xong thì luôn luôn cái tâm của quý vị bao giờ nó cũng ở trong cái trạng thái này:
Với tâm định tĩnh- rất định tĩnh, không có gì làm cho nó chao động được hết, thuần tịnh- thuần là thanh tịnh, nó không còn bị cái gì mà dơ bẩn ở trong đó, cho nên nó không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến- nhu là mềm, nhuyến là nó mềm dẻo, dễ sử dụng- cái tâm của quý vị bây giờ dễ sử dụng, sai sao nó làm vậy hết, nó không bao giờ có chỗ cứng đầu cứng cổ như bây giờ đâu, vững chắc- luôn luôn nó rất vững chắc, cái sự nhu nhuyến đó nó mềm dẻo vậy chứ nó rất là vững chắc, nó không có bị chao động, nó bình thản, nó thản nhiên, nó thanh thản, nó không cái gì làm mất cái sự bình thản, thản nhiên của nó được. Đó là lúc bây giờ các vị đã học tu tập được cái Giới Đức rồi thì cái tâm của quý vị nó đến ở mức độ này. Mà nó đến ở mức độ này thì quý vị mới tập luyện được cái Giới Tuệ, chứ còn nếu không thì quý vị không bao giờ mà thực hiện được cái Giới Tuệ này đâu.
“Lúc bây giờ vị Tỳ kheo dẫn tâm hướng đến Chánh trí, Chánh kiến”.Bây giờ chúng ta mới dẫn tâm, tâm nó được thanh tịnh như vậy rồi thì quý vị mới dẫn cái tâm của quý vị đến Chánh trí - tức là trí chân chính của quý vị, rồi cái Chánh kiến - cái hiểu biết chân chính của quý vị thì vị ấy biết rõ, biết rất rõ. Nghĩa là người đó mà dẫn cái chánh trí với chánh kiến của mình thì biết rất rõ:
“Thân này của ta là do sắc pháp, do bốn đại mà thành, do cha mẹ sanh mà có, do nhờ cơm cháo nuôi dưỡng mà lớn, nhưng nó lại vô thường, biến hoại, phiền toái, đoạn diệt, hoại diệt. Trong thân này chỉ có thức uẩn là bị trói buộc, là bị quên mất”.
Nghĩa là khi người đó mà có sức định tĩnh của tâm như vậy rồi thì hướng tâm đến Chánh trí thì bây giờ mới nhìn thấy cái thân này nó rõ ràng như vậy và biết được cáithức nó đang bị trói buộc trong cái thân này, nó đang bị trói buộc ở trong đó và nó bị lãng quyên mất đi và bây giờ nó đang hiện ra được. Đó, thì bây giờ mới thấy được cái chỗ mà Thức thức nó đã từ lâu chúng ta nói thân ngũ uẩn của chúng ta mà, Sắc – Thọ - Tưởng – Hành – Thức đó, thì cái Thức này từ lâu nó nằm ngủ yên đó, nó bị trói buộc, cột chặt, không làm việc gì được hết. Tất cả  mọi “thằng khác” thì làm việc, còn riêng nó thì nó nằm im lìm đó, nó như là ngủ quên vậy, như người ta không có nhớ nó được vậy. Thì đó là khi mà chúng ta dùng cái sức định tĩnh của tâm chúng ta mới nhìn thấy được cái Thức của chúng ta nó đang bị ngủ quên, bị trói buộc từ lâu tới giờ vậy đó.
Bây giờ là lúc cần thiết dùng đến nó, nó sẽ làm các phận sự mà ta sai bảo trong khi tu tập Giới Tuệ. Đó, bây giờ nhìn nó mình thấy nó từ lâu bị trói buộc, nó bị bỏ quên lãng đi, vì vậy bây giờ mình mới cần thiết mình mới dùng nó để cho mình sai nó làm những phận sự sau này, cho nên mình sai nó cái gì thì nó cũng nghe theo hết.
Như vậy là khi mà chúng ta dùng được cái Chánh kiến, Chánh trí chúng ta mới quan sát lại nó, khi mà tâm chúng ta đã ở trong cái thanh tịnh, cái thuần tịnh này thì chúng ta mới có sai được cái Thức thức của chúng ta, mới dậy nó làm việc ở trong cái Giới Tuệ của nó mới được.
“Ví như một hòn ngọc lưu ly bảo châu đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Một sợi dây được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hoặc màu nâu chúng ta đều nhìn thấy rõ sợi dây ấy màu gì, rõ ràng, không sai một chút nào”.
Nghĩa là đức Phật ví như cái lúc mà cái tâm của chúng ta thuần tịnh như vậy mà chúng ta hướng đến chánh trí, chánh kiến mà thấy cái Thức của chúng ta bị trói buộc, bị ngủ quên, giống như chúng ta xỏ một sợi dây qua một hàng ngọc bảo châu trong suốt, cho nên sợi dây màu vàng là chúng ta thấy vàng, màu xanh là chúng ta thấy xanh, màu đỏ chúng ta thấy đỏ, nó không có thấy màu khác và không có mờ mịt chút nào hết. Đó là đức Phật đem cái ví dụ như vậy để chúng ta thấy rằng cái tâm mà chúng ta thuần tịnh rồi thì chúng ta mới dùng cái tri kiến và cái chánh kiến, cái chánh trí của chúng ta, chúng ta thấy được cái Thức của chúng ta, thấy được cái thân này vô thường, biến hoại, nó luôn luôn là bị hoại diệt, thay đổi, nó làm cho chúng ta phiền toái, đau khổ và đồng thời cái mà chúng ta đang cần dùng nó thì nó bị bỏ quên đi.Đó là cái Thức thức của chúng ta bị bỏ quên đi, chúng ta không thấy, nó bị trói buộc, nó bị bỏ quên, nó không có làm việc gì được hết. Bây giờ là lúc chúng ta cần thiết phải đánh thức nó dậy, phải dựng nó dậy để sai bảo nó làm công việc trong sự tu tập Giới Tuệ của chúng ta. Nghĩa là chúng ta muốn tu tập Giới Tuệ thì chúng ta phải đánh thức Thức của chúng ta dậy thì chúng ta mới tu tập được Giới Tuệ.Còn Thức thức chúng ta không có dậy thì không có tu tập được Giới Tuệ. Đó, quý thầy hiểu chưa?
Mà khi đó chúng ta phải thực hiện Thiền định rồi thì chúng ta đánh thức nó dậy. Mà Thiền định tức là Giới Đức, mà Giới Đức xong thì mới có được cái này. Còn nếu mà Giới Đức chưa xong thì thử hỏi làm sao có được.
Hôm nay quý thầy đã thấy từng cái chỗ mà chúng ta vô cái đoạn đầu chúng ta đã đánh thức được cái Thức thức của chúng ta bằng cái chánh trí, bằng cái chánh kiến của chúng ta.
“Đó là Giới Tuệ thứ nhất trong Giới luật của đức Phật mà cũng là một kết quả tu tập thiết thực hiện tại của vị ấy”.Nghĩa là cái vị ấy mà tu được tới chỗ này là cái Giới Tuệ của vị ấy đã đánh thức được cái Thức thức dậy rồi. Đó là một cái kết quả thiết thực, hiện tại của vị ấy. Cái kết quả rất là vi diệu. Đó là cái Giới Tuệ thứ nhất. Đánh thức được cái Thức đó là lúc bây giờ mới dùng cái chánh trí và cái chánh kiến mà đánh thức nó dậy, làm cho nó bật dậy bằng cái gì?Bằng cái pháp hướng.
Đó là Giới Tuệ thứ nhất chúng ta phải tiếp tục ở trên con đường tu tập để đánh thức cái Thức thức của chúng ta dậy, để sai cho nó tiếp tục ở trên con đường mà thực hiện những cái Giới Tuệ của nó, tu tập những cái Giới Tuệ của nó.
“2. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ kheo chú tâm hướng đến sự hóa hiện một thân do ý làm ra, vị ấy tạo ra một thân khác từ thân này, cũng là Sắc pháp, đầy đủ các chi tiết lớn nhỏ, không thiếu một căn nào, cũng ví như người rút một cây lao ra khỏi vỏ lao, cũng ví như người rút thanh gươm thanh kiếm ra từ bao kiếm, cũng ví như người lột xác một con rắn”.
Đó, khi mà chúng ta đến đây chúng ta thực hiện cái Giới Tuệ của chúng ta mà cái Giới Tuệ thứ hai này là chúng ta sai cái Thức thức của chúng ta phải làm việc. Bây giờ từ ở trong một cái thân này phải biến ra một cái thân khác, hiện ra một cái thân khác mà làm cho được đầy đủ cái thân đó cũng là Sắc tướng cũng vậy, rồi các căn nó cũng vậy, lớn nhỏ mắt tai mũi miệng nó cũng y như cái thân của chúng ta mà nó hiện ra nó ngồi ý như hai người ngồi như là một. Như vậy là chúng ta đã thực hiện được cái Giới Tuệ thứ hai của chúng ta. Đó là cái phần thứ hai để nói lên cái sức làm chủ, sai khiến của cái trí tuệ của chúng ta lúc bấy giờ điều khiển thân và tâm của chúng ta nó phải thể hiện qua cái trí tuệ của chúng ta chứ không còn làm sai khác được cái ý của chúng ta.
“Đó là Giới Tuệ thứ hai trong Giới luật của đức Phật mà vị ấy đã đạt được một kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu và thù thắng”.
Các thầy nghĩ coi bây giờ từ chỗ Thiền định mà nhập Tứ thiền rồi mình ngưng các hành trong thân của mình rồi, mình ngưng hơi thở mình rồi thì bắt đầu cái tâm của mình nó thuần tịnh rồi thì bắt đầu mình dùng tri kiến mình đánh thức cái Thức thức của mình dậy. Mình đánh thức cái Thức thức mình dậy rồi bắt đầu mình sai khiến nó, bắt đầu mình dùng nó. Bây giờ nó sử dụng cái thân này phải biến ra một thân nữa y như nhau, cũng có các căn mắt tai mũi miệng thân ý đàng hoàng, mặc y áo giống nhau, thì nó ra nó ngồi đây một cái thân nữa. Lúc bây giờ quý thầy thấy cái Giới Tuệ nó như thế nào? Có thù diệu không? Có vi diệu không? Mà nó thiết thực, nó cụ thể, nó hiện tại chứ không phải nói cái chuyện mù mờ, vu vơ đâu! Lẽ ra cái này khi nào mà quý thầy tu tới đây Thầy mới giảng, và đồng thời giảng thì phải có một người thực hiện cho được. Còn cái này thật ra thì đây là xếp thành một cái giáo án chứ nó chưa phải là quý thầy tu tới. Chứ trong thời đức Phật nói ra là có chứng minh liền tức khắc chứ không phải nói vu vơ như thế này! Còn bây giờ mà Thầy làm trò xiếc cho mấy thầy coi thì cái điều đó là cái điều quá là ngu si chứ chưa phải là người biết Phật pháp. Cũng như bây giờ thí dụ như nói về Tẩu hỏa nhập ma thì phải có một người bị thì cái đó là chứng minh cho cụ thể, còn như hồi nãy Thầy đã nói lẽ ra thì không được giảng mênh mông như thế này mà chỉ giảng những cái nào người ta tu tập mà thôi. Còn giảng mênh mông như thế này nhiều khi nó làm cho người ta bị lạc hướng mất đi, người ta tưởng tượng quá nhiều.
Nói đến cái Giới Tuệ này thì Thầy thấy nó là siêu việt, người thế gian không thể lường được. Thành ra Thầy nói tới đây dường như người ta nói Thầy nói láo, nhưng mà nó là một sự thật! Nó không phải là nói láo đâu! Bởi vì kinh sách của Phật còn đặt, nhưng mà bây giờ cái người thể hiện ra thì chưa có ai thể hiện cho nên người ta vẫn nói đó là Phật cũng là nói láo chứ không phải là không nói láo. Nhưng mà Thầy đã biết cái điều nói láo hay không nói láo,Thầy biết chứ làm sao ai biết được.
Cho nên hôm nay vì cái giáo án mà buộc lòng Thầy phải giảng hết những cái gì mà Phật đã dạy ở trong Kinh, không thể nào mà thiếu một cái gì và bỏ một cái gì được. Vì đây là một cái đường đi của đạo Phật đã để lại cho chúng ta là một cái gia tài rất quý báu mà không giảng hết thì Thầy thấy có một cái lỗi của mình là nhìn tới nhìn lui không ai làm được cho nên phải nói.
Bây giờ về cái phần Giới Tuệ thứ ba.
“3. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ kheo dẫn tâm hướng đến Dục Như Ý Túc, (Bây giờ tới Tứ Như Ý Túc đó, bây giờ là Dục Như Ý Túc đó), vị ấy chứng được Dục Như Ý Túc, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân  hiện ra một thân”.
Trước thì đức Phật chỉ ra Giới Tuệ đầu tiên là một thân hiện ra một thân, các căn mắt tai mũi miệng đều y, quần áo đều mặc y giống nhau không khác. Đó là mới có biến ra một thân mà thôi. Các thầy thấy phải đi tuần tự chứ không thể nào mà nghe nói cái biến ra nhiều thân một lần được đâu! Chúng ta phải tập tuần tự, cho nên khi mà chúng ta hướng ra một thân biến ra một thân được rồi thì bắt đầu bây giờ mới tới giai đoạn chúng ta một thân biến ra nhiều thân. Bây giờ nó mới tới Dục Như Ý Túc đó!Chứ hồi đầu nó chưa phải Dục Như Ý Túc đâu!Chúng ta mới tập luyện cho cái Thức thức của chúng ta sống dậy biết điều khiển mà thôi, chứ chưa phải hoàn toàn là đủ cái Dục Như Ý Túc đâu! Bây giờ bắt đầu chúng ta mới tới nữa thì chúng ta mới thấy được cái Giới Tuệ thứ ba này chúng ta mới thấy một thân nó hiện ra nhiều thân.
“Một thân hiện ta nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân”, nhiều thân nó gộp lại một thân rồi một thân nó hiện ra nhiều thân, “hiện hình, biến hình, đi ngang qua vách đá, qua tường, qua núi như đi ngang qua hư không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước không chìm như đi trên đất liền, ngồi kiết già đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm rờ mặt trăng mặt trời, những vật có đại oai lực, có đại thần lực”.
Như vậy nghĩa là đức Phật ví dụ như mặt trăng mặt trời nó cao xa, nó lớn như vậy đó mà bàn tay của chúng ta vói tới chúng ta rờ mặt nó được. (Kiểu này chắc rờ mặt trời chắc cháy tay). Có đại oai thần như vậy có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên.Lúc bấy giờ cái người đó có thể bay đến cõi phạm thiên được.
“Ví như một người thợ gốm khéo tay với đất sét, khéo nhồi nhuyễn, có thể làm các loại đồ gốm tùy theo sở thích”.Đức Phật ví như người tu tới Giới Tuệ thứ ba này họ cũng như một người thợ đồ gốm khéo tay, với cục đất sét mà nhồi rất nhuyễn rồi thì cái người thợ gốm này muốn làm cái chum, cái chén, cái gì họ làm cũng được hết, thậm chí họ nắn cả tượng Phật hoặc bình sứ, bình bông cái gì họ khéo tay cũng làm được hết. Thì ví dụ như chúng ta tu tới đó bây giờ chúng ta muốn làm cái gì cũng được hết, không phải 72 phép biến như là Dương Tiễn, cũng như là Tôn Ngộ Không đâu! Có 72 à! Còn ở đây nó vô lượng chứ đừng có nói! Quý thầy phải hiểu rằng đường lối của đạo Phật không phải tập luyện có 72 phép biến đâu! Mà đây là chúng ta muốn cái gì được cái nấy hết, cho nên ví như một ông người thợ gốm mà với cục đất sét ông nhồi rất nhuyễn rồi bây giờ ông chỉ có nắn, ông muốn nắn con bò, con trâu, con voi, con ngựa gì cũng được hết à. Một người đạt đến chỗ này thì họ muốn nắn cái gì cũng được hết như vậy đó!
“Ví như một người thợ ngà voi khéo tay với ngà voi đẽo dũa có thể làm các loại đồ ngà tùy theo sở thích”.Nghĩa là người thợ đó khéo tay thì lấy cái ngà voi đó họ làm cái gì cũng được, không có gì khó khăn đối với ông hết. “Ví như người thợ vàng (thợ kim hoàn đó) khéo tay với vàng khéo tinh luyện có thể làm tất cả đồ trang sức bằng vàng tùy theo sở thích”.Đó là đức Phật ví dụ như những người làm ra những điều đó thì cũng như là chúng ta đang ở trong một cái tâm định tĩnh như vậy mà chúng ta dùng cái thần lực của chúng ta, cái oai lực của chúng ta, chúng ta có thể làm tất cả những cái gì cũng được hết chứ không có khó khăn gì hết.
Đó là Giới Tuệ thứ ba trong Giới luật của đức Phật.Đây là cái Giới Tuệ thứ ba thôi chứ chưa phải là nó hết những Giới Tuệ của Phật đâu! Mới bắt đầu nghĩa là bước qua đầu cái Giới Tuệ là chúng ta thấy có những sự vi diệu tuyệt vời rồi đó.
“Đó là Giới Tuệ thứ ba trong Giới luật của đức Phật mà vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu, khó nghĩ lường”.
Bây giờ cái đầu óc của chúng ta nghĩ không có ra được cái này đâu! Thầy nói bây giờ mấy người nghĩ sao mà cái thân này biến ra ngàn thân, mấy người nghĩ đi! Cách thức nào làm cho được đi! Nghĩ sao cho ra không? Thế mà người ta đạt được đến cái mức độ này người ta làm ra được. Nó đâu phải là chuyện khó đâu, nhưng mà bây giờ lấy cái đầu óc phàm phu mà nghĩ thì chắc chắn là không có được rồi. Cho nên khó nghĩ lường, ở đây nó vi diệu, thù thắng mà thiết thực, hiện tại chớ không phải là đợi ngày mai ngày mốt đâu! Bây giờ muốn là bây giờ được, mà ngày mai muốn là ngày mai được. Muốn hồi nào là được hồi nấy. Phật lại nói thêm: “Tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu”.Trong thời gian hiện tại mà thiết thực, cụ thể chứ không phải nói mơ hồ như cái bóng ma, bóng khói, như đám mây mờ mờ ảo ảo đâu! Nó là một sự thật như vậy!
“4. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, như vậy Tỳ kheo dẫn tâm đến Thiên nhĩ thông. Tỳ kheo với Thiên nhĩ thông thanh tịnh, siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng nói của chư Thiên và của loài người dù ở xa, ở gần cũng đều nghe rõ không sai. Ví như một người đang đi qua đường nghe tiếng trống lớn, tiếng trống nhỏ, tiếng loa, tiếng xập xả, tiếng kèn, tiếng kẻng. Người ấy nghe biết rõ ràng. Cũng vậy, vị Tỳ kheo tâm định tỉnh hướng tâm Thiên nhãn thông nghe thấy rõ ràng cũng vậy.
Đó là Giới Tuệ thứ tư trong Giới luật của đức Phật mà vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu, khó nghĩ lường”.
Quý thầy thấy khi tâm người ta như vậy thì người ta dẫn tâm người ta đến Thiên nhãn thông hoặc là Thiên nhĩ thông, hoặc là Tha tâm thông, tất cả những cái này đều là những điều kiện mà những vị đó đã tu tập ở trong Giới Tuệ và họ đã đạt được.
“5. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị Tỳ kheo dẫn tâm và hướng tâm đến Tha tâm thông”.
Ở đây Thầy nhắc nhở quý thầy hai danh từ: Dẫn tâm và hướng tâm. Dẫn tâm là như thế nào và hướng tâm là như thế nào? Sau này Thầy dạy tới các pháp Thầy sẽ giải thích chỗ này cho. Còn bây giờ thì chúng ta học suông qua thôi. Bây giờ hướng dẫn đến Tha tâm thông đây!
“Tỳ kheo sau khi dẫn tâm đi sâu vào tâm chúng sanh (hướng tâm, dẫn tâm mình đi sâu vào tâm chúng sanh) của loài người, với tâm thuần tịnh, trong sáng, vị ấy biết được như sau: Tâm của chúng sanh có Tham biết là có Tham, tâm không có Tham biết là tâm không có Tham. Tâm của chúng sanh có Sân biết là tâm của chúng sanh có Sân, tâm không có Sân biết là không có Sân. Tâm của chúng sanh có Si biết là tâm có Si, tâm không có Si biết là tâm không có Si. Tâm chuyên chú biết là tâm chuyên chú, tâm tán loạn biết là tâm tán loạn. Đại hành tâm biết là đại hành tâm, không phải đại hành tâm biết là không phải đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng biết là tâm chưa vô thượng, tâm vô thượng biết là tâm vô thượng. Tâm Thiền định biết là tâm Thiền định, tâm không Thiền định biết là tâm không Thiền định. Tâm giải thoát biết là tâm giải thoát, tâm không giải thoát biết là tâm không giải thoát”.
Đó, khi mà được cái Giới Tuệ thứ năm này thì quý vị làm cái gì, tu tập đúng sai thì vị Thầy người ta đều biết hết nhưng mà người ta không nói ra thôi, người ta lần lượt điều khiển, hướng dẫn cho người tu đúng thôi, chứ người ta biết quý vị còn ở trong tâm nào người ta biết hết chứ không phải là người ta không biết. Người ta sử dụng được cái tâm của người ta cho nên người ta phải thông suốt quý vị hết. Chứ nếu người ta không sử dụng được cái tâm của người ta thì làm sao người ta biết quý vị! Nhưng người ta không muốn làm quý vị bất mãn, không muốn làm cho quý vị trái ý, người ta tùy thuận quý vị nhưng người ta lần lượt hướng dẫn nhỏ nhẹ để cho quý vị sửa lần lần để đi vào con đường đúng mà thôi! Bởi vì người tu người ta hiểu biết cái kiến chấp của quý vị nó rất nặng, nó không phải dễ dàng một ngày một bữa mà nó cởi ra được, mà phải tuần tự người ta khéo léo để giúp cho quý vị cởi ra.
“Ví như một người đàn bà soi mặt mình trong một tấm gương trong sáng suốt, nếu mặt có tì vết liền biết mặt có tì vết, nếu mặt không có tì vết thì biết là không có tì vết, da mặt trắng biết là da mặt trắng, da mặt đen biết là da mặt đen, mặt có nốt ruồi biết là mặt có nốt ruồi, mặt không có nốt ruồi biết là mặt không có nốt ruồi, mặt có vết thẹo biết là mặt có vết thẹo, mặt không có viết thẹo biết là không có vết thẹo”.
Đó, đức Phật ví dụ như một người đàn bà cầm cái gương soi vậy, thấy cái mặt mình như thế nào thì biết rõ, thì cái người có được cái Giới Tuệ thứ năm này thì người ta dẫn tâm vào tâm của chúng sanh, vào tâm các thầy, các thầy tu như thế nào người ta biết hết chứ không phải người ta không biết đâu! Đó là như chúng ta soi một cái gương cũng như người phụ nữ mà soi một cái gương trên mặt vậy đó! Họ biết họ rõ như thế nào thì cũng ví như một người mà người ta đã có được Giới Tuệ thứ năm này thì người ta thấy cái tâm chúng sanh nó cũng như vậy đó!
“Đó là Giới Tuệ thứ năm trong Giới luật của đức Phật vị này đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.
Chúng ta thấy tới Giới Tuệ thứ năm chúng ta đã thấy được thông suốt được những cái tâm sai khác của chúng sanh như thế nào, tu được hay không người ta biết hết, tu đúng tu sai người ta biết hết chứ không phải là người ta không biết.
“6. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu uế, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, như vậy vị ấy dẫn tâm hướng tâm đến Giới tuệ Túc mạng minh– đó bây giờ mới hướng đến Túc mạng minh đây, vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rõ ràng sanh tại chỗ kia ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp trong xã hội như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia ta được sanh ra tại chỗ nọ, tại chỗ ấy ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp trong xã hội như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây. Như vậy như vị Tỳ kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và chi tiết rất rõ ràng”.
 Đó, đức Phật ví dụ như chúng ta dùng Túc mạng minh thì chúng ta thấy nhiều đời nhiều kiếp mình như vậy đó chứ không là thấy ít đâu!
“Ví như một người đi từ làng mình đến làng khác, từ làng ấy đi đến một làng khác nữa và từ làng này trở về làng mình, làng của mình, người ấy nghĩ: Ta từ làng của mình đi đến làng kia, nơi đây ta đã đứng như thế này, đã ngồi như thế này, đã nói như thế này, đã yên lặng như thế này. Từ nơi làng nọ ta trở về làng của ta.
Đó là trí tuệ thứ sáu trong Giới luật của đức Phật vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.
Đó thì quý thầy thấy người ta thấy nhiều đời nhiều kiếp người ta như là mình đi từ làng này đến làng khác rồi mình trở về làng mình như vậy. Nghĩa là thấy từ quá khứ rồi trở về hiện tại là cái vị đó cũng như mình ngồi tu đây bắt đầu mình trở về quá khứ nhiều đời nhiều kiếp…
Bây giờ bắt đầu chúng ta tiếp tục bài học vừa rồi là thuộc về Giới Tuệ.
“Đó là Giới Tuệ thứ sáu trong Giới luật của đức Phật. Vị ấy đã đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.
“7. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, như vậy Tỳ kheo dẫn tâm hướng tâm đến Giới Tuệ về sanh tử của chúng sanh, tức là Thiên nhãn minh. Vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh, vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do Nghiệp của chúng tạo ra. Này các con! Người thường hay làm điều ác hạnh về thân, lời nói và ý nghĩ do vô minh, không rõ theo tà kiến, phỉ báng xuyên tạc giới luật và pháp môn của các bậc Thánh hiền, chạy theo tà kiến, tạo các tà nghiệp, nuôi sống tà mạng… Những người này sau khi hết phước báu hiện tại, khi thọ, khi thân hoại mạng chung để lại cho thế gian chứng nghiệm một sự đau khổ của các vị ấy, cực kỳ đau khổ. Đến khi mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ địa ngục. Hiện giờ họ đang phè phỡn trên mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ. Còn ngược lại những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời nói và ý nghĩ, không theo tà kiến, luôn luôn theo chánh kiến của Phật dạy nên không phỉ báng, thêm bớt Giới luật và giáo pháp của đức Phật, thường theo Giới luật của Phật không làm khổ mình khổ người, không làm các tà nghiệp, không nuôi dưỡng bằng những thực phẩm bất tịnh có ác pháp, có sự chết chóc đau khổ bằng sinh mạng của chúng sinh. Những người này sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, cõi trời, cõi người, hưởng đầy đủ phước báu, không có thiếu thốn một vật gì cho cuộc sống. Với Thiên nhãn minh thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống chết của chúng sanh rất rõ ràng, ví như một người ở trên tòa lầu đài có thượng đài giữa ngã tư đường, môt người có mắt nhìn xuống thấy rất rõ, sẽ thấy những người đi vào nhà, từ nhà đi ra đi qua đi lại trên đường, ngồi ở giữa ngã tư đường hay trèo lên đài thượng rất rõ ràng không thiếu một chi tiết nào hết.
Đó là Giới Tuệ thứ bảy trong Giới luật của đức Phật vị ấy đã đạt được kết quả Giới Tuệ này thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.
“8. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, thanh thản như vậy, vị Tỳ kheo dẫn tâm hướng tâm đến Lậu tận trí, vị ấy biết như thật đây là Khổ, biết như thật đây là nguyên nhân của Khổ, biết như thật đây là Khổ diệt, biết như thật đây là con đường đưa đến Khổ diệt; biết như thật đây là những Lậu hoặc, biết như thật đây là nguyên nhân của những Lậu hoặc, biết như thật đây là sự diệt trừ các Lậu hoặc, biết như thật đây là con đường đưa đến diệt trừ các Lậu hoặc.Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi Dục lậu, thoát khỏi Hữu lậu, thoát khỏi Vô minh lậu, đối với tự thân đã giải thoát như vậy sự hiểu biết khởi lên một cách rất rõ ràng “Ta đã giải thoát. Sanh đã tận, phạm hạnh đã xong, việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại này không còn có đời sống nào khác nữa!”.
Đó là cái Tuệ thứ tám của vị này nó hiện ra thì đó chứng đạt được cái lý Tứ Diệu Đế. Cho nên trong Ngũ lực thì đức Phật có nói là cái Tuệ lực là cái gì? Tuệ lực là Tứ Diệu Đế. Cho nên thấy thật, chứng thật, thấy rõ. Khi mà chúng ta nghe nói Tứ Diệu Đế chúng ta nghe nói Khổ, đời là khổ, rồi nguyên nhân Khổ, rồi cảnh giới thoát Khổ, rồi tám cái nẻo để đưa đến cảnh giới thoát khổ đó thì chúng ta hiểu biết như vậy, đó chúng ta mới ngộ được cái chân lý của đạo Phật mà thôi. Còn ở đây khi mà cái Giới Tuệ của chúng ta thực hiện được là cái Lậu tận minh thì chúng ta sẽ thấy được cái nguyên nhân Khổ, khổ thật chứ không phải là ngộ mà đây là chứng cái lý Khổ. Cho nên Phật mới dạy là khi mà cái trí tuệ đó, cái Giới Tuệ đó mà nó hiện ra thì chúng ta thấy: đây là Khổ, đây là chứng thật cái sự khổ chứ không phải nói đây là Khổ như chúng ta biết nó khổ thường thường đâu! Mà đây là cái sự chứng thật! Biết như thật tức là biết thật sự, thấm cái lý ở trong đó do sau những ngày tu tập cái Định vô lậu mà nó thấm nhuần, nó mới thấy như thật được, thì đây là nguyên nhân của khổ thật, chúng ta biết rõ là lòng ham muốn khổ thật, nhưng bây giờ chúng ta hiểu nó là biết cái nguyên nhân khổ là lòng ham muốn, nhưng mà chúng ta đoạn trừ không được, nhưng mà thời gian chúng ta nghiền ngẫm đặt cái niệm đó trước mặt mà chúng ta nỗ lực thực hiện cái niệm đó bằng cái pháp hướng. Tùy theo cái pháp mà chúng ta nổ lực thực hiện, tâm chúng ta nó thấm được cái lý đó, nó chứng được cái lý đó cho nên bây giờ mới gọi là cái trí tuệ Vô lậu, nó thực hiện ra chúng ta mới thấy được nó như thật, biết nó như thật như vậy! Cho nên mới biết đây là khổ thật, đây là nguyên nhân khổ thật, đây là cái nơi hết khổ, đây là cái chỗ mà chấm dứt khổ và đây là con đường dẫn đến hết khổ.
Và kế đó thì đức Phật lại nhắc lại thêm cho chúng ta thấy bốn cái Khổ đế này rõ ràng nhưng mà đức Phật xác định cho chúng ta thấy bốn cái Khổ đế nó nhằm vào những cái lậu hoặc của chúng ta để chúng ta thật thấy nó.
Biết như thật đây là những lậu hoặc, biết như thật đây là nguyên nhân của những lậu hoặc, biết như thật đây là diệt trừ các lậu hoặc, biết như thật đây là còn đường đưa đến diệt trừ các lậu hoặc”.
Thì chúng ta sống ở trong cuộc sống chúng ta hàng ngày là chúng ta phải thấy cái mấu chốt của lậu hoặc là nó như thế nào. Cái lậu hoặc là cái khổ, mà nguyên nhân của lậu hoặc là lòng ham muốn của chúng ta, mà diệt hết lòng ham muốn thì sẽ hết cái lậu hoặc, mà hết lậu hoặc thì đó là Niết bàn, là cái cảnh hết khổ. Mà muốn được như vậy thì chúng ta phải thấy được con đường đưa đến hết cái khổ đó tức là đoạn diệt cái lòng ham muốn thì con đường đó thì chúng ta thấy muốn cho hết cái lậu hoặc ở trong tâm của chúng ta thì con đường đó là Bát chánh đạo – Tám cái nẻo mà chúng ta cần phải tu tập.
Cho nên ở đây cái Giới Tuệ nó giúp cho chúng ta biết rằng, chỉ bảo cho chúng ta biết rằng con đường nào sẽ đưa chúng ta đi đến tận diệt cái lậu hoặc. Sau khi học xong Giới luật thì bắt đầu chúng ta sẽ học đến tám cái nẻo này, và tám cái nẻo này thì chúng ta phải biết từ cái Chánh kiến cho đến Chánh định, mà từ Chánh kiến đó chúng ta phải tu như thế nào, phải tập luyện như thế nào ở trong những cái Chánh kiến. Bắt đầu chúng ta phải tu những cái Định gì đối với Chánh kiến đầu tiên như bây giờ chúng ta tu cái…Nói ví dụ như bây giờ chúng ta bắt đầu tu thì chúng ta phải tu trong Chánh kiến, phải phòng hộ cái Chánh kiến của chúng ta. Phòng hộ Chánh kiến chúng ta tức là phòng hộ mắt tai mũi miệng thân ý của mình. Tức là Phật gọi là Thánh phòng hộ sáu căn.
Như vậy mới đầu vô mà được Chánh kiến là phải phòng hộ mắt tai mũi miệng của mình, cho nên tâm của chúng ta bây giờ nó không bị nhiễm trước, không bị đắm trước các đối tượng, các pháp cho nên khi phòng hộ nó thì chúng ta đâu thấy vật nào. Sau đó thì chúng ta phải dùng trên cái mắt tai mũi miệng của chúng ta, chúng ta phải tu tập cái sức tỉnh thức để khi chúng ta nhìn mọi vật mà chúng ta thấy không có cho cái tâm của chúng ta làm cái duyên trở thành sự dính mắc của vật đó, thì đó là chúng ta phải tu Chánh niệm tỉnh thức. Cho nên phòng hộ thì trước tiên, mà đây là mới có tu cái nẻo Chánh kiến mà chúng ta phải phòng hộ nó rồi.
Rồi đến khi mà mắt của chúng ta nhìn các vật được, trước đó phòng hộ để cho chúng ta luyện tập cái sức tỉnh thức. Sau khi tập luyện tỉnh thức được thì chúng ta mới cho mắt của chúng ta nhìn các vật, do đó chúng ta thấy nó tỉnh thức trong mọi vật cho nên nó đã làm cho tâm chúng ta không còn khởi ham muốn mọi vật nữa. Vì vậy lúc bấy giờ chúng ta đã tu hai cái Định, và hai cái Định đó để giúp chúng ta trong Chánh kiến, và bây giờ chúng ta mới quét sạch, trong cái nhìn của chúng ta nó sẽ sanh ra lậu hoặc. Do đó chúng ta phải tu cái Đinh vô lậu nữa! Từ đó nó còn có những cái khó khăn của nó vi tế nữa, cho nên chúng ta phải đi đến cái Định Hiện tại an lạc trú để chúng ta quét sạch lậu hoặc, chứng được Tam minh mới quét nó ra được, cho nên con đường đi chúng ta phải ba bốn thứ Định trong một cái Chánh kiến. Từ cái Chánh kiến rồi thì cái Chánh Tư duy thì cũng phải tu như vậy. Rồi Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh niệm, Chánh định chúng ta cũng phải tu trong mấy cái định này chứ đâu phải là tu có một cái không.
Rồi còn phải tu trong cái hành tướng, cái nhân tướng, cái đặc tướng của cái Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh định, Chánh tinh tấn, chớ đâu phải là có một cái không. Cho nên giảng về Tứ diệu đế đâu phải là đơn giản mà nói suông suông được. Cho nên nó còn rất nhiều điều mà Thầy cần phải nói để cho quý thầy biết rằng con đường của đạo Phật rất là kỹ lưỡng, trên bước đường hướng dẫn cho một người tu đạt đến chỗ giải thoát hoàn toàn của tâm họ. Chớ đâu phải là dạy sơ sơ trên cái nhân tướng là nói mình phải thấy đúng hiểu đúng như thế này thế khác bằng thiện pháp như Thầy dạy cách thức đơn giản thì người ta chỉ có được một chút ít nào giải thoát mà thôi, làm cho tâm hồn họ được an ổn mà thôi, chớ không thể nào như một vị tu hành phải hiểu cho rõ cho đúng.
Đến đây là cái Giới Tuệ thứ tám mà chúng ta nhận ra được những cái lậu hoặc chúng ta còn hay là hết.
“Ví như tại dãy núi lớn có một hồ nước thuần tịnh, trong suốt tận đáy hồ, không cấu nhiễm, một người có mắt đứng trên bờ hồ sẽ nhìn thấy con hến, con sò, con ốc, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá bơi lội qua lại hay đứng lại một chỗ rất rõ ràng không có mờ mịt chút nào, không có chỗ nào còn che dấu được mắt họ”.
Đức Phật ví dụ khi mà tâm của chúng ta mà cái Lậu tận minh nó hiện ra rồi thì cái tâm của chúng ta bây giờ nó thuần tịnh, nó trong cũng như là cái nước hồ mà trong suốt mà chúng ta đứng trên hồ rồi nhìn xuống đáy hồ thấy tất cả những vật ở dưới đáy hồ rất rõ ràng. Phật ví dụ tâm chúng ta đến cái chỗ Giới Tuệ thứ tám này thì nó trong suốt như vậy đó. Nó thanh tịnh trong suốt, nó không còn một chút tham dục nào trong đó, nó không còn một chút bất tịnh nào trong đó, cho nên nó trong suốt như vậy! Khi tu đến đây rồi thì cái tâm của chúng ta dễ sử dụng tất cả mọi thứ, điều khiển nó như thế nào thì nó làm được tất cả như thế nấy.
“Đó là Giới Tuệ thứ tám trong Giới luật của đức Phật, vị ấy đã đạt được kết quả Giới Tuệ này thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.
Tóm lại, tám Giới Tuệ trong đạo Phật là tám loại trí tuệ thanh tịnh, siêu việt trong kinh Sa môn quả. Đó là ở trong kinh Sa môn quả nó nếu ra tám cái loại trí tuệ đó như vậy. Nhưng ở đây chúng ta còn phải hiểu thêm cho đúng khi một người thọ trì tu tập đúng pháp của Phật là phải bắt đầu từ Sơ thiện, Trung thiện và Hậu thiện.
Sơ thiện là Giới luật, còn gọi là Giới bổn Patimokka. Trung thiện gọi là Thiền định, còn gọi là Bốn thiền, hay gọi là Tứ thánh định. Nếu gọi Thiền định của đạo Phật như vậy chưa đủ. Ta nên xem lại Giới Đức của đạo Phật có phân làm 10 loại Định. Nghĩa là trong cái Thiền định của đạo Phật chia làm 10 loại Định chứ không phải như chúng ta nói rằng Bốn cái Thiền định đó đâu!
Có 10 loại Định. Vậy thì 10 loại Định nó như thế nào? Thầy xin kể ra cho quý thầy nghe.
Thứ nhất,Định niệm hơi thở. Đó là cái thứ nhất mà cái người tu bắt đầu vào để mà tu tập là phải ổn định hơi thở. Vì khi mà chúng ta ăn uống điều độ mà chúng ta giữ được hơi thở điều hòa thì cơ thể chúng ta không có bệnh tật. Như quý thầy biết rằng vốn đạo Phật ra đời là một y vương để trị bệnh cho chúng sanh. Bệnh chúng sanh có hai loại bệnh: Bệnh thứ nhất là thân bệnh. Bệnh thứ hai là tâm bệnh.Mà đức Phật dạy cho chúng ta để trị thân bệnh thì bằng cách ăn uống điều độ ngày 1 bữa chớ không được ăn nhiều và hơi thở được ổn định,(BBT:CĐ,21B,E00:44:54) điều hòa thì cơ thể không có bệnh đau. Cái thứ hai thì đức Phật dạy cho chúng ta trị tâm bệnh. Vì tâm bệnh thì nó mới làm cho thân chúng ta mới bệnh. Còn tâm người đó không bệnh thì ít khi mà thân chúng ta bị bệnh. Một người mà phiền não (BBT:CĐ,22A,B00:00:00) rầu buồn thì lâu ngày ăn uống không được thì sẽ bệnh; một người giận dữ, tức giận thì cũng ăn uống không ngon, do đó tạo cho cơ thể rối loạn và từ đó dễ sanh bệnh. Cho nên những cái sân hận, phiền não, đau khổ, lo lắng, suy tư là cái tâm bệnh. Cái tâm bệnh thì lấy gì mà trị? Đức Phật nói: Cái Tâm bệnh lấy Trí mà trị, lấy sự hiểu biết mà trị nó.Cho nên ở đây hầu hết để trị cho chúng ta cái Tâm bệnh Vô lậu này thì phần nhiều là lấy Trí tuệ, mà lấy Trí tuệ đó thì như quý thầy đã học rồi, Trí tuệ ở đâu thì Giới luật ở đó.Bởi vì Trí tuệ nó làm cho Giới luật thanh tịnh, mà Giới luật nó làm cho Trí tuệ thanh tịnh. Cho nên người có trí là người có Giới luật, mà người không có trí là người không có Giới luật. Dù là người đó là người có thông minh gì đi nữa mà đời sống họ không đúng Giới hạnh, không đúng cái Giới luật của Phật dạy thì đương nhiên người đó là người không có trí. Cũng như quý thầy thấy mọi vị ăn phi thời tức là người đó không có Giới luật, mà không có Giới luật tức là không có trí tuệ, mà không có trí tuệ thì người ăn phi thời sẽ có nhiều bệnh tật đem đến đau khổ cho họ. Và khi mà chạy theo sự ăn uống đó là họ bị dục lạc của ăn uống cám dỗ làm cho tâm hồn của họ khi mà ăn cực khổ hoặc là khi không có ăn thì họ phải sinh ra đau khổ, phải sinh ra phiền não, phải sinh ra những cái ác pháp.
Đó, thì như vậy là người không có trí mà chỉ sống theo dục lạc cho nên luôn luôn tạo mình khổ, tức là tạo cho mình có bệnh, tâm bệnh hoặc là thân bệnh. Cho nên ở đây là cái Định niệm hơi thở vốn mục đích nó hợp với cái sự ăn uống điều độ của chúng ta thì giúp cho thân chúng ta không bệnh. Cho nên nó là Định thứ nhất của đạo Phật để trị cái thân bệnh của chúng ta. Còn các cái định khác, còn 9 cái thứ định này vốn là để trị cái tâm bệnh của chúng ta. Đó thì cái Định niệm hơi thở nó hợp với cái đời sống ăn uống của chúng ta hàng ngày thì nó trị được cái thân bệnh. Còn 9 cái loại định sau này nó hợp lại để mà nó trị cái Tâm bệnh của chúng ta. Biết như vậy thì Thầy sẽ kể tiếp cho quý thầy nghe.
Thứ hailà Thánh định phòng hộ sáu căn. Bởi vì phòng hộ sau căn là một cái loại định làm cho mắt tai mũi miệng thân ý chúng ta thanh tịnh, và oai nghi luật nghi, cái luật nghi mà Giới hạnh làm cho chúng ta rất rõ nét mà người nào nhìn vào cũng biết là cái người đó Giới luật hẳn hòi. Một người tu sĩ mà đi ra đường ngó qua ngó lại thì biết rằng người đó không phòng hộ sáu căn. Mà không phòng hộ sáu căn thì tức là người đó đã phạm Giới. Không thể nào trong ý của họ không phạm Giới. Họ đi mà họ ngó qua ngó lại thì cái ý họ bị dính kẹt ở trong những cái đối tượng của các pháp thế gian thì làm gì họ cũng bị phạm Giới hết. Mặc dù là Thân – Khẩu họ không phạm, đời sống họ không phạm nhưng Ý họ vẫn bị phạm Giới. Đó là Thánh định phòng hộ sáu căn.
Thứ balà Thánh Định Chánh niệm Tỉnh thức, nghĩa là người tu sĩ luôn luôn phải tỉnh giác, phải tỉnh thức, không có được mê mờ, cho nên khi đi luôn luôn họ tập trung dưới bàn chân họ, họ tránh tất cả những loài chúng sanh và đồng thời họ giữ được Chánh niệm là không hại chúng sanh, không làm đau khổ chúng sanh, tức là không giết hại chúng sanh, tức là giữ giới không sát hại chúng sanh. Cho nên Giới luật ngay từ chỗ bước đi của họ chứ không phải họ cầm dao họ giết con vật hoặc cầm dao giết người mới gọi là sát sanh, mà chính vô tình đạp chết chúng sanh vẫn là thọ lấy cái Giới phạm Giới sát sanh chứ không phải không.
Thứ tư,Chánh Định Thiểu dục tri túc. Nghĩa là phải dùng cái sức định tâm hết sức mới giữ được cái Thiểu dục tri túc, chứ không thể nào mà thiếu Thiểu dục tri túc, thiếu cái định tâm mà giữ gìn được Thiểu dục tri túc đâu! Cho nên ở đây thứ tư là Thánh định Thiểu dục tri túc, Phật gọi nó là Thánh định. Cái Thiểu dục tri túc là của bậc Thánh chứ không phải phàm phu mà thiểu dục tri túc được. Quý thầy cứ nghĩ ba y một bát như thế này, sống ngày có người cho ăn mà có ngày không có người cho ăn vẫn thấy mình biết đủ, chưa phải là thấy mình thiếu sót đói khổ. Quý thầy có nghĩ được cái điều đó không? Cuộc sống của một người tu sĩ mà đến cái mức độ đó thì quý thầy thấy nếu mà ngoài đời sống thì không ai mà chịu nổi hết. Người ta nói quá khổ à, không thể nào cái khổ nào hơn cái khổ của những bậc Thánh này. Vì vậy cho nên Thiểu dục tri túc nghe hai danh từ thì dễ lắm, nhưng mà sống không phải dễ. Khi vào trong rừng không có cơm ăn, phải ăn lá cây rừng vẫn thấy thiểu dục tri túc. Khi đau bệnh mà không có thuốc thang vẫn thấy thiểu dục tri túc, trước cơn ngặt nghèo mà chúng ta vẫn thấy thiểu dục tri túc. Không đòi hỏi thì lúc bấy giờ mới thấy thiểu dục tri túc phải là Thánh định, chứ còn không Thánh định thì không thể nào chịu nổi trước cái cảnh thân và tâm quá khắc khổ trong cuộc sống. Đó gọi là Thánh định Thiểu dục tri túc, mà ở đây đã có cái… mình mới đạt được cái Giới Đức đó chứ không phải dễ. Cho nên Định nó thuộc về Giới đức.
Thứ năm,Thánh Định Vô lậu. Làm cho lậu hoặc chúng ta sạch cho nên gọi là Thánh Định Vô lậu.
Thứ sáuThánh Định Sơ thiền. Còn gọi là Định chói sáng, hay gọi là Định sáng suốt. Đó, cái Sơ Thiền nó còn có cái tên gọi là Định chói sáng hay là Định sáng suốt mà Thầy thường nhắc quý thầy ngồi lại mà giữ tâm thanh thản, giữ tâm vô sự đó. Đó là cái Định Sơ Thiền đó. Chứ không phải là gì, vì có ly dục ly bất thiệp pháp thì mới nhập được Sơ Thiền, mà có nhập được Sơ Thiền thì ngồi nó mới thanh thản, còn không thì làm sao mà thanh thản được. Cho nên cái Định Sáng suốt (Định chói sáng) là cái định của Sơ Thiền. Vì vậy ở đây Phật gọi là Thánh Định Sơ Thiền. Chứ không phải phàm phu mà nhập được cái Định này đâu!
Kế đó thứ bảythì Phật gọi là Thánh Định Nhị thiền. Nghĩa là diệt Tầm Tứ, không tác ý, không phải chuyện dễ làm của phàm phu cho nên chỉ có bậc Thánh mới có thể làm được điều đó.
Thứ tám, Thánh Định Tam thiền. Chỉ có bậc Thánh mới ly tất cả những trạng thái của ma tức là mười tám cái trạng thái của Tưởng. Mỗi cái trạng thái của Tưởng nó khởi lên là nó làm cho chúng ta có niềm vui mừng, mà cái niềm vui mừng đó nó làm cho chúng ta mà Phật gọi là “Ly hỷ, trú xả”. Mỗi cái trạng thái của Tưởng khởi lên làm cho thân chúng ta đang bị đau khổ dày vò do đó chúng ta phải ly cho được thì như vậy chúng ta mới nhập cho được Tam thiền. Mà ly 18 trạng thái của Tưởng này thì mới nhập được Tam thiền cho nên mới gọi là Thánh định. Thậm chí như chiêm bao, giấc mộng chúng ta cũng phải ly sạch ra, nếu còn mộng thì chưa nhập Tam Thiền. Cho nên cái sức tỉnh của người đó dù trong lúc ngủ họ cũng phải tỉnh, mà không tỉnh thì phải có chiêm bao, mà chiêm bao tức là họ chưa lý được cái trạng thái của Tưởng. Chưa ly được trạng thái của Tưởng thì không bao giờ nhập được Tam thiền. Cho nên khi ngủ, cái người mà tu đến cái chỗ mà vượt qua cái Tưởng này thì người đó không còn mộng mị. Mà không còn mộng mị thì ngủ phải tỉnh thức chứ không thể ngủ mê như cái người tầm thường phàm phu được. Tới cái chỗ Thánh Định Tam Thiền này chúng ta mới biết rằng cái chỗ ngủ và chỗ thức của chúng ta nó không có cái chỗ sai khác chút nào hết.
Thứ chín, Thánh Định Tứ thiền. Đây, quý vị thấy cái Thánh Định Tứ thiền là cái chỗ mà ngưng hoàn toàn hơi thở chúng ta, mà chỗ đó là cái chỗ thanh tịnh nhất mà chúng ta thực hiện được Tam Minh đó. Đó là chỗ Thánh Định Tứ thiền, không phải kẻ phàm phu mà nhập được Tứ Thiền nổi đâu! Không phải chuyện dễ, hơi thở đang thở như thế này mà ngưng lại các hành hoạt động trong hơi thở, đang co bóp, phổi chúng ta đang thở ra thở vô, thế mà nó hoàn toàn ngưng mà chúng ta không chết thì không phải là thiền của bậc Thánh mới làm được sao? Đó là cái chỗ làm chủ được sống chết của thân của chúng ta, cho nên nếu mà chúng ta muốn bỏ thân này thì đều phải nhập vào Tứ thiền thì mới bỏ thân này được.
Thứ mười,Thánh Định Diệt Thọ Tưởng. Nghĩa là cái Định cuối cùng là định thứ mười là Diệt Thọ Tưởng. Cái Định này nó giữ cái thân của quý vị ngàn năm không bị hoại diệt, nó giữ cái thân của quý vị ngàn năm không bị hoại diệt. Nghĩa là Thánh Định Tứ Thiền nó chỉ có 49 ngày, nếu quá 49 ngày thì cái thân của quý vị bị hoại diệt, vì nó còn ở trong cái Thức thức, nó chưa ly khỏi cái thân Ngũ uẩn của nó, Tứ thiền nó chưa ly khỏi cái thân Ngũ uẩn của nó, nó còn ở trong cái Thức thức của nó để nó sử dụng cái biết để mà trở về cái trí tuệ Tam minh của nó, tức là cái Giới Tuệ của nó cuối cùng. Cho nên nó không giữ được cái thân của nó lâu dài, chỉ có 49 ngày thì nó bị hoại diệt. Nhưng chúng ta nhập tới 49 ngày tự cái thân của chúng ta nó phải phục hồi sự sống lại, nó sẽ bung ra chứ nó không ở trong Tứ Thiền. Cho nên chúng ta chẳng ngại vấn đề đó. Nếu chúng ta nhập Tứ Thiền đến đó nó tự bung ra, nó không nằm ở trong đó cho chúng ta chết đâu. Còn Diệt Thọ Tưởng Định thì cái Thánh Định thứ mười này nó giúp cho chúng ta nhập vào cái Định này cả trăm năm, cả ngàn năm thân này bất hoại, không hư, không hôi, không thúi, luôn luôn lúc nào nó cũng giữ gìn cái thân nó vững chắc như đá, không mòn, không hao, không có một vật gì phá hoại cái cơ thể này được. Đó là cái Định giữ gìn cái cơ thể tối đa và tất cả những cái bộ phận ở trong thân đó đều hoàn toàn ngưng hoạt động, thậm chí như cái Ý căn của chúng ta cũng hoàn toàn ngưng hoạt động. Đó là cái bộ óc. Còn Tứ thiền thì cái bộ óc của chúng ta, cái Ý căn của chúng ta vẫn còn hoạt động, nhưng các phần khác của bộ óc đều đình chỉ như cái phần mà hoạt động của bộ óc chúng ta về Ý thức của chúng ta thì ngưng hoạt động, về cái phần Tưởng thức ngưng hoạt động, chỉ còn cái phần của Thức thức là nó đang hoạt động mà thôi.
Phân biệt được như vậy chúng ta mới thấy rằng cái Định của Tứ thiền thì cái Ý căn của chúng ta còn hoạt động trong cái phần của Thức thức, chứ không hoạt động của phần tưởng thức và Ý thức của chúng ta. Còn Thánh Định Diệt Thọ Tưởng thì cái Ý căn của chúng ta ngưng hoạt động hoàn toàn. Cho nên Phật gọi nhập Diệt Thọ Tưởng Định là cái ý hành phải ngưng, phải tịnh chỉ, phải tịnh chỉ ý hành thì mới nhập Diệt Thọ Tưởng Định, mà tịnh chỉ  ý hành tức là Ý căn ngưng hoạt động. Quý thầy hiểu cái chỗ đó. Thì như vậy quý thầy mới biết mười cái loại Định. Trong khi người dạy ta Thiền Định chỉ có một thứ Thiền Định mà ở đây Phật dạy chúng ta tới mười cái loại Thiền Định. Con đường của đạo Phật nó không đơn giản đâu! Nó không phải có một loại định nào mà chúng ta có thể hoàn tất được cái sự giải thoát cho chúng ta, mà cả mười loại mà chúng ta phải tu chứ không có bỏ một cái loại nào được hết.
Cho nên hiện giờ quý thầy tu hơi thở cũng là tốt, mà tu làm mọi công việc biết hành động làm mọi công việc cũng là tốt chứ đâu có gì sai, mà quý vị phòng hộ sáu căn, giữ gìn sáu căn của mình cũng là tốt, đâu có gì sai. Mỗi Giới luật của quý thầy học được, quý vị giữ được một cái Giới luật nào đó cũng đều nhằm ở trong mười loại Định này chứ không ngoài mười loại Định đâu mà sợ rằng chúng ta tu lạc. Chỉ có chúng ta bị lạc vào những cái trạng thái của Tưởng mà nó khiến cho thân của chúng ta trở nên rối loạn, trở thành điên khùng, trở thành bệnh Thiền chứ không có gì khác hết. Chỉ có chỗ từ Nhị thiền đến Tam thiền cái đoạn đường đó là quý vị sẽ lạc vào những cái Thiền ma mà trở thành thân bệnh, tâm bệnh mà thôi. Nếu mà vượt qua được cái chỗ từ Nhị thiền đến Tam thiền mà vượt qua mười sáu cái loại của Tưởng uẩn thì quý thầy sẽ được an toàn trên bước đường tu tập, không có sợ điên sợ khùng gì nữa hết. Nó chỉ có một đoạn đường đó mà người ta chết điêu chết đứng ở đó mà không đi tới đâu được hết.
Gồm chung mười loại Định này gọi là Giới Đức. Nghĩa là mười cái loại Định này thì nó được cái tên gọi là Giới Đức, còn gọi là Giới Tâm hay gọi là Thiền Định, còn gọi là Trung Thiện. Những cái tên của nó để gọi cho chúng ta biết mười cái loại Định đó nó có những cái tên của nó như vậy để cho nó phù hợp với đạo Phật, đúng với cái nghĩa của đạo Phật. Bởi nó đứng ở vị trí nào thì nó có một cái tên xứng hợp với vị trí nó.
Như vậy là chúng ta phải hiểu khi mà bốn cái loại định này nó đứng ở trong cái vị trí của Định thì nó gọi là Thiền Định, mà nó đứng ở trong Giới luật thì gọi nó là Giới Đức, mà nó đứng ở trong các pháp thiện – nhân quả thì nó gọi là Trung thiện. Bởi vậy nó đứng ở vị trí nào thì nó có một cái tên xứng hợp ở cái vị trí nấy, như nó ở vị trí nhân quả thiện ác thì nó gọi là Trung thiện. Đó, Thầy đem cái ví dụ để quý thầy thấy rất rõ, nếu nó ở trong cái nhân quả thiện ác thì nó gọi là Trung thiện, mà nó ở cái vị trí của Giới luật thì nó gọi là Giới Đức, nếu mà nó ở trong cái vị trí của Giới luật thì nó gọi là Giới Đức, nó ở vị trí tâm định tỉnh, trong sạch thì nó gọi là Thiền định. Nói chung nó là Giới Đức thanh tịnh tâm. Nó có một cái tên chung của nó gọi là Giới Đức thanh tịnh tâm.
Đó quý thầy có những cái tên của nó, nó đặc biệt có những cái tên riêng của nó nhưng nó có những cái vị trí đứng của nó, nó có những cái tên riêng của những cái vị trí đứng của nó.
Như vậy là quý thầy nghe nói Giới Đức thì quý thầy hiểu nó là cái gì rồi. Mà nghe nói Giới Đức thì quý thầy đứng ở trong nhân quả biết nó là cái Trung thiện rồi, biết nó là cái tên gì rồi mà nếu gọi chung nó thì Đức Giới thanh tịnh tâm. Đó thì quý vị có cái biết rằng cái Đức Giới này nó làm cho cái tâm quả quý vị thanh tịnh mà định tỉnh, rất là sáng suốt.
Còn về 25 Giới hạnh như Thầy đã dạy ở trên còn gọi là Giới bổn Patimokka. Hai nhăm cái hạnh mà mình không làm nghề nghiệp này không làm nghề nghiệp kia đó, không sát hại chúng sanh đó. Tất cả những cái ở trên thì nó thuộc về Giới bổn, sau này chúng ta ta sẽ học nó để chúng ta bổ túc thêm cho 25 cái Giới hạnh cho nó rõ ràng là oai nghi tế hạnh của người tu sĩ. Học Giới bổn rồi chúng ta mới thấy được 25 Giới hạnh này nó còn thêm những hành động mà chúng ta chưa có học, có thu nhập, có hiểu biết, chưa toàn diện. Khi mà học hết Giới bổn Patimokka này rồi thì chúng ta có đầy đủ hơn về những cái Giới hạnh. Hạnh Giới Ly trần tâm. Nghĩa là 25 Giới hạnh này còn có một cái tên gọi là Hạnh Giới Ly trần tâm, nghĩa là cái Giới hạnh này nó ly cái tâm thế tục của chúng ta, nó ly cái đời sống thế tục của chúng ta, chúng ta không còn ở trong thế tục nữa, không còn sống như cách sống thế tục nữa. Cho nên nó có cái tên gọi là Hạnh Giới Ly trần tâm, chúng ta không còn cái hành động sống như các người thế gian nữa, cho nên nó ly ra tất cả hết cái tâm trần của chúng ta, nó lìa ra hết. Cho nên nội cái Giới hạnh không là chúng ta đã lìa cái thế gian rồi.
Còn về 8 Giới Tuệ như trong Kinh Sa môn quả đã dạy thì chưa đủ. Nó có 13 Giới Tuệ. Bây giờ cái Giới Tuệ chúng ta phải xác định, hồi nãy Thầy xác định cái Định cho nó đủ để 10 cái Định. Còn bây giờ nói hồi nãy chúng ta có học 8 Giới như trong Kinh sa môn quả đã dạy thì nó chưa có đủ đâu, mà chính nó phải đủ là 13 cái Giới Tuệ chứ không phải là có 8 Giới Tuệ đâu.Nhưng mà theo Kinh Sa môn quả thì chúng ta nêu ra 8 cái Giới Tuệ, cho nên nó có sự tóm tắt lại để cho chúng ta ngắn gọn, để không nó dài dòng cho nên ở đây nếu phải rõ thì nó là 13 Giới Tuệ chứ không phải là có 8 Giới Tuệ. Chúng ta phải kể ra cho rõ, nghĩa là Thầy phải nói ra cho rõ để cho quý thầy biết như thế nào là 13 cái Giới tuệ này mà ở trong Kinh Giới, Kinh Sa môn quả thì dạy có 8 cái Giới Tuệ mà thôi. Vậy thì nó làm sao mà có được 13 Giới Tuệ đây? Chúng ta phải thấy:
1. Bốn Như Ý Túc.
2. Lục thông.
3. Tam minh.
Quý thầy thấy nó rõ ràng là Bốn Như Ý Túc mình muốn như thế nào nó làm theo như thế nấy hết mà bốn cái lận chứ không phải một cái Như Ý Túc đâu. Cho nên nó là bốn, mà Lục thông là sáu cái thông: Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông,… cho đến Tha tâm thông sáu cái, mà sáu cái cộng với bốn không phải là 10 sao? Rồi (3) cái Tam minh nữa. Ba cái nữa là phải 13 không? Cho nên phải nói đủ là 13 cái Giới Tuệ. Thì như vậy là chúng ta thấy cộng lại là nó đủ 13 chứ không phải như trong Kinh Sa môn quả nói đâu. Trong Kinh Sa môn quả chỉ nói cái Thiên nhĩ thông. Thầy nhắc lại cái Thiên nhĩ thông ở trong này là khi cái người đạt được cái Thiên nhĩ thông mà siêu nhân rồi thì cũng nghe cái tiếng ở cách xa ngàn dặm đó. Cũng như mình đi ra ngoài đường mình nghe người ta đánh trống, thổi kèn, đánh xập xả y như vậy, rõ ràng như vậy mà cái tiếng người ta nói chuyện ở đâu mình vẫn nghe được như vậy. Đó là đức Phật nói về Lục thông thì đức Phật có nêu lên có một cái mà thôi để nói nó là cái Trí, cái Tuệ, cái Giới Tuệ của nó ở trong cái…cho nó gọn thành lại 8, nhưng mà lôi ra cho đủ là nó phải 6 cái Lục thông này mới đủ chứ không phải một cái được. Cho nên ở đây nó là 13 Giới Tuệ này còn gọi là Trí Tuệ viên mãn. Mười ba Giới Tuệ này cũng còn gọi nó với cái tên là Trí Tuệ viên mãn vì nó viên mãn cái trí tuệ này nó phải đủ 13 cái Giới Tuệ này, chứ một cái mà nói bây giờ chúng tôi có Tam minh thôi thì cái người đó chỉ hiểu quá là cạn, đơn sơ quá đơn sơ.
Cho nên ngoại đạo nó cũng có Lục thông thì ở trong cái chỗ tu hành của chũng ta cũng thực hiện Lục thông chứ đâu phải không có Lục thông. Mà chúng ta còn có Tứ Như Ý Túc, muốn cái gì được như nấy, còn chúng nó chỉ có Lục thông mà thôi. Cho nên nó luyện có Lục thông mà nó không có Tứ Như Ý Túc thì nó đâu có bằng cái phương pháp của Phật, mà nó chưa có Tam minh nữa thì nó đâu có sánh được bằng Phật. Nó chỉ có Lục thông mà thôi. Cho nên cái Lục thông của nó là do luyện tập để tạo cho có cái Lục thông bằng Tưởng pháp chứ không phải bằng cái chánh pháp đâu, bằng cái Tưởng. Vì vậy mà khi mà đến Tưởng thì chúng ta dùng Lục thông này được, cũng như đồng cốt mà, nó chỉ dùng cái Tưởng mà nó biết nhà mình cái gì cái gì nó rõ hết, nó không có nói sai. Thì quý thầy thấy cái vấn đề Lục thông của ngoại đạo là Lục thông nó ở trong trạng thái của Tưởng uẩn mà nó thực hiện ra. Còn Lục thông của chúng ta là ở chỗ tâm thanh tịnh, sáu căn mắt tai mũi miệng thân ý của chúng ta do ly ác pháp và ly dục cho nên nó thanh tịnh mà nó như cái hồ nước trong. Vì vậy mà cái Lục thông này tự thanh tịnh mà thông suốt ra chứ không phải là do chúng ta luyện tập ở chỗ Tưởng.
Biết như vậy thì chúng ta mới thấy được cái chỗ tuyệt vời của đạo Phật đối với cái chỗ 13 cái Giới Tuệ này. Cho nên còn gọi nó là Trí Tuệ viên mãn, viên mãn tức là đầy đủ, trọn vẹn không còn thiếu nữa. Còn gọi là Trí Tuệ siêu việt, nó còn có những cái tên Trí Tuệ viên mãn là trí tuệ đầy đủ không còn thiếu, tự 13 cái Giới Tuệ này là Trí Tuệ đầy đủ không còn có cái nào nữa thêm nữa được hết. Đó gọi là Trí Tuệ viên mãn. Nó còn gọi là Trí Tuệ siêu việt, cái trí tuệ này nó điều khiển tất cả những cái mà người ta không có thể lường được cho nên nó gọi là siêu việt.
Nói Trí Tuệ người ta tưởng lầm là Tri kiến. Bữa giờ mình nói Trí Tuệ thì người ta nghĩ rằng đó là cái Tri kiến của mình. Có người hiểu bởi vì Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy thì người ta nghĩ như vậy, người ta cho Tri kiến là Trí Tuệ, vì tri kiến là Trí Tuệ người ta phân chia làm 3 Trí Tuệ. Cho nên bây giờ Thầy nhắc là người ta lấy cái tri kiến đó mà người ta cho rằng nó là Trí Tuệ cho nên người ta phân chia cái Trí Tuệ đó làm 3 cái Trí Tuệ của chúng ta. Đó là một cái hiểu sai của những người chưa có biết tu. Cho nên vì vậy trong Kinh rõ ràng là ghi như thế này:
1. Văn Tuệ.
2. Tư Tuệ.
3. Tu Tuệ.
Ai mà nghe những người giảng về Trí Tuệ đó thì họ phân chia rồi làm Văn Tuệ, Tư Tuệ, Tu Tuệ. Phải không? Văn - Tư - Tu đó. Cho nên cái này nó chỉ là Tri kiến chứ không phải là cái Tuệ đâu, nó không phải là Trí Tuệ đâu. Nó là cái Tri kiến của chúng ta. Nó chưa đạt được cái Tri kiến giải thoát nữa. Cái chỗ mà Văn Tư Tu này nó chưa đạt được cái tri kiến giải thoát của chúng ta nữa. Nó chỉ mới ở cái chỗ Tri kiến mà thôi, tức là cái nơi mà chúng ta tích trữ, tập hợp lại tất cả những sự hiểu biết của Kinh sách, của những người xưa người nay để thành một cái hiểu biết của chúng ta, gọi là Văn tuệ, tức là chúng ta nghe rồi chúng ta tích lũy lại gọi là Văn tuệ. Từ cái chỗ Văn tuệ đó chúng ta suy tư bằng cách này bằng cách khác để làm cho tâm chúng ta giảm bớt sự buồn khổ, như thế này thế khác hoặc là chúng ta suy tư ra để mà chúng ta tìm hiểu thêm ra, thì đó gọi là Tư tuệ. Tư là suy tư, tư duy, cái suy nghĩ để mà hiểu thêm ra, để mà thấu suốt được cái gì đó thì gọi Tư tuệ. Nhưng đó cũng là cái Tri kiến của chúng ta chứ không phải là cái Trí Tuệ.
Còn đến phần Tu tuệ thì ở trong Kinh sách dạy chúng ta lấy một cái sự hiểu biết như bây giờ Phật dạy làm cho chúng ta hiểu biết đó, đó là cái thân chúng ta này, Ngũ uẩn của thân ngũ uẩn chúng ta này là Vô thường, Khổ, Vô ngã này, thì chúng ta lấy cải chỗ hiểu biết đó mà chúng ta tu tập làm cho thân, cái tâm của chúng ta không có phiền não, đau khổ nữa. Vì thế cái thân vô thường này mình không chấp ngã này, mình không có giận hờn ai nữa này, mình thấy cái thân vô thường này mình không có sợ đau sợ khổ nữa này. Cái mà làm cho mình không có đau khổ đó gọi là lấy cái Trí Tuệ đó mà tu thì gọi là Tu tuệ. Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu 3 cái Trí Tuệ này chỉ là một cái Tri kiến của chúng ta thôi chứ không phải gì khác hơn hết. Nó không phải là Trí Tuệ siêu việt. Nó cũng không phải là Trí Tuệ viên mãn. Nó chỉ là một cái Tri kiến tầm thường của mọi con người trong thế gian này ai cũng có chớ không phải cần tu tập mới có. Nhưng khi mà chúng ta tích lũy thì chúng ta ăn nói nó có lưu loát, nó có hơn cái người không tích lũy. Chúng ta nói ra văn chương bằng cách này bằng cách khác là do vay mượn của kẻ khácnói thì nó hơn là cái người mà không có vay mượn văn chương cho nên họ nói lời nói bình dân mộc mạc, họ nói không có mượn câu này kia. Nói một hơi chúng ta để một câu kinh Phật ra nói, nói một hơi chúng ta đem câu Nho ra nói thì cái đó là vay mượn của kẻ khác mà làm ra cái chỗ ăn nói của mình cho có vẻ lịch lãm mà thôi. Đó là cái vay mượn.
Cũng như bây giờ chúng ta vay mượn khoa học để chứng minh cho Phật pháp thế này thế kia, do đó Phật pháp có khoa học như vầy như vầy. Đó là cái vay mượn của chúng ta qua những cái khoa học bằng máy móc của người ta tìm ra những cái thực của cái cuộc sống ở trong cái vũ trụ này, do đó chúng ta vay mượn cái đó để chứng minh cho Phật pháp nó cũng thực như vậy. Đó là cái vay mượn mà cái vay mượn đó không phải là Trí Tuệ, đó là cái tri kiến góp nhặt mà nói ra để làm cho chúng ta như một người thông về khoa học, thông về cái này thông về cái kia. Đó là chứng tỏ cái bản ngã chúng ta, do cái tri kiến này mà cái bản ngã của chúng ta càng ngày càng to lớn lên chớ không phải giảm xuống và vô ngã được.
Văn Tư Tu Tuệ này chỉ là một Tri kiến góp nhặt chứ không thể được liệt vào Tam Vô Lậu học Giới – Định – Tuệ của đạo Phật. Bởi vì Giới – Định – Tuệ của đạo Phật nó là một cái loại Giới luật, mặc dù nói là Giới – Định - Tuệ có cái tên riêng nhưng mà sự thật toàn bộ Giới – Định – Tuệ là một cái Giới luật như Thầy đã nói. Giới bổn tức là Giới Hạnh, mà Định tức là Giới Đức, Tuệ là Giới Tuệ. Cho nên toàn bộ của đạo Phật là Giới luật chứ không phải gì khác hết. Vì người dạy Giới luật mà không hiểu được điều này mới thấy Giới là nói riêng, Định nói riêng và Tuệ nói riêng, cho nên dạy giới luật rất là khô khan. Làm cho con người ta học đến Giới luật người ta chán, người ta thấy như một cái giáo điều, như một cái pháp luật khắc khổ trói buộc con người, cho nên người ta sống không nổi với nó. Còn trái lại ở đây Thầy dạy giới luật nó ở trong Tam Vô Lậu học cho nên Giới – Định – Tuệ nó là một cái Giới luật để đem lại sự giải thoát cho con người. Từ bước đầu vô cái Giới hạnh chúng ta đã thấy giải thoát, cho đến Giới Đức chúng ta thấy cả một sự định tâm vô cùng tuyệt diệu, cho đến cái Giới Tuệ chúng ta không nghĩ lường được cái quyền lực của Giới Tuệ đến cái mức độ cao siêu vô cùng của đạo Phật như vậy.
Cho nên ở đây dạy về Giới luật mà hiểu biết được Giới kinh, hiểu biết được cái nhân quả của cái pháp môn Giới – Định – Tuệ này thì Thầy nói là người dạy Giới luật rất là linh động, rất là khéo léo, làm cho người nghe càng ngày càng thích và càng ham tu Giới luật hơn. Còn nếu mà cái người mà không hiểu được như vậy dạy Giới luật người ta không bao giờ mà phát triển được Giới luật. Đứng ở trên góc độ dạy Giới luật như Thầy thì tin rằng Giới luật sẽ phục hồi rất nhanh và tiến bước trên con đường Giới luật mọi người người ta khép chặt mình trong Giới luật để người ta thực hiện được cái đời sống giải thoát, người ta không hề sợ khổ mà người ta thấy đó là một cuộc giải thoát thực sự, hoàn toàn là một cuộc cách mạng của con người, làm cho chúng ta làm chủ được cái sinh tử. Từ lâu chúng ta bị sinh tử làm chủ, bây giờ đòi lại quyền sinh tử bằng một cái cuộc cách mạng, bằng cuộc cách mạng tức là thay đổi cuộc sống của chúng ta toàn bộ.
Đó thì quý thầy thấy rất rõ nếu mà chúng ta không làm một cuộc cách mạng hoàn toàn thì chúng ta không đòi lại quyền là chủ sinh tử đâu. Đó là cái mục đích của Tam Vô lậu học là như vậy. Mà Tam Vô Lậu học là một cái Định lực của Giới luật nó làm cho chúng ta thay đổi toàn bộ của cuộc cách mạng đời sống của chúng ta. Cho nên quét sạch ra được thì chúng ta mới đạt được cái này mà không quét sạch không làm cái cuộc cách mạng cho cuộc sống chúng ta thì hoàn toàn chúng ta không đạt được cái sự giải thoát này đâu.
Vì Giới – Định – Tuệ của đạo Phật là ba pháp môn liên hoàn, nghĩa là ba cái pháp môn này coi như nó kết hợp, nó liên hoàn nhau trong một cái Giới luật chứ không phải là hai. Giới sinh Định, Định sinh Tuệ, không thể tách lìa ba pháp môn này ra từng pháp môn được. Người không hiểu pháp môn này họ hay tách lìa nó ra từng pháp môn, từng pháp môn, Định nó khác rồi Giới nó khác. Người mà hiểu được ba pháp môn này đứng ở trên một cái nền tảng của Giới luật thì hoàn toàn nó là ba pháp môn là Giới luật không gì khác. Người chưa có kinh nghiệm tu hành trong đạo Phật thì không thể nào liễu giải pháp và liễu giải nghĩa được. Thường họ giảng theo tri kiến phàm phu nên làm lệch nghĩa của Phật dạy. Tri kiến mà họ hiểu là Trí Tuệ thì rất là sai lạc, lầm lạc.
Người phàm phu ai cũng có tri kiến, nhưng một người tu hành đã giải thoát có còn tri kiến hay không? Nếu mà cái người phàm phu thì luôn luôn họ có tri kiến thì đồng ý rồi, nhưng thử hỏi một người tu hành đã giải thoát rồi thì cái tri kiến họ có còn hay không? Thì ở đây Thầy xin trả lời: Thưa không! Nghĩa là cái tri kiến đó họ hoàn toàn không có. Tại sao vậy? Vì Tri kiến phàm phu đầy dính mắc và uế trược. Nghĩa là cáitri kiến đó đây góp nhặt, đầy kiến chấp, tà kiến, học cái gì mà thấy khá hay thì họ dính vô đó rồi, họ cho đó là cái hay chứ họ chưa biết cái đó là tà kiến, cái đó là đúng cái đó là sai nữa. Họ thấy hay, họ nghe cái câu kinh đó hay thì họ chấp nhận cái câu đó hay. Họ nghe cái lời của một cổ nhân nào nói hay là họ chấp nhận ngay chứ họ chưa biết cái đó là tà kiến hay chánh kiến, họ chưa biết đâu. Cho nên cái người tu hành giải thoát theo đạo Phật xong rồi họ không có tri kiến đó nữa. Thì họ có cái gì mà họ dùng trong những cuộc sống của họ hàng ngày họ đang sống? Đến đây Thầy sẽ trả lời để cho quý thầy thấy.
Vì tri kiến phàm phu đầy dính mắc, cái tri kiến, cái sự hiểu biết đó nó đụng cái gì nó dính cái nấy và uế trược, nó rất uế trược.Vậy một người tu đã thành tựu viên mãn có phải họ sống với Trí Tuệ hay không? Thưa không! Nghĩa là họ cũng không sống với Trí Tuệ. Cái Trí Tuệ mà siêu việt họ cũng không có sống đâu. Họ không có sống với cái Trí Tuệ đó. Khi họ sử dụng thì họ lấy họ dùng, mà không thì họ hoàn toàn không sống với Trí Tuệ đó. Đừng nghĩ rằng khi một người tu chứng họ luôn luôn sống với Trí Tuệ. Không. Họ sống với cái gì đây? Vậy thì như thế nào? Nghĩa là họ phải sống như thế nào đây? Hàng ngày họ đang sống với Tri kiến Giải thoát. Bởi vì quý thầy thấy cái tri kiến nó dính mắc, mà Tri kiến Giải thoát nó đâu có dính mắc. Bởi vì tri kiến họ cũng y như cái đầu của chúng ta suynghĩ sao thì họ cũng suy nghĩ vậy, họ không khác chúng ta nhưng mà mọi vật đến với họ họ không bị dính mắc, họ không bị ô nhiễm từng miếng ăn, không ai gạt họ mà đem đút miệng họ được.
Ví dụ như bây giờ Thầy sống với Tri kiến Giải thoát mà một người làm cho Thầy một cái ly nước chanh để đây cho Thầy thấm cổ để Thầy thuyết giảng, mà khi Thầy tưởng là nước trong Thầy nếm thử, Thầy biết rằng không phải, đây là nước chanh có đường, đây là cái sự cám dỗ cho nên hoàn toàn khô cổ là khô cổ, nhất định là không uống. Đó là không thể cám dỗ cái Tri kiến Giải thoát của Thầy được. Bởi vì cái tri kiến Thầy biết rõ đây là cái nước có đường mà, thì đâu cám dỗ Thầy được. Mà cái người bị tri kiến, đang sống trong tri kiến thì thấy cái ly nước này thấm cổ mà nghe thông nói cho nó suôn thì thích rồi, ngay cái chỗ ngọt đã đã là cám dỗ vị ta rồi. Còn cái tri kiến Giải thoát là không cám dỗ được cho nên Thầy vẫn sống trong tri kiến mà Tri kiến Giải thoát chứ không phải tri kiến. Chúng ta phân biệt như vậy!
Cho nên trong Kinh thường chúng ta thường thấy Giới hương, Định hương, Giữ Huệ hương, Giải thoát, Giải thoát Tri kiến hương, có năm loại hương, thì cái người tu sĩ xong viên mãn rồi thì người ta sống ở trong Tri kiến Giải thoát chứ người ta không phải sống ở trong cái Trí tuệ siêu việt đó đâu. Khi sử dụng thì người ta sử dụng, mà khi không sử dụng thì người ta đâu cần sử dụng nó, người ta chỉ cần sống với Tri kiến Giải thoát.
Đó thì quý thầy hôm nay mới thấy rõ được cái chỗ, cái bài mà hàng ngày quý thầy tụng kinh niệm Phật đó, bắt đầu cầm ba cây hương lên mà niệm hương thì ngay đó đã nói lên cái chỗ nào sống của quý vị. Cho nên cái Tri kiến Giải thoát là cái hương cuối cùng mà quý vị dâng lên. Chúng tôi hãy sống hàng ngày cái chỗ này nè! Để làm cho tâm chúng tôi thanh tịnh không bị uế nhiễm của những đối tượng phàm phu vật chất. Đó là cái chỗ tu hành của một cái vị mà đã viên mãn. Họ không bị ai lường gạt họ được. Cho nên nó có một cái giải thoát kèm bên cái Tri kiến đó. Còn cái tri kiến kia là cái Tri kiến mà thích tụ, kết tập nó không Giải thoát đâu mà nó dính mắc, cho nên ở đây Thầy giảng như vậy quý thầy chắc thấy rõ ràng không còn mờ mịt gì nữa hết. Bởi vậy khi một người tu hành xong luôn luôn họ sống đúng Giới Hạnh, còn gọi là Giới hương, họ sống đúng Giới Đức còn gọi là Định hương, nghĩa là họ sống… Cái hương tức là thơm chứ gì? Các con hiểu không?
Cho nên mình niệm hương, mình thắp cây hương lên mình nói chứ không phải đâu! Nghĩa là mình sống đúng Giới hạnh gọi là Giới hương. Mình sống đúng Giới Đức thì gọi là Định hương. Bởi vì Giới Đức nó thuộc về Định cho nên gọi là Định hương. Mình sống đúng Giới Tuệ thì gọi là Tuệ hương. Phải không? Họ sống đúng với Tri kiến mà mọi người đang sống, đang biết không lầm lẫn, còn gọi Tri kiến hương, nghĩa là sống đúng với chánh pháp của Phật dạy, với sự hiểu biết đúng chánh kiến chánh pháp của Phật thì cái đó mới được gọi là Tri kiến hương. Còn mình sống không đúng với chánh pháp của Phật dạy, không sống đúng với Giới luật của Phật dạy cái Tri kiến đó, nghĩa là mình chưa thành tựu cái gì hết nhưng mình sống không có đúng, mình sống ngoài những cái tri kiến của Phật dạy, những lời của Phật dạy trong Kinh mà mình sống không đúng thì cái đó không được gọi là Tri kiến hương. Còn mình sống đúng tri kiến mà đúng lời Phật dạy, không để tâm mình lầm lạc, không để cho mình lỗi lầm những cái phạm giới thì cái người đó được gọi là Tri kiến hương. Họ sống đúng với Tri kiến Giải thoát nên còn gọi là Tri kiến Giải thoát hương. Đó thì Thầy phân ra cho chúng ta thấy cái mùi thơm của các loại Trí Tuệ của chúng ta, các loại sống của chúng ta ở trong Giới luật, đó là những mùi thơm của Giới luật đó. Cho nên cái Giới luật đầu tiên là Giới Hạnh thì gọi là Giới hương. Cái Giới luật thứ hai là Giới Đức thì gọi là Định hương. Cái Giới luật thứ ba tức là Giới Tuệ thứ ba gọi là Tuệ hương. Cái Tri kiến mà chúng ta từng sống ở trong những lời Phật dạy gọi là tri kiến hương. Còn cái tri kiến hằng ngày mà các bậc viên mãn mà sống đó thì gọi là Tri kiến Giải thoát hương.
Thấy như vậy chúng ta mới rõ được, cái hương là cái mùi thơm mà, cái mùi thơm tức là cái mà làm cho ai quý mến, cũng trọng hết. Còn nếu mà cái mùi thúi thì có ai quý trọng không? Đâu có quý trọng, cho nên hương không có nghĩa là cây nhang, hương không có nghĩa là cái bột nhang mà đốt lên có khói đó đâu. Hương đây là cái mùi thơm của Giới Đức, của Giới Tuệ, của Giới Hạnh, của Tri kiến, của Tri kiến đúng đó, chứ Tri kiến sai thì cũng không được, của Tri kiến Giải thoát. Đó là những hương thơm của những loại Giới luật này.
Đối với Tam Vô Lậu học…
… cái tri kiến của chúng ta không được gọi là tên Tuệ Vô Lậu đâu! Trong 13 Giới Tuệ này, Giới Tuệ thứ nhất dẫn tâm đến Chánh trí và Chánh kiến. Đây, quý vị mới nghe cái chỗ này, nếu mà cái người tu tập Giới Tuệ thứ nhất thì từ đó chúng ta mới có được Chánh Tri kiến. Chánh Tri kiến này tức là Tri kiến hương đó thì chúng ta phải đạt tới cái Trí Tuệ, cái Giới Đức, cái Giới Tuệ. Đầu tiên cái Giới Tuệ thứ nhất lúc bây giờ chúng ta mới dẫn tâm nó để chúng ta đạt được Tri kiến đó chứ không phải cái Tri kiến tầm thường như Tri kiến của thế gian, cái Tri kiến kết tập, cái Tri kiến tích tụ, tích trữ lại những cái hiểu biết của người khác thì tri kiến đó là Tri kiến phàm phu. Còn cái tri kiến ở đây là cái tri kiến mà chúng ta phải có sự tu tập trau dồi nó cho đến khi mà trong cái Tuệ Vô lậu nó đạt được cái Giới Tuệ đầu tiên thì cái tri kiến đó mới được gọi là Tri kiến hương.
Giải thích cho rõ như vậy thì chúng ta mới biết được cái tri kiến của chúng ta ở chỗ nào. Hồi nãy Thầy chỉ nói cái tri kiến đó phải thông hiểu cái lý của Phật pháp mà không được chấp cái kiến nào hết, nhưng ở đây thì Thầy dạy thêm để chúng ta thấy rằng khi chúng ta muốn đạt được cái Tri kiến hương này thì để thông suốt được cái lý của Phật pháp thì cái người đó phải nằm ở trong cái Tuệ Vô lậu thứ nhất của Giới Tuệ của nó. Trong 13 Giới Tuệ này Giới Tuệ thứ nhất “dẫn tâm đến chánh trí và chánh kiến”, tức là Tri kiến mà hàng ngày người tu hành viên mãn.
Ở đây cái chỗ này Thầy hơi giảng lầm chút. Khi mà cái người đó mới tu học thì phải huân. Thầy xin lỗi phần này đính chính lại chỗ này để cho quý thầy hiểu rõ hơn.Khi cái người mới tu học mà theo đạo Phật thì chúng ta phải huân học, phải hiểu biết cái Phật pháp, cái nào đúng, cái nào sai, từ đó chúng ta mới thấy con đường của Phật pháp nhưng cái hiểu biết đó là đúng, là chân lý, là sự thật, nói thân là khổ, là vô thường thì nó là sự thật, nó không còn sai nữa. Nói là khổ là con người sinh ra là khổ thì đó là một chân lý không thể thay đổi được, nói là cái nguyên nhân mà sinh ra đau khổ thì cũng không thể thay đổi được, mà nói một cái cảnh giới Niết bàn thì đó là một trạng thái tâm hồn chúng ta hết khổ. Mà nói đến tám nẻo đưa đi đến cái chỗ giải thoát thì chúng ta thấy đó hoàn toàn là một chân lý không thể nào có ai thay đổi tám nẻo giải thoát này được. Cho nên cái hiểu biết như vậy, tích trữ cái hiểu biết đúng đắn như vậy đó gọi là Tri kiến.Còn đến khi mà chúng ta tu tập đến cái Tuệ Vô lậu thì cái Tuệ Vô lậu thứ nhất thì cái đó được gọi là Tri kiến Giải thoátchứ không phải là cái tri kiến mà mới có học hiểu biết rõ của cái chánh kiến của đạo Phật mà thôi.Cái kia còn gọi là Tri kiến, mà Tri kiến đó thì nó mới chỉ hiểu biết Phật pháp, nó mới ngộ được cái lý của Phật pháp chứ chưa chứng được cái lý của Phật pháp. Còn người tu đến cái Giới Tuệ thứ nhất ở trong cái Tuệ Vô lậu thì cái hiểu biết cái tri kiến đó được gọi là Tri kiến Giải thoát. Cái đó là cái tuệ thứ nhất mới được gọi là tri kiến Giải thoát. Cho nên người tu họ không sống ở trong tất cả các Tuệ Vô lậu mà họ chỉ sống ở Giới Tuệ thứ nhấtlà Tri kiến Giải thoát.Cho nên cái Tri kiến Giải thoát ở đây nó được gọi là cái Giới Tuệ thứ nhất ở trong Tuệ Vô lậu. Thì quý thầy hiểu cho rõ như vậy. Hồi nãy Thầy giảng hơi lầm lạc, Thầy xin lỗi chỗ đó để sửa lại cho nó đúng cái nghĩa của nó để chúng ta hiểu cho nó rõ hơn.
Cho nên hằng ngày người tu hành viên mãn thường sử dụng cái Tri kiến Giải thoát chứ không sử dụng tri kiến như kẻ phàm phu. Cho nên Tri kiến Giải thoát được nằm trong Giới tuệ, được gọi là tuệ Vô lậu, nó cũng được gọi là tuệ Vô lậu nhưng nó là cái Giới Tuệ thứ nhất ở trong 13 cái Giới Tuệ chứ không phải là cái Tuệ cuối cùng. Thường thường cái người tu hành viên mãn thì họ sống ở trong cái Giới Tuệ thứ nhất, họ sử dụng cái Giới Tuệ thứ nhất cho nên cái Giới Tuệ đó để đưa cho họ có một cuộc sống không bị dính mắc, không bị đau khổ, không bị phiềntoái nữa, ai làm gì thì họ trơ trơ, họ vẫn thanh thản, an nhiên mà không động tâm chút nào, không dao động tâm mình. Tức là cái Tri kiến Giải thoát đó hay là Giới Tuệ thứ nhất của trong 13 Giới Tuệ.
Con đường tu hành theo đạo Phật đến đây đầy đủ Giới – Định – Tuệ, tức là viên mãn trên đường đi.
Còn Niết bàn là gì? Ở đây chúng tôi không trả lời câu hỏi này.
Xin tóm lại buổi học hôm nay chúng ta đã viên mãn Giới luật của Phật, hay nói một cách khác chúng ta đã hoàn thành được Thiện pháp của đạo Phật, và cuối cùng xin quý thầy nên lưu ý chúng ta chỉ biết sau đời hiện tại của chúng ta đang sống ở đây không còn có một đời sống nào khác nữa. Nghĩa là chúng ta đến đây thì người ta hỏi chúng ta còn cái Niết bàn là gì? Nghĩa là chúng ta đến đây chúng ta đã viên mãn được Giới – Định – Tuệ như vậy tức là từ Giới Hạnh, rồi Giới Đức, rồi Giới Tuệ. Chúng ta hoàn thành được những cái Giới luật này rồi thì có người hỏi khi mà hoàn thành được các Giới luật này rồi, Giới – Định – Tuệ này viên mãn rồi thì cái Niết bàn nó là gì? Có người hỏi chúng ta cái Niết bàn là gì? Thì ở đây chúng ta không có trả lời cái câu hỏi mà hỏi như vậy, là cái Niết bàn là gì thì chúng tôi không có trả lời. Nhưng khi mà giảng về Tứ Diệu Đế thì nói về Niết bàn thì chúng tôi sẽ giảng cái Niết bàn. Còn ở đây mà hỏi cái chỗ này thì nó không phải là cái chỗ hỏi Niết bàn của chúng tôi. Vì chúng tôi đã hoàn thành được Giới – Định – Tuệ mà nếu chúng tôi còn nói cái Niết bàn thì đó là chúng tôi còn mộng, còn chấp kiến, còn chấp cái Niết bàn. Cho nên ở đây chúng tôi không nói Niết bàn mà chúng tôi chỉ nó như thế nào cho đúng. Chúng tôi sẽ trả lờiSau đời hiện tại của chúng tôi đang sống đây không còn có một đời sống nào khác nữa. Nghĩa là bây giờ chúng tôi đang sống đây là chúng tôi còn cái đời này thôi, chứ khi mà chúng tôi bỏ cái thân này rồi thì chúng tôi không còn cái đời nào nữa, tái sanh ra trong cuộc đời này nữa, chứ chúng tôi không biết Niết bàn nữa.
Mà những người nào tới đây mà còn nói cái Niết bàn như thế này thế này, thì cái người mới học Tứ Diệu Đế, mới ngộ cái lý Tứ Diệu Đế chứ chưa phải là cái người đó đã chứng đạt Tứ Diệu Đế. Quý thầy phải hiểu cái chỗ đạo Phật như vậy đó, cho nên khi một người mà tới rồi mà còn nói rằng bốn đức Thường – Lạc – Ngã – Tịnh trong đó thì người đó chưa tới. Cũng như cái người mà tới rồi họ nói tui chứng quả A-la-hán thì người đó chưa chứng quả A-la-hán đâu. Bởi vì mình còn thấy chứng quả A-la-hán thì tức là mình mới ngộ thôi chứ chưa chứng đâu. Mà mình tới đó rồi thì mình không thấy mình chứng nữa. Thì tức là mình chỉ biết nó như thế nào? Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống đây không còn có một đời sống nào khác nữa hết. Nghĩa là tôi không có còn sanh thêm sanh chỗ nào nữa hết, hoàn toàn là tui không còn cái chỗ nào mà tui sống nữa hết. Rồi mấy người muốn nghĩ như thế nào đó nghĩ, muốn nghĩ nó Niết bàn hay muốn nghĩ gì tự mấy người chứ tui không biết, tui tới đó là tui hết rồi.
Đó thì quý thầy thấy cái chỗ Phật pháp vi diệu, hễ mở ra một cái hiểu biết gì sai là nó đã lệch con đường của đạo Phật rồi. Nói mình có chứng là không chứng rồi đó, là mình mới ngộ chứ chưa chứng đâu. Mà nói mình như thế này thế khác là cái người đó chưa có đâu. Ở đây rất là vi tế cái chỗ này cho nên Thầy mới khi mà viên mãn cái về ba cái Giới này, vạch ra một con đường đi cho đến cuối cùng tới hôm nay thì quý thầy thấy rất rõ là tới cuối cùng không nói gì khác hơn là còn một câu nói:Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống không còn có đời sống nào khác nữa!
Quý thầy hiểu cái chỗ đó sao đó hiểu. Nếu mà tui nói còn có cái gì đó thì tui chấp ngã tui rồi. Tui chấp cái ngã tui rồi cho nên nó có cảnh giới tui sống, còn nếu mà tui không có cái ngã của tui thì tui không có cái gì mà tui sống nữa hết. Cho nên nó còn hay mất thì quý vị muốn hiểu sao có hiểu được cũng hiểu, tui không cần nói cái điều đó nữa. Nghĩa là tới đó là tui giải thoát là tui giải thoát.
Bây giờ chúng ta tiếp tục học về Giới Bổn Patimokka.
Để thông suốt oai nghi tế hạnh của người tu sĩ, vì trong Giới hạnh chưa nói đủ ta phải tiếp tục học thêm cho được đầy đủ hơn. Nghĩa là trong cái Giới hạnh mà chúng ta vừa học 25 Giới đó, nó chỉ nói đơn giản thôi chứ nó chưa có nói đến những caí hành động hàng ngày của chúng ta. Vì vậy mà cái Giới bổn Patimokka này nó nói tất cả những cái hành động của chúng ta để mà chúng ta không có lầm lạc, để mà thực hiện những cái Giới hạnh đó để cho oai nghi tế hạnh của người tu sĩ phải được đầy đủ, phải được trọn vẹn cái hành động của nó phải như thế nào để mà chinh phục mọi người, người ta thấy được cái đức hạnh của một người tu sĩ nó không phải tầm thường. Vì Giới hạnh nó phải học rất nhiều mới có thể thâm nhập được cái oai nghi tế hạnh của nó. Bởi vậy cho nên chúng ta phải tiếp tục lại 25 Giới hạnh, là chúng ta phải học cái Giới luật Patimokka. Cái Giới luật này nó mới có thể đầy đủ và cái Giới luật này nó cũng rất nhiều chớ không phải ít. Do vì vậy trước khi mà giáo cái Giới luật Patimokka này nó phải có một cái lời nói rất là dài và đồng thời Thầy có bổ túc thêm những cái bài để mà chúng ta chuyển qua cái Giới luật Patimokka này.
Để bổ túc thêm phần giáo án về Giới luật Patimokka cho rõ nét (BBT:CĐ,22A,E00:45:22), ở đâyThầy nhấn mạnhGiáo pháp của đức Phật dạy người không có tranh luận với một ai ở đời.Vì thế mà ác tưởng sẽ không ám ảnh. Do thế người ấy sống không bị Dục, triền phược, không có nghi ngờ,(BBT:CĐ,22B,B00:00:20) do dự với mọi hối quá, đoạndiệt, không có tham ái đối với Hữu và Phi hữu. Ở đây quý thầy phải hiểu khi mà bước sang qua cái Giới bổn Patimokka này thì chúng ta sẽ thấy tràn trề sự sai lạc của cái người khác rất nhiều. Nghĩa là học xong cái Giới bổn này rồi thì chúng ta nhìn cái giới tu sĩ cũng như nhìn cái giới mà cư sĩ hiện giờ là đệ tử của Phật hầu như là cái danh từ là đệ tử của Phật chứ hầu như là những cái người đó đều là hành ngoại đạo hết. Cho nên vì vậy mà thầy phải phòng ngừa trước khi mà bước đầu qua học cái Giới luật Patimokka thì chúng ta phải chuẩn bị cho tinh thần chúng ta vững vàng để không khéo thì chúng ta toàn là thấy là ma quái không đó, chứ không phải là Phật  đâu. Với một người mà người ta thông suốt được cái Giới luật rồi thì người ta nhìn cái giới tu sĩ và nhìn cái giới cư sĩ hiện giờ người ta thấy toàn là thứ phá đạo, toàn là thứ phá Phật pháp. Cho nên chúng ta không nói ra, không có chống báng ai là vì vậy, cho nên ở đây Phật nói chúng ta khi mà học xong rồi thì không có một cái tâm tham ái. Tham ái tức là thấy những cái sai cái không đúng của họ đó đối với Hữu, đối với cái Có và cái Không chúng ta xem thường hết. Chúng ta đừng thấy cái tâm của chúng ta nó quá như thế này hay như thế khác rồi chúng ta sanh ra nhưng cái bỉ thử ở trong đó rồi vì vậy mà chúng ta có tranh luận, rồi có những cái sự không hay cho cái đời tu hành của chúng ta.
Vì vậy mà rồi từ ở trong cái ác tưởng của chúng ta, cái tưởng của chúng ta nó khởi lên những cái ác kiến đối với những người đó làm cho chúng ta có những sự ám ảnh không tốt đối với Phật pháp cũng như không tốt đối với bản thân của những người đó. Họ sống như thế nào để nhân quả thì họ phải lãnh đủ những cái nhân quả đó. Còn riêng chúng ta thì hãy câm miệng lại, không nói ra một lời nào hết. Biết Pháp luật rất rõ ràng, biết Giới luật rất rõ ràng nhưng không động chạm đến một người nào, không nói người nào sai không nói người nào đúng mà chỉ giữ mình để thực hiện cho đúng những cái lời Phật dạy mà thôi. Mình cứu mình chứ không thể cứu ai được trong cái lúc này hết. Chừng nào mình cứumình được thì chừng đó mình mới cứu người ta được. Mình đã ra khỏi được cái con đường của thế tục thì mình mới có mong mình cứu người còn đang ở trong thế tục. Còn mình đang ở trong thế tục mà mình cứu người thế tục thì không cứu được đâu, và đồng thời đôi khi mình lại chết chung với họ ở trong thế tục. Cho nên những cái hạnh Bồ Tát mà gọi là sống trong thế tục để độ người thế tục thì coi chừng Bồ Tát cũng chết luôn với những người thế tục mà không độ ai được hết.
“Giáo pháp của ta ví như một cái bánh mật”.Đức Phật nói giáo pháp của đức Phật như một cái bánh ngọt, cái bánh mật, chớ không phải là một cái bánh cay đắng đâu! Cho nên đến Giới luật thì người ta thấy cay đắng lắm. Sống mà như thế này các thầy cứ nghĩ “ba y một bát” có cay đắng không? Đi xin ăn người ta không cho, ngày nay không cho ngày mai không có thì quý vị thấy như thế nào? Phải ăn lá cây rừng mà sống rồi. Mà ăn lá cây rừng quý vị chưa từng tập thì quý vị có thấy xót ruột không? Chưa chắc là đã không mệt mỏi khổ sở. Thế mà đức Phật nói “giáo pháp của ta là bánh mật”. Bánh mật là thứ bánh ngon chứ đâu phải bánh dở. Thế mà bước đầu và mà gặp tới cái Giới luật, cái Giới bổn Patimokka này thì nó không phải là bánh mật thật đâu. Mà chính nó là bánh mật nếu mà chúng ta thực hiện đúng. Nếu mà chúng ta thực hiện không đúng thì nó là những bãi chông gai, nó là những cái chỗ nguy hiểm nhất, nó là những cái chỗ mà chúng ta không thể sống nổi.
Khi đến đây Thầy cảnh giác nhữngcái điều này mà trước khi dạy nó thì Thầy phải cánh giác rất lớn đối với quý thầy, để khi quý thầy được học đến nó thì quý thầy mới thấy được cái cái chỗ nào gọi là bánh mật mà cái chỗ nào không gọi là bánh mật. Vì thế mà cái người dạy Giới ở trong cuộc đời bây giờ thì họ… Cho nên đức Phật mới dạy chúng ta và cảnh giác chúng ta ở chỗ này để chúng ta chuẩn bị cho cái Giới bổn này, sau khi chúng ta học thì chúng ta mới biết nó là cái bánh mật như thế nào. Chớ nó không phải là đơn giản.
“Giáo pháp của ta ví như một cái bánh mật đối với cái người đang đói lả và mỏi mệt. Cứ mỗi một miếng vị ấy nếm được vị ngọt thuần nhất. Cứ mỗi một miếng vị ấy thưởng thức càng lúc càng thích thú hơn, càng thấy người khỏe hơn, khinh an hơn”.
Đó, nếu mà chúng ta tu đúng, chúng ta biết được cái Giới bổn này đúng thì mỗi một cái Giới mà chúng ta thực hiện thì giống như một người đang đói, đói lả người, mệt mỏi mà cứ mỗi một miếng ăn vô thì coi như một cái Giới luật mà chúng ta đã thực hiện vô thì mỗi cái miếng đó chúng ta thấy được vị ngọt thuần nhất của nó ở trong đời sống của chúng ta. Đời sống đang lúc chúng ta mệt mỏi đói khát đó mỗi một miếng nữa thì chúng ta thưởng thức mà càng thích thú hơn và càng thấy khỏe hơn, và khinh an hơn. Đức Phật ví dụ cái Giới bổn nó như vậy đó.
Đó là không phải là nói về Thiền định mà khinh an đâu,mà đây là muốn nói rằng cái Giới luật mỗi cái Giới luật mà chúng ta chấp hành nghiêm chỉnh nó đem đến chúng ta cũng như cái bánh ngọt mà chúng ta cầm mỗi miếng chúng ta ăn trong lúc chúng ta là người đang đói đang mệt đó mà chúng ta ăn thì chúng ta thấy nó ngọt mà nó khỏe lắm, nó ngon lắm, nó thích lắm, nó làm cho cơ thể chúng ta càng ngày càng thấy cái sự sống, nguồn sống nó dồi dào lên. Còn nếu mà sai thì các thầy thấy ngán quá, ớn quá, sợ quá. Đây đi xin ăn chắc không có ai cho chắc chết, bây giờ không có làm sao, coi chừng công an nó bắt bỏ tù nữa, nó nói mình gian lận, làm biếng, nó làm thế này thế khác. Từ cái tư tưởng đó, suy nghĩ đó thì ngay đó là mình đã thấy hoảng hồi rồi chứ chưa nói chi mà tới ôm bình bát đi xin nữa. Không biết đi xin mới đây đi ôm bình bát xấu hổ quá! Trời ơi thời giờ mình không có đi xin. Kiểu này không ai ngó tới đi mắc cỡ chết. Cái tư tưởng đó vẫn có mà.
Lúc Thầy mới bắt đầu đi khất thực Thầy cũng vậy. Đi ra đường ôm bình bát đi mà con mắt nhắm chứ không dám mở, mở sợ thấy người ta cười mình. Trời ơi mình vậy mà đi xin. Từ nào tới giờ mình đi dạy học hoặc đi làm ai cũng biết mặt hết. Trời, đi ra đường vậy, nhất là Thầy ở thành phố mà Thầy đi xin ở mấy cái chỗ chợ thành phố mà bên chùa Giác Ngộ nữa thì các thầy nghĩ sao? Bao nhiêu Phật tử quen mình quá rồi. Hồi nào tới giờ họ kêu mình thầy mà giờ ôm cái bình bát đi xin. Mà chính cái chỗ đó họ lại còn kính trọng Thầy hơn nữa chứ! Mà khi mình đi thì mình ngại ngùng vô cùng lận! Từ hồi tới giờ ai có làm này. Kỳ vậy! Đó là những cái bắt đầu của Thầy, mà Thầy đi có một mình chứ phải đi có người nào hướng dẫn thì cũng đỡ đi. Đằng này tự mình à! Rồi mình nghĩ cách thức rồi bắt chước theo mấy ông khất sĩ, thôi mình cũng làm đùa. Trong kinh thì đâu có dạy kỹ cái vấn đề nà,y bởi vì kinh Đại Thừa nó đâu có nói về chuyện khất thực đâu mà đi dạy. Đâu có phải như bên Nguyên Thủy kia nó dạy rất kỹ còn bên đây nó đâu có dạy chuyện này. Cho nên học Đại Thừa rồi đi ra khất thực ngơ ngáo chẳng biết gì hết. Thầy mới hỏi thăm thầy Thiện Huệ là hồi ông còn nhỏ ông đi với thầy của ổng, cũng đi khất thực cũng ở thành phố ở chùa Giác ngộ cũng đi khất thực. Thầy mới hỏi ông về khất thực sao, ông nói thì mình cứ ông bình bát vậy mình cứ nhắm mắt mình ngó xuống đất mình đi đi. Rồi họ cho mình chứ cái gì! Thầy nghe vậy thôi, Thầy cũng ôm bình bát Thầy cũng đi vậy thôi, mà hồi đó Thầy đâu có bình bát. Các con biết không? Thầy phải đi mua cái ô mà người ta để trầu cau đó nó tròn tròn bằng nhôm đó, Thầy mới may cái túi Thầy mới bỏ trong đó Thầy ôm vậy Thầy đi. Trời đất ơi! Người ta biết, hồi đó nó dễ chứ bây giờ mà kiểu này mà bưng cái kiểu đó mà nó thấy không có giống cái bình bát là nó ra nó chốt liền đó. Chứ phải dễ đâu! Còn hồi đó nó dễ lắm! Hồi cái chế độ trước nó dễ lắm! Bởi vậy Thầy ôm bình bát đi Thầy xin như thường mà Thầy cũng chả biết xin nhiều ít như thế nào nữa, chỉ biết đi xin thôi! Nhưng mà không ngờ khi mà Thầy vào đến đầu chợ cái họ biết Thầy ở chùa Giác Ngộ lâu rồi. Họ để cho Thầy đi mà họ không có cho. Trời mắc cỡ gần chết, không có cái gì hết, nhưng mà Thầy đi suốt hết cái đường chợ vậy mà tới cuối hết cái chợ thì họ gồm họ để một đống họ kêu xe xích lô chở về chùa Thầy. Thầy đâu có hay. Bởi vì họ thấy cái bình bát Thầy thì nhỏ, mà Thầy đi như vậy thì bỏ được có bao nhiêu. Cho nên họ nghĩ rằng Thầy đi xin cho cả chùa ăn mà, chớ đâu phải xin cho mình Thầy. Cho nên họ biết Thầy ở chùa đó thì phải xin cho các thầy ăn chung chứ đâu phải có mình Thầy. Cho nên Thầy đi hết cái đường chợ vậy không có cái gì trong bát thầy hết, mà tới cuối chợ Thầy thấy họ chất một đống nào cải nào bánh mỳ, đồ ăn đủ thứ hết, đủ loại đường sữa gì đủ chất một đống. Cái có người Phật tử đứng đó họ nói: Chúng con đã góp nhau hết chúng con để đây xin cúng dường Thầy. Ôi trời ơi! Thầy xin có mình Thầy ăn mà sao cúng dường vậy? Thầy ở chùa Giác Ngộ thì chúng con kêu xe kéo về cho Thầy chứ giờ mọi người cúng dường chứ đâu phải mình con. Thôi kêu xe kéo về chùa. Các con thấy không? Đi xin là như vậy đó! (BBT:CĐ,22B,E00:08:50)Bởi vì Thầy nói khi mới…


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét