BĂNG SỐ 20
(Missing)
(BBT:CĐ,20A,B00:25:42)(BBT:BN,18,B01:10:26)Bây
giờ Thầy bắt đầu tiếp tục cái bài giảng bữa trước.
Trau dồi cái kia, tu tập cái nọ thì quý vị sẽ vứt bỏ những hỷ
lạc ngon ngọt của thế gian thường tình xong thì mới có thể nếm được mùi vị hỷ
lạc xuất thế gian. Bây giờ quý vị mới rõ chớ không phải con đường tu hành theo
đạo Phật khô cằn, khô cỗi như bãi sa mạc toàn là cát và nắng nóng bức khó chịu.
Vì thế có người hỏi Thầy: Nếu tất cả mọi người đều tu theo
đạo Phật thì thế gian này đâu còn có con ngườ?Đó là đứng núi này mà trông
núi khác hoặc là muốn hiểu núi khác thì không thể nào hiểu được. Như con cá ở
dưới nước làm sao biết được sự sống trên đất bằng. Cho nên con người thường
sống hằng tưởng nên thường tưởng sai. Thậm chí ngay trong thân tâm này của họ,
họ còn hiểu không nổi hết huống là họ hiểu cảnh giới của các bậc Thánh Hiền.
Đó thì các thầy muốn mà để hưởng được cái hỷ lạc của các bậc
Thánh Hiền, của bậc xuất gia thì phải dứt bỏ cái hỷ lạc của thế gian. Bởi vì
nếu mà không có dứt bỏ cái hỷ lạc của thế gian thì không thể nào mà hưởng được
cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian được. Bởi vì cái hỷ lạc đó là cái hỷ lạc dục
cho nên phải ly dục, ly ác pháp của thế gian ra, thì cái dục lạc của thế gian
nó không còn có nữa thì cái hỷ lạc của pháp xuất thế gian nó mới có. Vì vậy bây
giờ chúng ta còn ôm ấp cái dục lạc của thế gian, làm sao chúng ta biết được cái
mùi vị của xuất thế gian được. Cho nên hầu hết là quý vị ngồi thiền nhập định
mà có trạng thái hỷ lạc, khinh an, điều đó đều là sai hết. Bởi vì chính mình
chưa có ly được cái dục lạc của thế gian, tâm mình còn dính mắc cái này, cái
kia cái nọ, mặc dù là mình là một vị tu sĩ nhưng mà vẫn còn dính cái chùa chứ
chưa đâu phải là mình là một vị du tăng khất sĩ, ba y một bát, không còn chùa
không còn cái vật gì gọi là của mình hết như vậy mình mới thấy được cái hỷ lạc
của bậc xuất thế. Còn mình chưa có được như vậy mà mình tưởng tượng ra nào là
khinh an, nào là hỷ lạc, nào là thế này thế kia, thì cái đó toàn là thứ dục lạc
chứ không phải hỷ lạc.
Bởi vì tu hành chúng ta phải biết được cái hỷ lạc nào là chơn
chánh, cái hỷ lạc nào mà nó không chơn chánh. Cái hỷ lạc mà đem đến chúng ta
muôn thứ khổ đó là hỷ lạc của dục, còn hỷ lạc mà đem chúng ta yểm ly, xa lánh
tất cả các sự ham muốn, sự lôi cuốn của thế gian, của các pháp thế gian nó làm
cho chúng ta xa lìa được những cái khổ đau đó, thì đó là cái hỷ lạc của pháp
xuất thế gian. Nhưng muốn nếu nếm được mùi vị của nó thì chúng ta phải tách
lìa, xa lìa cái hỷ lạc của thế gian thì chúng ta mới thọ hưởng được cái đó. Còn
nếu mà không xa lìa, không tách lìa thì chắc chắn là chúng ta không có thọ
hưởng được. Cũng như con cá mà muốn biết được ở trên đất bằng sống như thế nào
thì ít ra nó cũng phải lìa khỏi cái sông, cái hồ nước của nó, mà nó lên đất
bằng nó mới biết được. Còn bây giờ nó ở dưới nước mà nó muốn biết được ở trên
đất bằng thì làm sao nó biết được. Cho nên đó là những điều mà chúng ta phải ly
được thì chúng ta mới thấy được.
Vì vậy khi mà chúng ta phải thấy được 2 cái lộ trình mà đức Phật
đã vạch ra thì chúng ta biết điều đó rất là rõ ràng. Nếu mà chúng ta không thấy
được 2 lộ trình này thì chắc chắn khó mà chúng ta có thể đạt được kết quả của
cái sự tu hành theo đạo Phật. Vì cái lộ trình của đạo Phật là xuất thế gian, ly
tất cả các dục, các ác pháp của thế gian, thì chúng ta mới thực hiện được cái
hỷ lạc của pháp xuất thế gian. Đó thì như vậy không có nghĩa là con đường mà đi
tu theo đạo Phật nó khô cằn khô cội, mà cho đến khi không còn có người Không có
thai sanh thì tức là chúng ta phải có hóa sanh, mà hóa sanh là nó phải lìa cái
dục, nó mới hóa sanh được. Còn nếu mà chúng ta chưa lìa dục làm sao chúng ta
hóa sanh được. Cũng như bây giờ chúng ta còn ở trong dục mà chúng ta muốn có
thần thông thì thần thông đó là thần thông gì? Thần thông huyễn hoặc, thần
thông như là một cái trò ảo thuật gạt người ta. Còn cái thần thông thực là
chúng ta phải có một cái sự ly tất cả các dục này thì chúng ta mới sống được
hóa sanh. Hóa sanh thì tức là chúng ta muốn như thế nào ? Như là Tứ như ý
túc, Dục như ý túc là chúng ta muốn như thế nào nó phải thành tựu như thế ấy.
Chúng ta muốn sanh là sanh mà chúng ta không muốn sanh là không sanh. Chớ không
phải là bây giờ chúng ta muốn sanh nó cũng không được, mà chúng ta muốn chết
cũng không được, muốn sống cũng không được. Đó là chúng ta không có quyền. Còn
khi mà cái người mà ly được cái dục lạc thế gian này rồi thì người ta có quyền
sống chết, người ta muốn sanh như thế nào là theo cái ý của người ta muốn, muốn
người lớn là lớn mà nhỏ là nhỏ. Bởi vì khi mà chúng ta lìa khỏi dục lạc thế
gian rồi thì chúng ta có cái sự tự tại như vậy đó.
Cho nên đạo Phật nhắm vào cái chỗ mà chúng ta ly thế gian, ly
các pháp thế gian ra thì chúng ta mới đạt được cái kết quả của cái sự làm chủ.
Mà cái sự làm chủ đó nó không có nghĩa là làm cho hoại diệt, làm cho tiêu diệt
con người ở trên thế gian này. Mà thể hiện con người trên thế gian này càng cao
đẹp, càng tốt đẹp hơn và tâm hồn mỗi con người đều có những cái lòng thiện biết
thương nhau, biết chan hòa với tình thương nhau, chơn thật không biết ganh đua,
không biết tỵ hiềm, không biết tham sân si mạn nghi, không có ngũ triền cái,
không có ngũ kiết sử, không có thất kiết sử ở trong đó. Cho nên toàn là hạnh
phúc của mọi người với nhau. Vì vậy mà chúng ta thấy con đường của đạo Phật là
con đường rất rõ ràng, thực hiện nó một cách là chúng ta lìa xa khỏi cuộc đời
ham muốn của thế gian là chúng ta đã đạt được đạo Phật chớ đâu có gì khác hơn.
Như trước kia Thầy đã dạy 25 giới hành thuộc về thân hành, còn
13 giới đức thuộc về tâm hành.
Trạng thái tâm hành là gì? Trạng thái tâm hành là thiền định cho
nên thân thuộc về giới hành (à, giới hành hay là giới hạnh) còn tâm thuộc về
giới định.Vậy 13 giới đức tức là 13 định trong giới luật của đạo Phật, cho
nên có chỗ Phật gọi là giới tâm tuệ. Nghĩa là thay vì Phật gọi Tam vô lậu học
đó, Phật gọi Giới - Định -Tuệ, thì có chỗ Phật lại gọi là Giới – Tâm - Tuệ. Cho
nên tâm tức là giới đức của chúng ta, vì vậy mà chúng ta hiểu rõ được cái con
đường đi của chúng ta chia làm ba cái giới rất rõ. Mà ba giới rất rõ này nó chỉ
cho chúng ta nằm ở trong cái vị trí của tam vô lậu học Giới - Định -Tuệ.
Vậy thì giới hạnh tức là giới bổn Pātimokkha, mà giới đức tức là
định, mà giới tuệ là huệ. Đó là những điều mà hôm nay quý thầy mới thấy rõ được
điều kiện của đạo Phật Giới – Định – Tuệ hoàn toàn thuộc về giới, chớ không có
gì khác hơn hết. Nhưng mà vì vị trí của giới nào nó ở vị trí nấy, nó có cái
phận sự ở đó, nó làm cho tâm, làm cho hành động của chúng ta thanh tịnh, làm
cho tâm chúng ta thanh tịnh, làm cho trí tuệ chúng ta thanh tịnh thì gọi là
Giới. Cho nên lúc đầu Thầy có giới thiệu đó:
Giới làm cho trí tuệ thanh tịnh mà trí tuệ làm cho giới thanh
tịnh.
Các thầy nhớ cái chỗ đó, vì ở đâu có trí tuệ thì ở đó
có giới luật, mà ở đâu có giới luật thì ở đó có trí tuệ. Cho nên cái
trí tuệ của giới hạnh, nếu mà chúng ta có trí ở trong cái giới hạnh thì cái
hành động hằng ngày của chúng ta nó phải thanh tịnh. Mà cái hành động được
thanh tịnh như vậy thì ở đó phải có trí tuệ.
Cũng như giới đức: Ở đâu mà có tâm thanh tịnh thì ở đó nó sẽ có
trí tuệ, mà có trí tuệ ở đó thì phải có giới đức ở đó.
Cũng vậy, cái giới tuệ nó cũng vậy: Ở đâu có trí tuệ thì ở đó có
giới tuệ, mà ở đâu có giới tuệ thì phải có trí tuệ.
Đó thì đến đây thì quý thầy đã thấy rõ được cái con đường đi của
Phật toàn là những pháp thiện, cho nên gọi là sơ thiện là giới hạnh, mà trung
thiện là giới đức, mà hậu thiện là giới tuệ, rất là rõ ràng. Bởi vì đạo Phật là
đạo thiện pháp, cho nên tất cả đều nằm ở trong giới, mà giới tức là thiện pháp
chớ không phải là một pháp môn nào xa lạ. Nhưng muốn thực hiện được những điều
đó thì chúng ta có những 37 phẩm trợ đạo để mà chúng ta thực hiện con đường tu,
để thành tựu được cái con đường thiện pháp này, con đường thiện pháp này tức là
Giới – Định – Tuệ.
Vì vậy ở đây quý thầy phải hiểu giới tâm tức là thiền định, mà
thiền định là một cảnh giới thực tại có sự an lạc, tuyệt tĩnh trong cảnh giới
đó, không phải không có. Quý thầy hiểu, bởi vì cái thiền định nó có những cái
hỷ lạc của nó. Cho nên, Phật có so sánh 2 cái hỷ lạc, hỷ lạc của dục thế gian,
chúng ta ăn miếng ngon chúng ta biết ngon, đó là dục lạc của hỷ lạc thế gian.
Có một sự êm ấm làm chúng ta thích thú, đó là cái dục lạc của thế gian. Còn ở
đây chúng ta ly cái đó ra, cho nên chúng ta đạt được cái sức thiền định thì nó
có cái hỷ lạc tuyệt đỉnh hơn là cái dục lạc của thế gian. Nó làm cho chúng ta
thấy có một cảnh giới rất là tuyệt diệu ở trong đó.
Vì vậy ở đây quý thầy phải hiểu giới tâm tức là thiền định, mà
thiền định là một cảnh giới thực tại có hiện chớ không phải là không có hiện. Nơi
trong trạng thái tâm hồn chúng ta chứ đâu. Chớ không phải là cảnh giới nào ở xa
xôi đâu, nó ở trong cái tâm trạng chúng ta ở đây. Chỉ chúng ta ly dục là chúng
ta sẽ có nó liền. Mà chúng ta không ly dục là chúng ta không có nó mà thôi.
Thực tại có sự an lạc tuyệt đỉnh trong cảnh giới đó, không phải không có. Đức
Phật đã xác định điều này rất là rõ ràng qua bài so sánh bốn hỷ lạc thế gian
của phàm phu và bốn hỷ lạc của xuất thế gian của bậc Thánh.
Tiếc rằng, kẻ phàm phu tu hành chưa tới nơi tới chốn, cứ tưởng
tượng ra hỷ lạc thế này thế kia làm sai con đường tu hành theo đạo Phật. Làm
cho Phật Pháp gần như mất gốc, người tu thời nay hết biết đường tu. Tu tầm bậy,
tầm bạ, đời đạo lẫn lộn. Đạo Phật mà bây giờ lại giống như các tôn giáo khác
trên thế gian này, thật rất đau lòng! Kinh sách nguyên gốc của đức Phật còn đó,
mà người hiểu theo tâm dục lạc thế gian của mình nên thành sai lệch, quá sai.
Đó thì lấy cái tâm dục lạc của mình hiểu qua kinh của Phật thì
làm sao hiểu cho nổi. Ít ra mình phải hiểu được cái kinh sách của Phật là cái
tâm của mình phải ly dục lạc của thế gian mà thọ hưởng cái dục lạc của pháp
xuất thế gian thì chừng đó mình hiểu từng chữ, từng nghĩa rất rõ ràng không
sai. Mà bây giờ nhìn lại, ai là người mà đã ly được dục lạc thế gian, mà đã thọ
hưởng được dục lạc pháp xuất thế gian? Mà để nhìn lại kinh sách để dẫn chúng ta
đi con đường này? Tức là phải là những bậc A la hán, những bậc mà có thể phải
là có những cái kinh nghiệm tu hành chính xác ở trong giới luật của Phật và
sống đúng phạm hạnh, đức hạnh của Phật, của đạo Phật thì mới có thể giải nghĩa
và diễn giải nghĩa pháp của Phật mới có thể đem lại cho chúng ta thấy rõ con
đường tu tập.
Còn những bậc phàm phu có kiến thức học hỏi, nhưng làm sao hiểu
được nghĩa lý này cho thông suốt? Cho nên làm sao vạch ra cho được, từ đó tưởng
ra thế này, tưởng ra thế khác làm cho con đường của Phật Pháp quá xa xôi, quá
xa lạ. Làm cho chúng ta chẳng biết đường nào mà đi vào cho đạt được kết quả
giải thoát. 13 giới đức trong giới luật của đạo Phật, của đức Phật
đã xác chứng thiền định của đạo Phật là giới luật nghiêm chỉnh mà thành thiền
định. Nghĩa là thiền định của đạo Phật phải là lấy giới luật
nghiêm chỉnh nó mới có thiền định. Bởi vì thiền định của đạo Phật, mà muốn có
thiền định của đạo Phật thì không thể một cái người mà tu thiền định đó mà còn
sống ở trong dục lạc thế gian được. Như quý vị bây giờ ăn 3, 4 bữa làm sao quý
vị có thiền định được, còn chưa có ly cái dục ăn mà. Quý vị còn ham ngủ làm sao
quý vị thực hiện được con đường thiền định này? Quý vị thấy rất rõ. Cho nên từ
cái kiếp sống của quý vị, quý vị còn ham thích từ cái nhà, từ cái cửa, từ cái
vật dụng, từ phật tử, từ cái danh, cái nhỏ nhỏ làm trụ trì, hoặc làm ông này bà
kia, thì thử hỏi cái đó là cái dục lạc của thế gian mà, mà chưa có ly được hết
thì làm sao mà quý vị thực hiện được con đường thiền định chơn chánh của đạo
Phật?
Cho nên, hầu hết là cái sự tu hành của quý vị đều sai hết. Không
có còn cái chỗ nào gọi là đúng. Bởi vì từ cái chỗ Sơ thiền của Phật chúng ta
thấy rõ ràng ly dục, ly bất thiện pháp, nhập Sơ thiền, từ đó nó mới có cái hỷ
lạc của ly dục, chớ đâu phải khi không mà có được, tức là mình phải ly cho
sạch. Đó thì thấy, qua một cái Sơ thiền, một cái thiền thứ nhứt của đạo Phật mà
chúng ta đã thấy được cái điều kiện mà Phật đã xác định như vậy.
Chớ không phải ngoài giới luật mà đi tìm thiền định có được. Bởi
vậy, ly dục ly bất thiện pháp mới nhập được Sơ thiền. Điều này quá rõ ràng,
giới luật sanh ra thiền định. Nghĩa là từ ở trong cái giới hạnh của chúng ta
mới có được cái giới đức chứ không phải là tự dưng mà không có giới hạnh mà
giới đức có được. Nghĩa là quý vị mà không dẹp bỏ tất cả những cái nghề nghiệp
của thế gian mà sống, mà còn có 1 bình bát, 3 cái y mà đi xin ăn á thì chắc
chắn là quý vị có làm một cái nghề gì đi mà sống trong cuộc đời này, mà quý vị
chẳng bao giờ xa lìa được cái dục lạc.
Mà chẳng xa lìa được cái dục lạc thì giới hạnh của quý vị chưa
xong thì quý vị không bao giờ mà có thể nếm được cái mùi vị của giới đức được.
Do đó làm sao có thiền định được nếu không có giới hạnh thì không bao giờ có
giới đức. Mà giới hạnh, quí thầy đã biết, một vị tu sĩ chỉ còn 3 y, 1 bát không
còn có một nghề nghiệp gì sinh sống, chỉ đi xin ăn mà thôi. Đời sống không nhà
không cửa, không người thân thuộc, ruột thịt. Giữa mọi con người tình thương
bao la, rộng mở. Có sống như thế thì định kia mới sanh ra, tức là giới đức mới
tròn đủ. Giới hạnh được Phật xem là sơ thiện, còn giới đức được xem là trung
thiện. Vậy quý thầy học được đến đây là chúng ta đã học được sơ thiện và trung
thiện trong giới luật của đạo Phật. Đến đây Thầy dừng lại.
Bây giờ để tiếp tục chương trình học của giáo án, trước khi mà
học đến giới tuệ thì Thầy xin thuật lại một vài mẩu chuyện của các bậc Thánh
tăng, để bước qua cái giới tuệ chúng ta biết giới tuệ là như thế nào.
Nếu mà không có những gương hạnh này thì chắc chắn là chúng ta
chưa biết được cái giới tuệ của Phật là như thế nào bởi vì hầu hết là các thầy
cũng có học giới luật không phải không, nhưng mà các thầy chưa có được nghe
những cái lời giảng mà do từ kinh nghiệm bản thân của Thầy, mà Thầy thấy đó là
một cái điều cần phải lưu lại qua cái giáo án này. Cho nên qua những cái điều
kiện mà nêu lên những cái gương hạnh của những bậc Thánh tăng trong thời đức
Phật để quý thầy lấy cái đó mà thấy được khi mà bước sang qua giai đoạn mà giới
tuệ là nó như thế nào? Chớ không khéo là quý thầy tưởng như là giới hạnh, hoặc
là giới đức nữa, nó là khác rồi, nó không giống rồi.
Để tiếp tục học chương trình giáo án này ta nên noi gương các
bậc Thánh tăng thời đức Phật để lấy đó mà làm gương hạnh sách tấn tu hành cho
mình. Bây giờ Thầy thuật lại ông Phú Lâu Na, chắc ai cũng nghe cái ông này
hếtKhi đến tuổi trưởng thành, hình như là ông Phú Lâu Na Thầy đã thuật lại rồi
phải không các con? Ông ngài Niép Ta đã có thuật rồi, ngài Vasapala cũng đã
thuật rồi. Bây giờ tới Ngài Gavampati.
Ngài Gavampati, Ngài theo Phật xuất gia và chứng quả A la hán.
Một hôm Đức Thế Tôn và một số đông tỳ kheo trên đường du hành vượt sông
Sarabhu. Nhưng đến đó trời tối, mọi vị tỳ kheo phải nằm nghỉ trên bãi cát sông
Sarabhu. Đến nửa đêm nước sông dâng lên và các thầy tỳ kheo trẻ tuổi la ồn náo.
Thế Tôn nghe vậy bảo Gavampati can thiệp, vị trưởng lão dùng
giới tuệ thần túc thông của mình làm theo lời Phật dạy, dừng dòng nước lại từ
xa. Khiến cho dòng nước dựng đứng lên như ngọn núi mà không tràn vào bãi cát
được. Do vậy, mọi người biết ngài có thần thông siêu việt. Hôm sau, chúng và
Thế Tôn được ngài đưa sang sông an lành.
Sau khi Đức Phật và đại chúng đi xong thì người ta không còn
thấy ngài nữa, ngài đã ẩn bóng. Do vậy, Bậc Đạo Sư dùng kệ tán thán công đức
của ngài:
Với tuệ thần túc thông
Dựng đứng nước Sarabhu,
Chính Gavampati,
Không ỷ lại, không động,
Ẩn bóng giấu tung tích,
Vượt qua mọi trói buộc,
Chư thiền đều đảnh lễ,
Bậc Ðại sĩ Mâu-ni
Ðã vượt qua sanh hữu.
Đó là cái bài kệ của đức Phật tán thán cái vị tu sĩ này. Đó thì
khi mà đến giới tuệ thì các thầy thấy sức thần thông của họ đến cái mức độ nào.
Nước sông tràn như vậy mà dùng thần thông chặn đứng nước sông cao như núi mà
không tràn xuống được. Đó là cái ý muốn của người ta muốn như thế nào được như
thế nấy. Đó gọi là tuệ giải thoát đó, chứ không phải tri
kiến giải thoát đâu.
Ở đây chúng ta lầm tưởng, lấy cái chỗ mà tuệ của định sinh ra,
là cái tuệ nó không phải là cái tuệ tầm thường của phàm phu, không phải là trí
tuệ tầm thường. Cho nên chúng ta thấy ở trong kinh sách thường nói, khi mà
chúng ta niệm hương á, có cái bài hương mà đầu tiên đó: Giới hương nè, định
hương nè, dữ huệ hương. Thì cái huệ hương đó nó thuộc về nằm ở trong giới định
tuệ thì nó khác rồi. Nhưng mà tri kiến và tri kiến giải thoát hương thì 2 cái
hương mà sau cùng này, cái hương tri kiến và cái hương tri kiến giải thoát nó
không phải là tuệ đâu.
Nhưng mà, cái hương tri kiến giải thoát nó nằm trong góc độ của
tuệ thứ nhứt, của giới tuệ thứ nhứt, thì một lát nữa quý thầy sẽ học đến giới
tuệ thứ nhứt, giới tuệ thứ nhất thì quý vị biết đó là tri kiến giải thoát.
Còn cái tri kiến mà chúng ta dùng đây nó không phải là tuệ đâu, nó là cái tri
kiến cho nên nó là cái sự kết tập những sự hiểu biết, chứ không phải là như các
vị mà đã giảng, thường giảng cho chúng ta biết là văn, tư, tu. Nó có 3 cái tuệ
gọi là: văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ.
Những điều đó là những điều kiến giải của bậc học giả, không
phải là của những bậc tu hành chứng(BBT:BN,18,E01:29:31)(BBT:CĐ,20A,E00:45:47).(BBT:CĐ,20B,B00:00:00)(BBT:BN,18,B01:29:31)
Cho nên họ không có biết tri kiến như thế nào và tri kiến giải thoát như
thế nào. Cho nên họ gồm cho đó là trí tuệ của họ, sự thật ra chưa phải, họ chưa
hiểu. Bởi vì cái trí tuệ của đạo Phật mà khi từ định sinh ra trí tuệ vô cùng
siêu việt, không phải là cái trí tuệ tầm thường. Họ ở trong cái Tứ như ý túc mà
họ sử dụng cái trí tuệ đó chứ không phải là tầm thường.
Còn khi mà họ ra bình thường mà họ sống như bình thường chúng
ta, họ dùng tri kiến giải thoát cho nên gọi là tri kiến giải thoát.
(BBT:CĐ,20B,00:00:28)Nhưng tri kiến giải thoát nó chỉ nằm ở trong
13 cái giới tuệ của đức Phật. Mà cái giới tuệ đầu tiên đó là cái tri kiến giải
thoát của họ, còn tất cả những cái tuệ sau cùng, tới sau cùng đều là những cái
tuệ do từ định mà sanh ra. Cho nên cái tuệ siêu việt chớ không phải là tuệ tầm
thường.
Để rồi học tới đó thì quý thầy mới thấy được cái giới tuệ của
đức Phật tuyệt diệu chớ không phải cái thứ mà tri kiến mà kết tập, tích hợp lại
những cái sự hiểu biết của kinh sách của các vị kim cổ, hiểu biết của các bậc
thánh hiền để lấy làm của mình đó thì cái tri kiến đó gọi là cái tri kiến chứ
chưa được gọi là trí tuệ, chưa được gọi là cái gì cả hết, mà cũng chưa được gọi
là cái tri kiến giải thoát nữa.
Thì đủ biết rằng cái con đường của đạo Phật nó dạy cho chúng ta
rất rõ ràng và cụ thể. Cho nên ở đây chúng ta thấy cái vị này họ đạt được cái
giới tuệ Thần túc thông. Ở đây người ta dùng cái danh từ giới tuệ thần túc
thông. “Dựng đứng nước Sara”, tức là dựng đứng nước sông Sarabhu. “Chính
Gavampati”, tức là ngài Gavampati, ngài dựng đứng nước sông, không có cho
nước tràn vào bờ, vào bãi cát để cho chúng tỳ kheo yên ổn mà ngủ suốt đêm đó để
mà sáng mà lên đường đi.
Khi mà làm được những cái hành động như vậy thì ngài không có ỷ
lại, ngài không có ngã mạn cho nên không ỷ lại không động.
Tâm ngài không có thấy đó là mình hơn ai hết, nghĩa là bình thường như mọi
người. Rồi khi mà đưa chúng tỳ kheo đi xong rồi thì ngài lại ẩn bóng, ngài giấu
tung tích của mình. Chẳng bao giờ ai thấy ngài ở trong cái đoàn đó nữa. “Vượt
qua mọi trói buộc”, ở đây mọi trói buộc không có nghĩa là, nghĩa là vượt
qua cái sự khen tặng của các tỳ kheo, của các vị cư sĩ trong cái thời đó. Cho
nên ngài đã ẩn bóng, ngài không để cho lộ tung tích nữa. Đó là ngài đã vượt qua
cái sự mà khen của các vị đó. “Chư thiên đều đảnh lễ”. Hồi nãy cái chỗ
câu này là “Chư thiên” chứ không phải là “chư thiền”, “Chư thiên đều đánh lễ”
nghĩa là các chư thiên đều thấy cái sự ẩn bóng, và thấy cái hành động mà ông ta
làm mà tâm không có ngã, không ỷ lại. Thì cho nên chư thiên ở trên các cõi trời
đều đến đảnh lễ ngài.
“Bậc đại sĩ Mâu ni”. Những người đó gọi là đại sĩ Mâu ni.
“Đã vượt qua sanh hữu” - nghĩa là không còn dính mắc cái sự sanh hữu,
tức là khen chê, hoặc cái này cái kia. Họ đã vượt qua hết những cái đó rồi. Đó
là qua bài kệ, như vậy chúng ta thấy khi mà cái trí tuệ, mà giới tuệ của họ,
thần túc thông như vậy, siêu việt như vậy đó thì họ là những con người siêu
việt mà không thể nào mà tưởng tượng được. Khi mà chúng ta tu hành tới mà giới
tuệ thì chúng ta cũng như vậy (BBT:BN,18,E01:32:32)(BBT:CĐ,20B,E00:03:05), (nghĩa
là chúng ta muốn như thế nào là đạt như thế nấy chứ không phải là cái muốn của
chúng ta như còn phàm phu muốn ăn, muốn ngủ đâu, hay hoặc là muốn nhà, muốn
cửa, muốn chùa to tháp lớn nữa đâu, hay hoặc là muốn làm danh ông này ông kia
đâu, không có đâu. Người ta sẽ muốn cái khác, chứ không phải, muốn làm sao cho
tất cả thế gian này được hưởng hạnh phúc, muốn làm sao cho tất cả mọi )
(BBT:CĐ,20B,B00:03:05)(BBT:BN,19,B00:00:00)
Nghĩa là chúng ta muốn như thế nào là đạt như thế nấy chứ không
phải là cái muốn của chúng ta như còn phàm phu như là muốn ăn, muốn ngủ đâu,
hay hoặc là muốn nhà muốn cửa, muốn chùa to, tháp lớn nữa đâu, hay hoặc là muốn
làm danh làm ông này, ông kia đâu, không có đâu. Người ta sẽ muốn cái khác chứ
không phải như vậy, muốn làm sao cho tất cả thế gian này được hưởng hạnh phúc,
muốn làm sao cho tất cả mọi người đều thực hiện những cái thiện pháp để đem lại
những cái quả lành cho mọi con người để được an lành trong cuộc sống. Đó là cái
muốn của những bậc mà người ta có Trí tuệ, có Giới tuệ. Còn những bậc mà chưa
có Giới tuệ, họ còn muốn danh, muốn lợi của thế gian, họ còn muốn tiền tài của
báu, họ còn muốn chùa to, tháp lớn hoặc còn muốn đồ chúng, họ còn muốn bành
trướng chỗ này đến chỗ kia để gây cơ sở bằng cách này, bằng cách khác. Đó là
cái muốn của họ đó. Đó là cái muốn của thế gian!
***
CHUYỆN NGÀI UTTARA
Bây giờ Thầy thuật lại cho quý thầy thấy một vị nữa: Ngài Uttara,
Ngài sanh ở thành Vương Xá, Ngài thông minh và thông suốt ba bộ kinh Vệ Đà.
Ngài có danh tiếng tốt, Ngài có đức hạnh và dung sắc đẹp đẽ. Ngài được một vị
Bộ trưởng ở thành Ma Kiệt Đà gả con gái cho Ngài, nhưng Ngài từ chối và xuất
gia với ông Xá Lợi Phất nên Ngài thường làm bổn phận của một chú Sa Di hầu
thầy. Một hôm Tôn giả Xá Lợi Phất bị bệnh, Ngài phải ôm bình bát ra bờ hồ lấy
nước cho ông Xá Lợi Phất. Khi lấy nước xong, Ngài để bình bát ở trên bờ rồi lội
xuống hồ để tắm, cùng lúc ấy có một tên trộm bị lính đuổi chạy ra khỏi thành.
Khi chạy ngang qua bình bát của Ngài đang để trên bờ sông, gã ăn trộm liền
quăng của báu đánh cắp vào bát của Ngài. Các người lính đuổi theo thấy trong
bình bát của Ngài có của báu ăn cắp nên bắt Ngài về đưa cho Bộ trưởng đó
(Vassakàra đó, là cái người muốn gả con cho ông ta đó, mà ông từ chối ông đi tu
đó) để trừng trị. Nghĩa là bây giờ bắt ông đem về trừng trị do cái tội ông ăn
cắp.
Ngài bị hành hạ đến chết đi, sống lại. Bậc Đạo sư liền đến
khuyên Ngài : “Đây là kết quả của nghiệp đời trước của ngươi,
ngươi cần phải chấp nhận và nhờ sức mạnh tư duy khổ thọ, tu tập Định vô lậu thì
mới thoát khỏi nghiệp khổ này”. Bậc Đạo sư nói xong, đặt tay nhẹ lên đầu
ông. Trong lúc đó ông bị cột trói ở trong một cái trụ cột rất là to và đồng
thời thì đức Phật hiện đến và khuyên ông nên lấy cái Định vô lậu đó mà thực
hiện cái khổ thọ, lấy cái đề mục khổ thọ mà đặt ra trước mặt để mà thực hiện
cái Định vô lậu. Khi nói xong, thì đức Phật xoa đầu ông một cái rồi đức Phật
biến mất. Nhờ thế mà tâm tư ông phấn khởi, đặt niệm quán xét thọ khổ, cuối cùng
đoạn tận các uế nhiễm và lậu hoặc, chứng sáu thắng trí, chứng quả A La Hán. Lúc
bấy giờ ông đang bị cột trói trong một trụ cột rất to. Khi chứng quả xong, ông
dùng Giới tuệ Thần túc thông, vươn mình lên khỏi trụ cột, Ngài đứng trên hư
không và hiện thần thông. Vì lòng từ mẫn đối với kẻ khác, Ngài không làm hại
một người nào hết. Nghĩa là ông bị hành hạ đến cái mức độ mà tàn nhẫn sức không
chịu đựng nổi. Bởi vì cái thù hận của cái ông bộ trưởng này đó là vì gả con cho
ông mà ông không có nhận, cho nên khi mà bắt ông là ăn trộm rồi thì ông này
hành hạ rất là độc. Do đó khi ông đã thực hiện được, nhưng cái lòng từ mẫn của
ông, ông không bao giờ hại những cái kẻ mà đã làm hại ông. Trước sự ngạc nhiên
của tất cả mọi người, các vết thương trên thân Ngài đã bị tra tấn quá tàn ác
đều được lành hẳn. Nghĩa là lúc bấy giờ ông dùng thần thông thì các vết thương
ở trong thân của ông nó đều lành hết, nó không còn bầm xanh, hoặc là còn đổ máu
hoặc còn rỉ máu hoặc còn mủ máu nữa.
Có người hỏi Ngài, “Trong cảnh đau khổ ấy, làm sao Ngài
còn bình tĩnh mà tu tập được?”.Ngài trả lời: “Tôi nhờ bậc Đạo sư
nhắc nhở và an ủi, khi tôi thấy rõ sự đau khổ là nhân quả kiếp trước tái sanh
của tôi và tánh nhân duyên sanh của sự vật và sự nguy hiểm của sự đau khổ trước
kia nhiều hơn hiện tại. Vì thế tôi không còn dao động, tôi phát triển Thiền
quán Vô lậu và chứng được kết quả. Sau khi chứng quả, tôi có làm bài kệ”.
Ở đây, cái chỗ này thì quý thầy phải hiểu, ông thấy rõ, khi mà
được đức Phật nhắc ông thì ông thấy rõ cái nhân quả cái kiếp trước ông, ông đã
tạo cho người ta khổ còn gấp mấy lần trong hiện tại ông đã chịu khổ. Ông ấy đã
thấy được cái điều đó, cho nên ông nhận kiếp trước mình đã làm cho người ta khổ
biết bao nhiêu, thì bây giờ cái chuyện hiện tại ông, cái khổ mà hiện bây giờ bị
hành hạ như vậy nó không có khổ nhiều đâu. Vì thế mà tâm ông không còn dao động
nữa, ông đã hiểu được như vậy, tức là đã hiểu được cái nhân quả chứ gì, cho nên
tâm ông không sợ hãi, không dao động nữa, từ đó mà ông yên tâm, ông phát triển.
Đang bị cột trói như vậy mà ông vẫn an nhiên mà phát triển cái con đường thiền
quán của ông, cuối cùng ông thành quả. Cho nên ông viết cái bài kệ để cho chúng
ta rút tỉa những kinh nghiệm mà tu tập.
“Không có gì có mặt
Lại thường còn mãi mãi
Không có các hành gì
Lại thường hằng, thường trú
Các uẩn được khởi lên”
Đó là cái pháp hướng, cái đề mục của ông mà ông đã đặt thành một
cái niệm tu cái Định vô lậu mà qua cái bài kệ này ông lấy ra.
“Đến đời khác diệt vong
Biết được nguy hiểm này
Tôi chấm dứt sanh hữu
Từ bỏ tất cả dục
Tôi chứng lậu hoặc tận”
Nghĩa là ở đây Thầy giải thích từng câu kệ cho quý thầy thấy rõ.
Khi mà quán vô thường mà đặt cái niệm khổ, niệm thọ khổ này, ông thấy lúc có
đau, lúc không đau, cho nên ông thấy “không có gì có mặt”. Nghĩa
là trong thế gian này không có một cái gì mà có mặt hết. “Lại thường
còn mãi mãi”,nghĩa là vật này có thì nó không có kéo dài được trường tồn,
cũng như bây giờ chúng ta có, chưa chắc đã là nó mãi mãi được, nó sẽ bị hoại
diệt đi. Đó là cái sức quán của ông, thấy nó vô thường như vậy đó. “Không
có các hành gì” tức là cái hành động nào, “Lại thường hằng,
thường trú”, nghĩa là không có hành động nào mà nó thường hoài được,
mà không có cái pháp gì mà trong thế gian này mà thường trú được, nó luôn luôn
nó thay đổi và hoại diệt. Đó là ông thấy các pháp vô thường đó!
“Các uẩn được sanh khởi”,tức là năm cái uẩn của chúng ta nó
sanh khởi thì nó lên nó thành cái thân, mà nó không có sanh khởi thì nó hoại
diệt, thì nó đâu có cái thân. “Đến đời khác diệt vong”,nghĩa bây
giờ hiện đời này thì nó hợp nhau nó sanh khởi thì nó có mình, mà đến đời khác
thì nó mất đi. Cho nên đến đời khác thì nó diệt vong mất, nó đâu còn nữa. “Biết
được nguy hiểm này”, nghĩa là thấy sự sanh khởi, sự vô thường, sự vô ngã
của nó, sự thọ khổ của nó như vậy thì biết nó là cái sự nguy hiểm, rất là nguy
hiểm. “Tôi chấm dứt sanh hữu”, sanh hữu là cái gì các thầy biết
không? Sanh hữu tức là những cái dây mà trói buộc như nhà cửa, của cải, tài
sản, anh em, cha mẹ ruột thịt, dòng họ, tất cả những vật nhỏ, vật lớn, đó gọi
là sanh hữu. Cho nên, ông nghĩ rồi bắt đầu ông buông hết, không có còn gì trong
tôi nữa hết, nghĩa là tôi phải buông sạch, thì buông sạch như vậy là còn ba y,
một bát chứ gì? Từ lâu tới giờ ông đi theo, ông thọ theo làm Sa Di, theo hầu
với ông Xá Lợi Phất nhưng ông có hết sanh hữu không? Còn sanh hữu chứ, chứ chưa
phải hết. Cho nên, tới bây giờ ông mới quán được cái sanh hữu, ông mới diệt
sạch nó, dứt sạch nó.
“Từ bỏ tất cả dục”,tất cả lòng ham muốn ông cũng đều
bỏ hết xuống, không có ham muốn nữa. Mà dứt bỏ sanh hữu tức là dứt bỏ dục, bởi
vì không có vật để mà dục nữa thì sao mà có dục? Cho nên ông không còn vật gì
để mà ham muốn nữa. “Tôi chứng lậu hoặc tận”, nghĩa là lậu hoặc ông
quét sạch rồi, không còn nữa, cho nên Định Vô lậu ông đã thành tựu, từ đó nó
thực hiện được Tam minh, tức là có cái Trí tuệ, cái Giới tuệ của ông hẳn hoi.
Đó thì đó là một vị mà đã có thần thông, đã bị cột trói rồi từ
cái chỗ mà chứng đạt thì Ngài thực hiện cái Tuệ, cái Giới tuệ vô lậu của Ngài
mà Ngài thực hiện được thì Ngài biến ra một con người đứng ở trên hư không, rồi
từ đó người ta hoảng sợ, người ta quá là sợ hãi rồi, không còn ai mà có thể
hành hạ ông ta được nữa hết, và cuối cùng thì ông không trả thù người nào hết
hoàn toàn, người nào đối xử với ông như thế nào ông cũng không có thù nhưng ông
chỉ nghĩ rằng mình được giải thoát mà thôi.
Đó hôm nay chúng ta thấy những cái đó là những cái mà chúng ta
bước sang qua một cái điều kiện mà chúng ta học về cái Giới tuệ, thì cái Giới tuệ
là cái vấn đề mà chúng ta phải có Thiền định. Bởi vì nếu mà không có Thiền
định, làm sao mà chúng ta có cái này được? Nếu không có Thiền định thì làm sao
chúng ta có được? Có Thiền định là như thế nào? Chúng ta bảo các hành phải
ngưng, thì bây giờ trong thân chúng ta các hành ngưng tức là thân định, mà tâm
chúng ta nó diệt tầm tứ thì nó là định rồi. Cho nên lúc bấy giờ tâm nó định ở
trên thân, mà thân bây giờ định ở trên tâm, cho nên Phật nói khi mà thân định
trên tâm mà tâm định trên thân thì chúng ta câu hữu Tứ như ý túc, là Dục như ý
túc, chúng ta muốn như thế nào là nó sẽ theo như thế nấy.Mà bây giờ cái hơi
thở, các hành trong thân của chúng ta mà chúng ta bảo nó ngưng, thì nó ngưng
được thì cái lực mà của tinh thần của chúng ta trong cái pháp hướng nó vi diệu
đến mức độ nào nó mới ngưng chứ? Còn bây giờ chúng ta tập thở rồi chúng ta
ngưng thở, thì cái điều đó không phải là chúng ta dùng cái lực của tinh thần mà
chúng ta dùng cơ để nín thở. Dùng cơ nín thở thì chắc chắn là không đạt được
kết quả mà phải dùng pháp hướng mới kết quả.
Cho nên Thầy thường nhắc quý thầy, người ta chỉ dùng cái pháp
hướng mà người ta tu Định Vô lậu để người ta quét sạch được cái lậu hoặc của
người ta thì cái pháp hướng đó nó trở thành hiệu quả mà người ta điều khiển
được cái thân nó ngưng hoạt động, chứ không phải là chúng ta ngay đây mà chúng
ta tập thở chậm hoặc là thở như thế nào chúng ta cũng có vận dụng cái sự thật
chậm của nó thật, nhưng không phải quá sức của nó, quá sức của nó sẽ rối loạn
cơ thể và làm chúng ta sẽ trở thành bệnh. Cho nên chúng ta phải hiểu được, còn
cái lực mà tinh thần của chúng ta điều khiển nó rất là vi tế, nó ra lệnh, tuần
tự nó sẽ chậm, nhẹ dần theo nó mà nó sẽ không bị rối loạn, nó thay đổi toàn bộ
cơ thể chúng ta, đến khi nó dừng mà chúng ta không chết.
Quý thầy phải hiểu con đường tu tập theo đạo Phật là như vậy nó
mới đúng cách. Cho nên ở đây chúng ta cần làm sao ly dục, ly bất thiện
pháp mà thôi, mà ly được rồi thì chừng cái điều khiển này nó không
phải khó khăn, bởi vì trong cái thời gian mà ly dục, ly bất thiện pháp đó chúng
ta phải tu tập Định vô lậu và Chánh niệm tỉnh thức định cho cái sức tỉnh của
chúng ta rất cao độ, để chúng ta phóng ra những cái tri kiến, làm cho cái sự
quán xét của tất cả lậu hoặc chúng ta đều bắt được nó, cho nên chúng ta phải
quét cho ra khỏi tâm. Mà quét ra khỏi tâm thì tâm chúng ta tịnh rồi, tức là cái
pháp mà chúng ta đã dùng pháp hướng để quét tất cả lậu hoặc, nó trở thành một
cái tinh thần, cái lực của tinh thần, cho nên gọi là lực định, hay hoặc là cái
Định lực.
Trong đạo Phật nó có năm cái lực (Ngũ lực đó) thì: Tín
lực, Tấn lực, Niệm lực, Định lực và Huệ lực. Năm cái lực này chúng ta
thấy rất rõ ràng nếu mà chúng ta tu tập đúng thì chúng ta có năm cái lực đó. Mà
năm cái lực đó thì cái Niệm lực là nơi mà chúng ta tu cái Định vô lậu là nó đã
có Niệm lực, mà cái Niệm lực đó thì đó là cái lực tinh thần của chúng ta, nó là
cái pháp hướng, cho nên chúng ta ra lệnh thì ngay đó các hành trong thân của
chúng ta ngưng, tức là cái Định lực. Do cái Định lực nó đã điều động được cái
thân định - rồi thì lúc bấy giờ chúng ta mới dùng cái Huệ lực của chúng ta, do
vì vậy mà cái Tam minh, cái Lậu tận minh nó mới thể hiện, nó mới thấy
đây là khổ thật, đây là nguyên nhân của khổ, đây là con đường diệt khổ, đây là
cảnh giới Niết Bàn.
Đó, nó mới thấy thật, mới chứng được cái lý Khổ - Tập - Diệt -
Đạo. Còn bây giờ chúng ta hiểu là cái ngộ chứ chưa phải là cái chứng lý. Chờ
khi nào mà cái Lậu tận minh nó hiện ra thì cái Trí tuệ của cái Giới tuệ này nó
hiện ra thì lúc bấy giờ chúng ta mới thấy nó mới chứng được cái lý Khổ - Tập -
Diệt - Đạo, nó mới rõ ràng hơn.
Đó thì trên cái bước đường tu tập, thì quý thầy phải thấy, hiểu
được những cái sự tu tập của chúng ta nó như thế nào mà đúng, như thế nào sai.
Qua cái bài giảng của Thầy rồi thì quý thầy biết, quý thầy tu. Từ lâu tới giờ
quý thầy tu sai hay đúng quý thầy biết liền. Còn ngay bây giờ quý thầy mà đi
vào từ cái Chánh niệm Tỉnh thức, rồi bắt đầu từ cái Định Vô lậu mà quý thầy tu
tập cho đến khi mà quý thầy thấy ly được dục, ly được ác pháp rồi thì quý thầy
lấy những cái pháp hướng mà quý thầy đã từng tập luyện đó nó có cái hiệu quả
đó, thì ngay đó bây giờ quý thầy chỉ thay đổi, thay đổi Trạch pháp cái câu ra,
cái câu này bây giờ phải sử dụng cho nó như thế nào, sử dụng cho nó muốn nhập
Nhị thiền thì mình chỉ ra lệnh rằng : “Tầm tứ phải tịnh chỉ, phải
ngưng, không có được hoạt động nữa”. Thì ngay đó chúng ta chỉ dùng cái
pháp hướng đó, nhắc một lần, hai lần thì ngay đó là Tầm, Tứ chúng ta diệt liền
chứ khỏi cần phải mà ức chế nó đâu. Các thầy thấy rất rõ, bây giờ chúng ta muốn
sáu cái loại tưởng hay mười tám cái loại tưởng mà để cho nó ly ra thì chúng ta
chỉ cần ra lệnh “Mười tám cái loại tưởng phải ra khỏi”, tức là
ly hỷ, trú xả đó, thì ngay đó là mười tám cái loại tưởng nó sẽ ra khỏi tâm
chúng ta liền tức khắc, từ đó chúng ta sẽ nhập vào Tam thiền, đâu phải là cái
khó? Đâu phải còn ma chướng nữa?
Còn chúng ta chưa có cái hiệu quả của cái pháp hướng tức là lực
của tinh thần chúng ta chưa có mà chúng ta thực hiện thì chúng ta không bao giờ
mà đạt kết quả được hết. Chúng ta phải có một cái sức lực của tinh thần của
chúng ta, mà lực tinh thần tức là Niệm lực chứ cái gì? Cái Niệm lực là cái Pháp
hướng, câu pháp hướng đó nó trở thành cái Niệm. Nếu mà không có cái câu đó, làm
sao gọi là niệm? Chẳng hạn bây giờ chúng ta bảoTầm - Tứ phải diệt mà
không có cái tên Tầm - Tứ thì làm sao gọi là cái niệm? Quý thầy phải hiểu một
cái đoạn văn, một cái câu nào đó nó là cái niệm. Mà cái niệm đó để chúng ta ra
lệnh, truyền lệnh cho cái hành động của cái đối tượng đó nó phải ngưng, phải
dừng, cho nên gọi là cái niệm. Vì vậy mà gọi là Niệm lực. Mà Niệm lực thì quý
thầy phải biết nó là Tứ niệm xứ, mà Tứ niệm xứ thì nó ở đâu? Thân, thọ, tâm,
pháp của chúng ta ở trong thân của chúng ta chứ đâu? Đâu phải ngoài thân? Cho nên
chúng ta ra lệnh trong thân chúng ta để mà làm chủ. Vì vậy mà học tới Tứ niệm
xứ Thầy sẽ giảng cái này rất rõ để cho quý thầy biết để mà sử dụng ở trong Tứ
niệm xứ. Nếu mà chúng ta chưa tu Tứ niệm xứ mà vội tu bốn Thiền thì cái chuyện
đó hoài công.
Bởi vì Niệm rồi mới tới Định chứ? Chứ đâu lý nào mà Định đi
trước Niệm được? Đó thì quý thầy phải biết, chứ không có thể nào mà chưa có
Định mà có được cái Trí tuệ Tam minh thì làm sao có, làm sao có Trí tuệ mà thần
thông được? Đâu có thể nào có Trí tuệ đó được? Cho nên phải tuần tự mà chúng ta
tu tập từng cái bước của mỗi bước đi trên con đường của đạo Phật, xây dựng cho
chúng ta từng chút để cho chúng ta không lạc lối.
CHUYỆN NGÀI GANGÀTIRIYA
Bây giờ tới một cái Ngài nữa, Ngài Gangàtiriya, Ngài này thường
cái tên quá dài là tại vì cái tên này để mà dịch nghĩa ra là, trước kia thì
Ngài không có cái tên, nhưng mà thường Ngài ở bên bờ sông Hằng, Ngài cất cái
chòi ở trên đó, mà Ngài theo Phật xuất gia và Ngài ở trên cái bờ sông đó Ngài
tu cho nên người ta gọi cái tên đó là cái người sống ở trên bờ sông Hằng. Cái
tên của Ngài đó là “Người sống ở trên bờ sông Hằng”, chúng ta
dịch ra Việt ngữ là như vậy đó! Còn gọi chung cái tên của Ngài là như vậy! Ngài
xuất gia theo Phật tu hành, Ngài chọn đời sống khổ hạnh, ở trên bờ sông Hằng
nên người ta gọi Ngài là “Người sống trên bờ sông Hằng”. Ngài làm
một cái chòi để ở, Ngài nguyện không nói với một ai. Nghĩa là Ngài nguyện suốt
cái thời gian tu hành, Ngài ở trên cái bờ sông Hằng đó, không có bao giờ nói
với ai một lời nào hết. Suốt một năm, Ngài không thốt ra một lời nói nào. Trong
năm thứ hai có một người nữ nhân trong làng thường mang thực phẩm đến cúng
dường cho Ngài, muốn biết Ngài có phải là người câm hay không. Bởi vì suốt thời
gian cả năm trời, mà không thấy ông này ổng nói một lời nói nào hết, cứ đem sớt
bát rồi đi về chứ ông cũng không hỏi gì hết, không có nói chuyện gì hết, mà
cũng không xin thêm cái gì hết, cứ cho cái gì thì ăn nấy chứ không hỏi gì hết.
Cho nên cái cô này cô ấy không biết ông này ổng câm hay sao mà không nói tiếng
nói nào hết, không thấy không nói nào hết, cho nên muốn thử ông ta coi thử coi
có nói hay không. Thì đến năm thứ hai, cô mới đem đồ ăn uống đến cúng dường,
khi đổ sữa cúng dường, cô làm đổ sữa ra ngoài.
Nghĩa là thay vì cô đổ vào trong bát cho ông ta thì cô lại làm
cho nó đổ ra ngoài đi. Thì do đó, Ngài mới nói “Thôi, vừa rồi bà chị”,
nghĩa là đổ ra ngoài khiến tràn bát ông, ổng thấy kỳ quá rồi cho nên buộc lòng
ông phải nói tiếng nói “Thôi đủ rồi bà chị, đừng đổ nữa!”. Đó,
như vậy là bà này biết ông này nói chứ không phải là câm. Các con thấy bà này
cũng khéo đấy chứ? Để dò biết mà khiến ông ấy nói “Đổ vừa thôi chứ đổ gì đổ
dữ đổ tràn ra mà cứ đổ hoài”. Nhưng đến năm thứ ba thì ông chứng quả A
La Hán, nghĩa là khi mà bà ta biết ông nói được rồi thì bà ta cứ đem cơm đến
cúng dường cho ông, rồi ông chẳng nói nữa. Suốt năm thứ ba thì ông đã chứng quả
A La Hán. Ngài có làm bài kệ tán thán hạnh cũ của mình. Đó, thì các thầy nói là
Thầy dạy độc cư mà các thầy mà giữ gìn đúng như vậy để chờ người ta thử như
vậy. Bởi thấy nó kỳ lạ quá thì mới thốt ra nói thôi chứ còn cái chuyện mà không
kỳ lạ chắc ông này không cạy miệng ổng được đâu! Cho nên ông ấy lập hạnh cũng
dữ tợn lắm đó!
“Trên bờ sông Hằng
Dùng ba lá thốt nốt
Chỉ dùng có ba lá thốt nốt thôi chứ ông ấy cũng không có
dùng cái gì hết.
Ta dựng lên cho ta
Một chòi lá nho nhỏ
Bát ta là cái ghè
Dùng cúng sữa người chết
Nghĩa là ông lấy cái bát không phải cái bát như chúng mình đâu,
mà là cái ghè người ta để ngoài gò mả để khi mà người ta tảo mộ đó, người ta đổ
sữa vô đó để cúng người chết. Ông lấy cái đó ông làm cái bát ông ăn cơm. Các
con thấy ghê gớm không? Mình thì chắc không dám đâu!
Bát ta là cái ghè
Dùng cúng sữa người chết
Còn y áo của ta
Lượm chấp từ đống rác
Suốt hai năm sống vậy
Ta chỉ nói một chữ
Nghĩa là chỉ có nói một lời với cô ta đó thôi chứ còn không có
nói với ai nữa hết.
Trong khoảng năm thứ ba
Khối si ám tan tành”
Nghĩa là tất cả vô minh đã tiêu sạch hết rồi.
Đó, thì qua cái bài kệ này chúng ta thấy những bậc trong thời
đức Phật có những bậc thiệt là vĩ đại thiệt chứ không phải thường đâu! Thậm chí
là câm đến nỗi người ta tưởng là ông này câm thiệt, không có nói nên người ta
mới thử đó, còn chúng ta chưa có gì hết, chúng ta lia lịa hết, không có còn giữ
được cái chuyện gì nữa.
Qua cái hạnh này Thầy mới ghi chép lại cho chúng ta biết rằng
những cái sự tu tập của chúng ta nó phải theo những cái gương hạnh. Bởi vì mình
quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng mà? Mình phải quy y cho đúng các bậc Thánh
Tăng chứ? Chứ không lẽ mình quy y nó không đúng các bậc Thánh Tăng thì mình
nương với ai đây? Cho nên mình phải nương các bậc này, vì những bậc này chúng
ta thấy tuyệt diệu, quá là tuyệt!
Bây giờ về bên phái nữ thì Thầy cũng khai triển luôn về cái phần
nữ để chúng ta có những cái gương hạnh của người nữ, vì chúng ta ở đây, Tu viện
chúng ta ở đây cũng có phái nữ, cho nên Thầy cũng khai triển thêm một vài vị
tăng, một vài vị ni, Thánh ni.
CÂU CHUYỆN BÀ SHIHA
Bà được cha mẹ cho xuất gia tu hành theo Phật. Bà tu tập thiền
quán nhưng không thể chặn đứng tâm tư chạy theo ngoại vật khả ý. Nghĩa là bà
tuy tu vậy nhưng lòng bà cứ luôn luôn chạy theo sự ham muốn ở bên ngoài chứ
không có nhiếp tâm được.
Bảy năm bị dày vò, nghĩa là bà tu tập bảy năm như vậy mà cái tâm
ham muốn, cái tâm mà còn dính mắc cái này, cái kia của thế gian, còn thương mẹ,
thương cha hoặc cái này kia nó vẫn còn hoài, nó không hết mà suốt bảy năm như
vậy, làm sao thoát khỏi nếp sống ức nhiễm này? Bà nói cái ức nhiễm tức nó là
cái thương, cái ghét, cái này, cái kia, cái nọ, ham muốn cái này cái kia, làm
sao mà thoát ra được? Mà ông Phật, ông dạy mình mà tu hoài cũng không được! Nó
không xả ra được, nó cứ dính hoài à! Cho nên bảy năm trời bà rất đau khổ! Ta
hãy chết là tốt, bà nghĩ rằng mình đi tu như vầy mà cái tâm nó như vầy mà dẹp
nó không được thì thôi chết cho rồi đi, để làm gì?
Bà cột một cái dây thòng lọng ở trên nhánh cây, đút cái cổ vào
cái dây thòng lọng để thắt cổ chết cho rồi. Trong những giờ phút cuối cùng bà
cố gắng triển khai thiền quán. Tức là bà đút cái cổ bà vô trong cái dây thòng
lọng nhưng mà bà chưa có dám đạp cái ghế, sợ đạp nó siết họng chết đi. Cho nên
lúc bấy giờ bà lúc đó bà chờ nếu mà quán mà nó không trôi được rồi, nó không xa
được rồi thì bà đạp cái ghế một cái cho nó siết cái họng bà cho chết cho rồi
chứ đừng có để cho nó dính dính ở trong đó nữa. Đó! các thầy thấy cái gương
hạnh của người xưa kinh không? Người ta tu mà người ta thấy cái tâm nó không có
dẹp được, người ta chỉ còn tìm cái chết. Mà giờ trước khi giờ chết người ta còn
đem cái pháp ra để người ta tu hành coi xem cái giờ phút cuối cùng này nó ra
hay không, hay nó còn dính nữa? Dính nữa thì ta đạp cái ghế cho mày đứt luôn!
Đó, các con thấy cái sự tu hành của cái người xưa sao mà tuyệt quá! Họ không
coi cái thân họ ra gì hết mà chỉ coi cái sự giải thoát là hơn hết!
Bà cố gắng triển khai thiền quán, trí tuệ viên mãn, nội tâm
thiền quán tràn đầy, bà chứng được quả A La Hán, mở thòng lọng tức là cái dây
cột cổ bà đó, bà trở về Tịnh xá. Nghĩa là bà chứng rồi đó, bà trở về Tịnh xá.
Chỉ có đút cái cổ vô đó mà bà đã tu chứng, xa lìa được cái tâm thế gian tức là
ly dục, ly bất thiện pháp đó. Những cái gương hạnh thiệt là tuyệt vời! Bà sung
sướng, phấn khởi nói lên bài kệ:
“Không như lý tác ý
Bị dục tham ám ảnh
Nghĩa là luôn luôn lúc nào bà cũng tu tập theo lời Phật dạy mà
bà không có cái Như lý tác ý ra, tức là Ám thị đó! Các thầy thấy bà sơ xuất ở
chỗ Ám thị này! Ở trong này bà nói “Không như lý tác ý”, cho
nên “Bị dục tham ám ảnh”, cái lòng ham muốn cái này, cái kia nó ám
ảnh bà hoài mà không dứt được là do bà không có Như lý tác ý, tức là bà không
dùng Pháp hướng. Còn chúng ta bây giờ hằng ngày tâm chúng ta khởi ham muốn cái
gì hoặc là khởi có cái gì thì chúng ta dùng Pháp hướng chúng ta đánh bạt nó đi.
Thì như vậy là chúng ta Như lý tác ý chứ gì? Còn cái này không, bà không có
dùng theo cái lời Phật dạy cho nên bà nói:
Không như lý tác ý
Bị tham dục ám ảnh
(nó cứ ám ảnh bà hoài à!)
Ta trước bị dao động
Không chế ngự được tâm
Bị phiền não chi phối
Lạc tưởng ngự trị ta
Tâm ta không thăng bằng
Bị tham tâm chi phối
Bảy năm sống ốm yếu
Da vàng, dung sắc xấu
Đêm ngày không an lạc
Ta sống chịu khổ đau
Do vậy ta lấy dây
Đi vào giữa khu rừng
Tốt hơn ta treo cổ
Còn hơn sống hạ liệt
Nghĩa là bà thấy cái tâm mà nó còn thương, còn ghét, còn ham,
còn muốn này kia là cuộc sống hạ liệt, đâu phải là cuộc sống mà cao thượng đâu?
Cho nên bà biết như vậy mà sao lại ly không được? Do cái chỗ bà không dùng pháp
hướng, cho nên khi mà chứng rồi bà mới thấy, cái chính là do không Như lý tác
ý, Như lý tác nó nó mới chính là cái chỗ để dẹp, còn bà không có dùng cái đó,
cho nên bây giờ bà mới vô đầu bà nói “Không như lý tác ý” cho
nên tâm bà bị tham dục, bà nhắc cho chúng ta thấy cái chỗ đó.
Bởi vì qua cái bài kệ này Thầy thấy qua những cái kinh nghiệm mà
người ta nếu một người có tu, người ta nghe cái câu đó người ta biết rằng cái
bà này thiếu Như lý tác ý tức là pháp ám thị, cho nên bà mới khổ sở bảy năm
trời như vậy, cho nên đến chừng mà đút thòng lọng vô trong cổ đến gần chết rồi
bà cứ nhắc đi nhắc lại, bà tác ý lia lịa, đến chừng đó bà xả được cái tâm của
bà liền. Bà thấy đúng là pháp Như lý tác ý là cái pháp tuyệt diệu nhất chứ
không có gì hơn. Đó thì, hôm nay lấy cái bài kệ này thì các thầy đã biết cái
pháp nào mà các thầy tu rồi chứ gì? Cái gì mà tâm của quý vị nó
khuấy động thì quý vị phải biết nó động tâm vì cái gì chứ gì, mà nó động tâm gì
thì ngay ngay ngồi dậy thẳng lưng liền để mà đặt cái niệm đó trước mặt mà lấy
cái pháp Như lý tác ý đó mà tát tai cho nó văng ra đi, đừng có để nó ôm ở trong
bụng của quý vị thì quý vị sẽ thoát khỏi chứ gì? Cứ như vậy
mà tu tập thì vô lậu nó sẽ đến với quý vị chứ có gì khác hơn?
“Còn hơn sống hạ liệt
Làm chắc dây thòng lọng
Ta cột ở cành cây
Quàng thòng lọng quanh cổ
Tâm ta liền giải thoát”
Mau không? Các thầy thấy xỏ cái đầu vào dây rồi bắt đầu ở đó mà
quán, mới dùng Như lý tác ý ra, tất cả đều khổ, bây giờ có đứt cổ thì chết cũng
là khổ, có nghẹt họng cũng chết cũng là khổ, cho nên vì vậy mà bà quán riết
trôi ra hết tất cả, từ đó giải thoát.
Ðó thì, những cái gương hạnh của người tu nó gần gũi với chúng
ta quá chừng, mà gần cái pháp mà Thầy dạy cho các thầy quá đỗi. Mà cái người ta
không có tu tập mà người ta không có khai triển được cái gương hạnh này ra?
Những cái bài kệ bà ta viết rõ ràng, bà ghi lại ở trong kinh rõ ràng như vậy,
thế mà không có ai khai triển nổi ra những cái pháp tu hành này! Còn bây giờ,
vì cái sự kinh nghiệm tu tập, qua cái pháp hướng mà Thầy biết đó là Ám thị chứ
gì? Như lý tác ý chứ gì? Do đó Thầy khai triển ra thì đâu đâu nó cũng giống
nhau như là in rập khuôn hết. Cho nên các vị đều là những bậc Thánh tăng, những
bậc Thánh ni thời xưa, cũng đều là có những cái tu tập giống như mình không
khác, mà người ta đạt được cái kết quả là do cái pháp hướng chứ không phải gì.
Bởi vì chúng ta tu tập sai thì nó làm sao mà nó đúng được?
CÂU CHUYỆN BÀ PATACARA
Bây giờ Thầy nhắc đến bà Patacara, bà Patacara này là người ta
còn dịch cái tên theo cái âm của người Hoa đó thì bà có gọi là cái tên là Hoa
Ni Sắc Tỳ Kheo, mà cái tên này thường thường chúng ta hay nghe bà Hoa Ni Sắc Tỳ
Kheo. Ở đây, cái câu chuyện của bà thì dài dòng lắm, nó không có ngắn, nhưng mà
ở đây thì Thầy tóm lược lại để cho chúng ta biết để mà qua những bài kệ của bà
để mà chúng ta lấy kinh nghiệm mà tu tập thôi. Khi bà đến với đức Phật với một
tâm trạng đau buồn nhất, hai đứa con đã chết, chồng cũng chết, cha mẹ và đứa em
trai cũng chết. Nghĩa là đồng thời trong một cái ngày hôm đó là cả một cái gia
đình chết tan nát, chỉ còn một mình bà sống thôi. Đức Thế Tôn dùng kệ khuyên
bà:
“Nước bốn biển ít hơn
Nước mắt của loài người”
Đức Phật nói nước bốn biển nó còn ít hơn nước mắt loài người.
“Khóc than vì đau khổ
Vậy sao ngươi hủy hoại”
Nghĩa là bà đang ở trong cảnh đau khổ, hai đứa con chết, chồng
chết, rồi cha mẹ, rồi đứa em trai cũng chết, làm sao bà không khổ? Vì vậy mà
đức Phật có cái bài kệ để khuyên bà, thì đức Phật ví như nước bốn biển ít hơn
nước mắt của bà trong lúc này nữa, nhưng đức Phật có cái ý trách bà sao bà lại
quá ngu si vậy, khóc than để mà mình tự giết hại mình, hủy hoại cái sinh mạng
của mình sao? Nghe kệ xong, bà nguôi được cơn đau buồn. Bậc Đạo sư lại dạy
tiếp :
“Các con, cha, bà con
Không phải chỗ nương tựa
Khi thân hoại, mạng chung
Bà con, huyết thống ngươi
Không thể che chở ngươi
Thấy được sự thật này
Kẻ trí sống giới đức
Và mau chóng thành tựu
Con đường hướng Niết Bàn”
Đó, đức Phật nói là dù mình có thương, có gì đi nữa mà khi thân
hoại, mạng chung hoặc mình đau bệnh, mình già chết thì chắc chắn là bà con
huyết thống của mình, những người thân, cha mẹ của mình không thay thế mình
được cái điều đó đâu! Cho nên cái người trí biết thì phải sống với giới đức,
giới hạnh, còn cái người không biết thì không sống với giới đức, giới hạnh thì
không có thể nào mà hướng tới con đường mà Niết Bàn được.
“Và mau chóng thành tựu
Con đường hướng Niết Bàn”
Đức Đạo sư lại dạy tiếp:
“Người sống một trăm năm
Không thấy pháp sinh diệt
Tốt hơn sống một ngày
Thấy được pháp sanh diệt”
Nghĩa là Ngài khuyên như vậy để rồi Ngài cho một cái đề mục.
Ngài khuyên cho bà này và an ủi được bả rồi, bả hiểu được rồi là lấy giới mà
sống, khi mà sống được với Giới đức rồi thì cái người đó phải dùng cái Định vô
lậu mà quán xét, quán xét cái sự vô thường, cái sự sanh - diệt của các pháp,
cho nên cái bài kệ, bốn câu kệ này :
“Người sống một trăm năm
Không thấy pháp sinh diệt
Tốt hơn sống một ngày
Thấy được pháp sanh diệt”.
Chúng ta tuy là biết cái thân này nó vô thường, nó sanh - diệt
liên tục ở trong này, mà chúng ta biết, hiểu như vậy mà chúng ta không sợ hãi,
không có lo lắng tu hành mà cứ sống để cho nó sanh - diệt, sanh - diệt mãi.
Cho nên, coi như là sống dù một trăm tuổi mà không biết nó sinh
- diệt, như bây giờ chúng ta là những người chưa biết sinh - diệt, cho nên
chúng ta chưa dám ly gia đình, chưa dám bỏ của cải, chưa dám bỏ tài sản. Đó là
chúng ta chưa biết pháp sinh diệt, bởi vì tất cả các pháp sinh - diệt nó đều
thay đổi liên tục. Bữa nay nó là của mình, ngày mai nó là của người ta chứ còn
là của mình nữa sao? Thế mà mình cứ chấp là của mình, mình cứ ôm giữ nó hoài.
Cũng như bữa nay là vợ mình, ngày mai biết là vợ ai đây? Cho nên vì vậy mà mình
cứ ôm nó là vợ mình không à, mà không ngờ rằng ngày mai mình chết, ngày mốt nó
đi lấy thằng khác mất rồi! Mình đâu có biết được chuyện đó, vì nó là pháp sinh
- diệt mà? Nó đâu có phải là thường còn được? Cho nên có ông Trang Tử ông ấy vỗ
bụng ca đó, khi mà vợ ổng chết ổng đánh trống ổng vỗ: “Vợ chết trước là
vợ ổng, vợ chết sau là vợ người ta”.
Rõ ràng là cái lời của ông Trang Tử nói rất đúng về pháp sinh -
diệt, cho nên nó đâu có thường hằng được? Mình nghĩ là mình chết chắc vợ mình
nó ở vậy nó nuôi con thôi chứ, nhưng mà sự thật ra ba bữa sau nó chờ cho mình
chôn xuống mồ rồi, ba bữa sau nó đi theo thằng khác rồi. Cái điều đó là mình
không ngờ được cái sự sinh - diệt đó, thế mà mình cứ ôm ấp cho mọi cái là của
mình hết. Tiền của bữa nay do mồ hôi, nước mắt mình làm ra, chưa chắc gì mình
đã thọ hưởng hết được, tối mình làm ra rồi mình đem cất trong tủ, tối thằng
trộm nó vô nó lấy hay hoặc ăn cướp nó vô nó cạy họng, nó đánh mình u đầu, đổ
máu rồi lấy ra cũng sạch. Đó là pháp sinh - diệt, nó càng đem cái sự khổ đến
cho mình, cho nên ở đây đức Phật nói:
“Tốt hơn sống một ngày
Mà thấy pháp sinh diệt”.
Thấy được pháp sinh - diệt thì người ta vứt bỏ hết chứ người ta
đâu có thèm nữa? Nó là rắn độc mà, nó là thú dữ mà, tại sao mình cứ huân vô để
mình lấy khổ? Nó không giải thoát được! Cho nên ở đây, khi một người mà đã hiểu
được Phật pháp rồi người ta rất sợ các pháp sinh diệt! Mà các pháp sinh diệt là
gì? Là xung quanh chúng ta toàn là các pháp, nó luôn luôn sinh - diệt! Cho nên
chúng ta phải ra khỏi, ra khỏi cho mau chứ không phải là còn một phút giây nào
là đau khổ, cũng như là bây giờ Thầy còn cái thân này nè tức là Thầy còn đau
khổ chứ? Bữa nay nó không đau nhưng ngày mai nó đau.
Suốt cái thời gian mà Thầy giảng cho quý thầy, quý thầy thấy
Thầy cũng mệt nhọc, cũng khổ sở, cũng đủ thứ hết, cũng nhức đầu, cũng mệt cái
này, cũng mệt cái kia chứ đâu phải, đó là cái pháp sinh - diệt mà làm sao mà
bảo nó đừng làm cái chuyện đó được? Cho nên bỏ nó là chúng ta khỏe, vì vậy mà
bỏ nó tức là Thầy được giải thoát hoàn toàn, cho nên đâu có thiết gì cái thân
này mà phải trường thọ làm gì?
Khi nghe kệ xong, bà đặt cái pháp trạch pháp đó, bà lấy các pháp
vô thường sinh diệt, bà đặt thành một cái pháp hướng, cho nên từ đó bà quán cái
pháp hướng đó mà bà tu tập cái Định vô lậu, bà chứng được quả A La Hán liền tức
khắc. Các thầy thấy chưa, nội cái ông Phật, ông cho bốn cái câu kệ này là bà ấy
đã biết được đó là cái pháp hướng của bà rồi. Còn chúng ta nghe cái câu kệ này
chứ chưa biết đâu, phải không? Nhưng mà Thầy giải thích ra thì quý thầy biết
đây là một cái pháp hướng trạch ra cái câu này, tức là ông Phật ông ấy biết
không có thế nào mà không dạy cho cái bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo này mà hiểu được
cái pháp hướng này thì chắc là không hết cái lậu hoặc của bà ta đâu! Cho nên
ông Phật tiếp thêm cho bà cái câu trạch pháp ra, cái câu pháp hướng.
“Người sống một trăm tuổi
Không thấy pháp sinh diệt
Tốt hơn sống một ngày
Thấy được pháp sanh diệt”.
Do đó bà đặt cái câu này ra bà làm cái trạch pháp của bà, thì
hằng ngày bà dùng cái đó mà quét sạch cái tâm vô lậu của bà, cho nên bà chứng
quả A La Hán. Sau khi bà chứng quả A La Hán rồi thì bà cũng có làm một cái bài
kệ nói lên cái chỗ tu tập của mình:
”Với cày, cày ruộng đất
Gieo hạt giống trên đất
Loài người được tài sản
Nuôi dưỡng vợ và con
Sao ta giới đầy đủ
Làm theo Đạo sư dạy
Lại không chứng Niết Bàn?
Không sợ, không dao động
Khi ta đang rửa chân
Làm cho dòng nước chảy
Thấy được nước rửa chân
Từ cao chảy xuống thấp
Nhờ vậy tâm ta được định
Như ngựa hiền khéo luyện”.
Đó, thì khi mà đức Phật khuyên bà để cho bà không có buồn khổ,
rồi khuyên bà để bà thấy rằng các pháp thế gian không phải là chỗ nương tựa như
cha mẹ, anh em, huyết thống gì đó, không phải là chỗ nương tựa, của cải, tài
sản cũng không phải là chỗ nương tựa, nhưng mà bà cứ bà tu hoài mà sao bà thấy
rằng giới luật của Phật giảng cho bà như vậy, bà giữ giới luật như vậy. Bởi vì
trong cái bài kệ trước thì quý Thầy thấy có cái chỗ “Kẻ trí sống giới
đức” đó, cho nên bà giữ gìn giới đức của Phật dạy, cái giới nào bà
cũng giữ rất là nghiêm chỉnh, nhưng mà bà thấy sao mình lại không chứng Niết
Bàn? Làm theo lời Đạo sư dạy lại không chứng được Niết Bàn, mà tâm thì
không sợ, không dao động, không có buồn lo nữa mà sao vẫn không chứng?
Một hôm đó bà được đức Phật cho cái bài kệ tiếp bà cũng chưa hiểu
nữa. Cho nên bây giờ hôm đó bà đang rửa chân, bà rửa chân, rồi bà thấy cái dòng
nước mà nó chảy xuống, rồi thấy được nước rửa chân từ trên cao mà nó chảy xuống
thấp, “Nhờ vậy tâm ta định”, nghĩa là trong lúc đó bà mới nhớ lại
câu kệ này, tức là cái dòng nước nó chảy hoài, chảy hoài thì bà nghĩ
rằng nó chảy hoài tức là vô thường chứ gì?Đó, thì các pháp sinh - diệt đó
nó không còn cái chỗ mà một mực nữa, cho nên từ đó mà bà mới ngộ được bốn cái
câu ở bài kệ trên, do đó bà mới đặt nó thành một cái câu thiền quán vô lậu của
bà để cho bà quét sạch những lậu hoặc. Nhờ cái thực hiện rửa chân rồi bà, bởi
vì đức Phật nói mà bà chưa có hiểu, bà chưa có thấu đạt cái lý đó, từ cái chỗ
bà rửa chân, bà thấy nước nó chảy xuống, chảy xuống mà nó không có chảy lại được,
do đó bà mới thấy à cái dòng nước là cái dòng các pháp sinh - diệt, cho nên bà
ngộ được rồi. Bà ngộ được rồi thì cái tâm bà nó được định tỉnh rồi, được định
tỉnh rồi thì bà mới như thế nào để cho tiếp tục trên con đường tu hành của bà.
“Rồi ta cầm cây đèn
Bước vào ngôi Tịnh xá
Nằm trên chiếc giường nhỏ
Ta nhìn, quán ngọn đèn
Rồi ta lấy cây kim nhỏ
Dìm tim đèn xuống dần
Thấy cây đèn Niết Bàn
Tâm ta được giải thoát”.
Như vậy là như thế nào? Bây giờ cái ngọn đèn nó như thế này,
đang cháy ngọn lửa đó, bà lấy cái kim bà đè cái tim đèn cứ dần dần xuống thì
ngọn lửa cứ nhỏ dần, nhỏ dần cho đến khi cái tim nó bị lún sâu quá và ngọn đèn
nó tắt đi, thì bà thấy ngay đó là cái dòng sinh - diệt nó đã hết rồi. Các thầy
thấy, đó là qua cái kinh nghiệm tu hành của người ta, quán xét từng chút để
người ta thấy được cái tâm của người ta thay đổi từng chút từng chút ở trong
cái sự quán xét của Định vô lậu nó như vậy. Còn mình ngồi quán quán gì thì mình
cũng chẳng biết gì hết, còn người ta rất là vi tế ở trên cái sự tu tập của người
ta để người ta quán xét được cái chỗ tu tập đó. Đó là những cái bài kệ qua
những cái kinh nghiệm tu tập rất là vi tế khi mà chúng ta tu Định vô lậu. Chúng
ta phải xét từng chút, nếu chúng ta cứ đặt một cái câu rồi chúng ta quán thường
nó thì không có nhằm nhò gì hết.
Cho nên Thầy nói Thầy ngồi ở trên núi, ở trên cái Hòn Sơn đó,
Thầy ngồi mà Thầy dùng những cái sự quan sát những loài chúng sanh, Thầy thấy
như thế này, thế khác, nó làm cho tâm của Thầy nó mới có khởi lên cái lòng
thương yêu đối với chúng sanh sâu sắc. Còn các thầy không chịu ngồi quan sát
thì làm sao các thầy có lòng thương yêu đó được? Cho nên, ở đây chúng ta muốn
vô lậu thì chúng ta phải quan sát tất cả những sự kiện thay đổi, mà những sự
kiện thay đổi đó nó làm cho chúng ta sâu ở trong cái chỗ pháp, cho nên chúng ta
mới chứng được cái lý vô thường. Còn các thầy cứ nghe Thầy nói câu nào viết đó,
rồi cứ nhai đi nhai lại cũng như nhai bã mía vậy thì thôi thôi nó có vô thường
gì được? Các thầy hiểu điều đó không?
Cho nên Thầy mới thấy bà Hoa Ni Sắc Tỳ Kheo này thiệt là hay à!
Cái bài kệ này thật là tuyệt diệu, nó ở trong cái hành động để mà phá vỡ cái
lậu hoặc. Nếu mà không đem cái bài kệ này giảng cho quý thầy thì chắc chắn là
quý thầy cũng nhai lại bã mía của Thầy thôi chứ không có gì khác hơn, nhai hoài
mà lậu hoặc nó vẫn còn, cũng vẫn còn nhớ nhà nhớ cửa, cũng còn nhớ này kia mà
nó không hết. Đó, đến đây là chúng ta đã qua những cái gương hạnh của Thánh
Tăng và những bậc Thánh ni.
***
GIỚI HẠNH VÀ GIỚI ĐỨC
Tiếp tục trong cái phần giáo án hôm nay, để bổ túc thêm phần
Giới hạnh và Giới đức, quý thầy hãy lắng nghe cho kỹ ở phần
này để biết, mà giữ gìn và trau dồi thân, tâm đầy đủ Giới hạnh và Giới đức, để
không còn vi phạm một lỗi lầm nhỏ nhặt nữa, để tâm trọn vẹn lìa xa lòng ham
muốn và các ác pháp thế gian, để tâm sống trong cảnh giới thanh thản, an lạc mà
các bậc Thánh đang thọ hưởng, đang sống thầm lặng trong cảnh giới đó, cảnh giới
của Giới hạnh và Giới đức đã viên mãn.
Bây giờ quý thầy hãy lắng nghe những câu hỏi và trả lời, những
câu hỏi để truy tìm cái gốc tội lỗi, ngõ hầu để biết rõ dùng Giới hạnh và Giới
đức đập tan tành cái gốc khổ của loài người. Nghĩa là chúng ta phải truy tìm ra
khi mà học cái Giới đức và Giới hạnh xong thì chúng ta phải truy tìm coi những
cái gốc khổ và cái gốc mà làm cho con người đau khổ như thế nào. Mặc dù là
trong kinh Phật có nói là do cái lòng ham muốn là đau khổ, nhưng mà chúng ta
phải truy tìm cho nó sâu xa hơn nữa, chứ không thể nói đơn giản là do cái lòng
ham muốn đó, do cái tâm dục của mình là cái nguyên nhân sanh ra đau khổ, mà nó
còn có những cái chi tiết li ti nhỏ mà chúng ta phải thấu đáo. Nếu không có
thấu đáo thì chúng ta không có biết đường đâu mà chúng ta dẹp.
Bây giờ, đầu tiên có một câu hỏi và có một sự trả lời để chúng
ta theo đó mà chúng ta tìm ra xem cái lối nào mà cái tâm chúng ta nó đi đến cái
chỗ tham dục đó?
Tại sao con người lại sanh ra oán thù và đánh đập nhau bằng dao
gậy?Đó, vào đầu cái câu hỏi đầu tiên đó, thì chúng ta thấy cái sự
đau khổ của con người ở trên thế gian này là cái sự oán thù, cái sự đánh đập
nhau bằng dao gậy.
Bắt đầu để trả lời cái câu hỏi đó, sự sanh ra oán thù
và đánh đập nhau đều do lòng tham lam và ganh ghét.Do lòng ham muốn,
tham lam của mình, tham cái này, tham cái kia và cái sự ganh ghét đó nó mới có
cái sự đánh đập nhau, mới có sự thù hằn nhau. Thì chúng ta thấy nếu mà không có
lòng tham lam, không có sự ganh ghét thì làm sao đánh đập nhau? Đúng không? Đó
là câu trả lời rất đúng! Không thể nào mà chúng ta phủ nhận rằng cái câu trả
lời này là sai được.
Lòng tham lam và ganh ghét do đâu mà sinh ra?Người ta
lại đặt câu hỏi thêm cho mình thấy, bây giờ mình nói bây giờ có sự đánh đập,
cái sự thù hằn nhau là do lòng tham lam và ganh ghét thì ai cũng chấp nhận rồi.
Nhưng mà bây giờ người ta hỏi lòng tham lam và ganh ghét này ở đâu mà sanh ra?
Đó, tức là chúng ta phải truy ra thử coi nó ở chỗ nào? Thì đây
là câu trả lời Phật đã trả lời trong kinh để chúng ta thấy rất rõ, “Lòng
tham lam và ganh ghét là do thương, ghét mà sanh ra”,có thương,
có ghét thì mới sanh ra, chứ không phải là ngoài cái thương ghét mà nó có cái
lòng tham lam và ganh ghét được.
Thì người ta lại hỏi : thương, ghét do đâu mà sanh
ra?
Trả lời, thương, ghét là do tham dục mà sanh ra.Mình có
thương, có ghét là do cái lòng ham muốn của mình mới sinh ra. Bây giờ mình mới
thấy cái chỗ dục đó, truy ra từ cái chỗ mà oán thù, đánh đập đến cái chỗ tham
dục thì mình mới biết rằng thương, ghét này là nó do cái sự tham dục mà sinh
ra. Vậy chúng ta có thương cũng là do tham dục, mà có ghét cũng do tham dục. Mà
có thương, có ghét thì nó mới có tham lam và ganh ghét (BBT:BN,19,0:45:29),
(BBT:CĐ,20B,E00:43:27)mà có tham lam và ganh ghét thì nó mới có
đánh đập và oán thù. Đó, bây giờ mình đi ngược trở lại thì mình thấy rất rõ.
Rồi bây giờ người ta hỏi : tham dục do đâu mà sinh
ra?Đó, từ đó rồi bắt đầu mình mới trở về cái gốc của tham dục đó,
tức là Phật nói cái gốc muôn khổ đó. Vậy thì người ta hỏi tham dục
do đâu mà sinh ra?
Trả lời, do tưởng mà sinh ra!Mình tưởng
chứ nó đâu phải có thật? Mình tưởng ra, mình ham muốn cái gì đó rồi mình tưởng
ra chứ đâu phải khi không mà mình có ham muốn cái chỗ đó được? Mình tưởng ra,
mình tưởng ra nó đẹp, mình tưởng ra nó xấu, mình tưởng ra thế này, kia. Đó là
do tưởng mà sanh ra! Đúng không? Tham dục của mình do tưởng mà sinh ra chứ không
có tưởng thì chắc chắn không có. Cho nên cái người mà người ta dẹp cái tưởng
rồi thì người ta có tham dục nữa không? Người ta hết tưởng là hết tham dục mà
còn tưởng là còn tham dục!
Cho nên chúng ta biết cái người mà tu thiền định là phải dẹp
tưởng! Mà dẹp tưởng dần thì sẽ hết tham dục!
Tưởng do đâu mà sinh ra?Người ta hỏi tưởng do đâu
mà sinh ra?
Bắt đầu ở đây Phật mới trả lời “Tưởng do điệu hý mà
sinh ra”,điệu hý là cái gì? Các thầy có hiểu hai chữ này không? Đó,
điệu hý có nghĩa là hý là vui, thích vui, mà điệu hý là cái kiểu cách làm thế
này thế kia cho vui đó. Cũng như bây giờ mình thấy người ta đá banh cái mình
thấy mình thích tức là mình bị điệu hý đó rồi, bị điệu hý đá banh rồi. Thấy
người ta đánh cờ mình nhòm vô mình cũng ngứa nghề vô đánh cờ, thấy người ta bài
bạc mình cũng ngứa nghề, thấy người ta uống rượu mình cũng ngứa nghề mình vô
gọi là điệu hý! Đó, thấy không, cái đó là nó vui, nó đủ cái màn cách của nó gọi
là điệu hý của nó đó! Cái danh từ người ta dùng như vậy, mình hiểu như vậy là
nó gợi cho mình những cái vui thích, nó gợi cho mình vui thích. Do cái sự vui
thích đó nó mới do cái tưởng và cái tưởng này nó mới sanh ra cái tham
dục, nó mới có cái tham dục.
Mình tưởng cái đó là vui, đó cái điệu hý đó, tưởng do điệu hý
sinh ra, cho nên do điệu hý với mấy cái chuyện người ta làm đó, nó vui vẻ đó,
cho nên mình tưởng nó là vui, cho nên cái tưởng nó mới có sinh ra chứ biết đâu
chừng đó là cái chuyện đau khổ của người ta? Cho nên mình tưởng nó là ngon rồi
mà không ngờ mình vào đó là thấy mệt. Nhìn mấy thằng đá banh tưởng đâu là ngon
lắm chứ nó đá, Thầy thấy nó thở muốn chết nó luôn, đâu có sung sướng gì đâu?
Nhiều khi nó đá banh nó té ngã gãy chân, (BBT:CĐ,21A,B00:00:00)gãy
giò nó nữa, coi nó muốn chết chứ đâu có sung sướng gì? Thế mà ở ngoài thì người
ta vỗ tay khen, đó là điệu hý đấy! Thầy giải thích như vậy, dùng cái danh từ đó
như vậy thì quý thầy chắc hiểu nó rồi!(BBT:BN,19,E00:48:16)(BBT:CĐ,21A,E00:00:20)
(PHẦN TIẾP THEO ĐẾN HẾT TRÙNG VỚI
CÁC CHƯƠNG SAU)
(BBT:CĐ,21A,B00:00:20)(BBT:BN,19,B00:48:16)
Nếu người tu theo đạo Phật diệt trừ hết điệu hý, cho nên Phật
cấm mình không có cho vui chơi gì hết ấy, các thầy thấy không? Cho nên vui chơi
là nó điệu hý đó, nó sẽ không an trú được đâu!
Nếu người tu theo đạo Phật diệt trừ hết điệu hý, an trú trong
cảnh tịch diệt được chăng?Đó, bây giờ có cái người mà hỏi
đức Phật, bây giờ nếu mà nói như vậy thì là do cái này nó tưởng ra nó mới tham
dục, bây giờ mình muốn diệt tham dục thì tức là mình phải diệt hết cái điệu hý
này đi thì chắc chắn là nó hết chứ gì? Thì hỏi ông Phật và ông Phật nói “Không
có trừ bỏ được điệu hý mà có thể an trú cảnh giới tịch diệt”, nghĩa là ở
câu này Thầy xin đọc lại để cho nó rõ ràng hơn, nếu người tu theo đạo
Phật diệt trừ hết điệu hý, an trú trong cảnh tịch diệt được chăng? Hay
không trừ bỏ được điệu hý mà có thể an trú được trong cảnh giới tịch diệt được
chăng? Nghĩa là hai câu hỏi này nó rất là rõ ràng. Một câu hỏi thứ
nhất là nói mình diệt trừ hết điệu hý thì mình có an trú trong cảnh tịch diệt
được chăng? Mà hay là không trừ bỏ hết điệu hý này thì mình vẫn có thể an trú
được trong cảnh giới tịch diệt chăng?
Bây giờ đức Phật trả lời “Tu sĩ không trừ hết điệu hý
mà an trú trong cảnh giới tịch diệt thì sao được?”.Phải không? Nghĩa là
mình còn vui thì mình làm sao an trú trong cảnh tịch diệt được? Cho nên ông
Phật, ông trả lời một câu mà bằng cách là trả lời luôn cả hai câu. “Vì
thế gian có nhiều cõi, chúng sanh đều y cứ theo loại cảnh ấy và giữ gìn chắc
chắn không thể rời bỏ, đồng thời họ cho đây là thật, còn ngoài ra là hư dối”.Đó,
nghĩa là thế gian thì người ta chấp cứng trong những cái vui đó, cái điệu hý
đó, cho nên người ta cho những cái đó là cái vui, cái hạnh phúc của họ. Cho nên
ngoài ra thì nó không thật và là hư dối hết, chỉ có những cái đó là cảnh giới
của họ, dục lạc của họ, thích thú của họ mà thôi. Cho nên nếu cái người mà muốn
mà được ở trong cái cảnh giới mà tịch diệt, an trú ấy thì phải ly trừ hết những
cái điệu hý thì nó mới có an trú trong cái cảnh giới đó được! Vì vậy mà đức
Phật trả lời “Tu sĩ không trừ hết điệu hý mà an trú cảnh giới tịch
diệt sao được?”.Đức Phật nói như vậy thì chúng ta biết rõ.
“Vậy có bao nhiêu điệu hý?”,có người
hỏi đức Phật thêm, có bao nhiêu cái điệu hý đó?
“Có ba điệu hý. Một là về khẩu, hai là về tưởng, ba là về mong
cầu”.Quý thầy thấy ông Phật, ông dạy chúng ta từng cái chi tiết nhỏ
để chúng ta hiểu biết được, đó là chúng ta phanh ra để chúng ta diệt cái lòng
tham dục của chúng ta. Một người mà còn vui theo, thì tức là mình còn thích nói
chuyện với nhau là còn vui theo chứ gì? Mà còn vui theo tức là điệu hý rồi!
Nghe người ta thuật lại chuyện đông chuyện tây mình cũng khoái lắm chớ. Nghe
người ta thuật lại chuyện cổ tích rồi mình cũng nghe cũng thích chứ! Đó thì tức
là mình còn đang ở trong cái chỗ điệu hý. Đó là điệu hý về khẩu. Một là hại
mình! Cái sự vui chơi đó nó làm cho mình có hại nè. Rồi hai là hại người. Cái
chuyện mà vui chơi đó nó có thể làm hại người đó. Cái điệu hý đó nó có tên là
(..?.) 52:10, và ba là hại cả hai, nghĩa là hại mình và hại người. Trong cái
điệu hý đó nó có xảy ra về khẩu thì một là mình nói ra mà hại mình, hai là mình
nói ra hại người, ba là mình nói ra là hại cả hai (cả mình và cả người).
Đó là đức Phật phân tích cho chúng ta thấy là về cái khẩu thì
mình có những cái điều kiện đó. Nếu mà xả bỏ lời nói hại mình, hại người, hại
cả hai và nói đúng lời, nói chân thật, không hại mình, không hại người, không
hại cả hai thì chuyên niệm không tán loạn thành vô lậu. Đó, đức Phật nói mình
nói ra cái lời nói gì, miệng của mình mình nói ra lời nói mà hại mình thì không
nên nói, đó là điệu hý thứ nhất. Điệu hý thứ hai là nói ra lời nói mà hại người
thì không được nói. Mà cái điệu hý thứ ba là nói ra lời nói mà hại mình, hại
người thì không được nói. Cho nên mình phải nói như thế nào, nói như thế nào để
cho đúng cách. Nói lời nói đúng như thật, không hại mình, không hại người mà
không hại cả hai thì chuyên niệm không tán loạn thành vô lậu. Vậy thì
mình nói lời nói mà không hại ai hết thì cái đó nói sao quý thầy thấy chưa? Là
không nói! Phải không? Không nói là độc cư thì nó đâu có hại ai? Cho
nên bây giờ nó chuyên niệm chứ gì? Cho nên tâm không tán loạn! Còn mình
nói là tán loạn. Rõ ràng thấy không? Đó là mình diệt trừ cái điệu hý
thứ nhất về khẩu của mình đó! Có đúng không? Nhờ vậy là chúng ta biết
rằng diệt điệu hý tức là chúng ta sẽ diệt lòng tham của mình chứ gì? Đi
từ cái gốc nhỏ đó mà chúng ta diệt ra chứ gì? Vậy thì chúng ta sống độc cư,
không nói thì tức là không hại mình, không hại người mà không hại ai hết. Do đó
là tâm không tán loạn, thành ra vô lậu! Ta thấy chỉ nội cái miệng của mình mà
nó đã có được cái vô lậu rồi đó!
Về phần tưởng cũng có ba, tưởng mà hại mình, tưởng hại người và
tưởng hại cả hai. Nếu xả bỏ tưởng ấy và dùng tưởng như thật, không bị hại mình,
hại người, hại cả hai thì chuyên chú, nhớ mãi không quên, sáng suốt, thành vô
lậu. Đó, không tưởng! Các thầy nghĩ đức Phật dạy như vậy thế nào? Nghĩa là ngồi
đừng có tưởng tầm bậy! Mà không tưởng tầm bậy thì nó có hại ai đâu? Phải không?
Mà không hại mình, không hại người, không hại cả hai thì lúc bấy giờ có tưởng
nữa không? Mà không tưởng thì nó chuyên chú, nhớ mãi cái việc gì thì các con
biết không? Đó thì chỉ còn có cái tâm của mình thanh tịnh, yên lặng,
thanh thản đó thôi. Cho nên, sáng suốt thành vô lậu! Đúng không? Ông
Phật dạy rất đúng! Như vậy là mình phá cái tâm tham dục của mình rất là dễ dàng
đâu có gì khó? Biết cách làm như vậy, vì vậy cho nên bây giờ ngồi đừng có
tưởng, ngồi đây mà tưởng đến chuyện nhớ nhà thì cái đó là như thế nào? Điệu hý
rồi còn gì đâu? Nhớ cái này, nhớ cái kia là điệu hý rồi. Bởi vậy ông Phật ổng
dạy để chúng ta biết rất rõ những cái điều kiện để mà chúng ta ngồi một cái tâm
niệm của chúng ta chúng ta biết rằng nó thuộc về cái loại nào rồi!
Cho nên ở đây nếu mà Thầy không giảng cái này ra thì Thầy thấy
thiệt là cái lời ông Phật dạy chỉ là phí cho ông, ông mệt mỏi quá rồi! Ông
giảng ra cho chúng tỳ kheo trong thời đó mà bây giờ người ta chối bỏ cái này,
người ta nói cái gì mênh mông ở trên trời ấy mà không dạy cho chúng ta biết
từng chút này để mà chúng ta ly để mà chúng ta được cái tâm vô lậu. Mà thấy cái
này rồi chúng ta biết cái tâm tư của mình bây giờ nó ở trong tưởng này, tưởng
điệu hý này, phải không? Bây giờ miệng mình đang nói cái gì thì mình biết đây
là khẩu nè, là điệu hý nè, biết nói như vậy là hại mình, hại người và hại cả hai
nữa. Thôi thì im luôn cho rồi! Như vậy là mình ở trong cái chánh niệm của mình.
Đó, tức là nó thành vô lậu! Thì cái tưởng nó cũng như vậy cho nên nó cũng thành
vô lậu.
Về mong cầu cũng có ba, sự mong cầu của mình mà, mình ngồi mình
mong cầu cũng có ba cái điệu hý của nó, hại mình, hại người và hại cả hai. Nếu
xả bỏ sự mong cầu, thấy và mong cầu đúng cho thật, không hại mình, hại người,
hại cả hai thì mong cầu đúng như thế sẽ chuyên chú, nhớ mãi không quên thành vô
lậu.
Sự mong cầu mà không hại mình, không hại người và không hại cả
hai hết thì cái sự mong cầu đó là mong cầu cái gì quý thầy biết hay
không? Đó tức là mong cầu sự giải thoát nơi tâm của mình, là không
có ai dính mắc vào trong tâm của mình được hết, cho nên nó thành vô lậu. Có gì
đâu mà khó khăn khi mà nó mong cầu một cái gì khác hơn thì mình biết liền, mà
nó không mong cầu thì tức là nó ở trong thanh thản rồi, nó ở trong cái tâm rất
là an ổn rồi thì đó là vô lậu. Tâm niệm của mình chút nào là mình biết nó ở
trong cái chỗ nào. Thì như vậy là chúng ta đã thấy được những cái điệu hý của
nó rồi. Như vậy là biết được cái nguồn gốc để mà chúng ta tu về cái Định Vô lậu
để cho nó quét sạch vô lậu, để cho nó quét sạch cái tâm tham dục của chúng ta.
“Bậc Thánh hiền xả thân có ba”.Bây giờ
cái thân của chúng ta có xả ba cái cách của nó. Bây giờ hồi nãy là chúng ta do
cái điệu hý, bây giờ chúng ta lại xả vì cái thân của chúng ta. Một
là Hỷ thân, hai là Ưu thân, ba là Xả thân. Bây giờ đến cái giai
đoạn của những bậc Thánh hiền tu tập, hồi nãy là những bậc phàm phu đó là chúng
ta có những điệu hý, còn giờ là bậc Thánh hiền thì có vui nữa không? Có vui
điệu hý như chúng ta này nữa không? Không! Hết rồi! Vậy thì bậc Thánh hiền có
xả thân có ba là Hỷ thân, Ưu thân và Xả thân. Trong cái thân của chúng ta coi
vậy nó còn có cái Hỷ nè, còn cái Ưu nè, rồi còn cái Xả của nó nữa nè. Bây giờ
chúng ta là những bậc Thánh rồi, chúng ta đã xa lìa những cái tham dục của thế
gian rồi, bây giờ còn cái phần thân của chúng ta để nó như thế nào đây?
Cho nên bậc Thánh mới có ba phần này! Hỷ thân cũng có ba, hại
mình, hại người và hại cả hai. Bởi vì khi mà mình đã đứng vào trong những bậc
Thánh hiền rồi thì mình coi chừng cái thân của mình nó cũng có thể làm hại
mình, hại người và hại cả hai. Nếu xả bỏ hỷ ấy, chỉ dùng hỷ đúng như thật, không
hại mình, hại người và hại cả hai, nhờ đó chuyên chú mãi không quên, đây là thọ
Cụ túc giới. Bây giờ đó mới là một bậc Thánh hiền, mới gọi là thọ Cụ túc giới
đây, chứ không phải như hồi nãy là Vô lậu đâu mà đây là thọ Cụ túc giới, nó mới
đầy đủ cái giới, đầy đủ của cái vị tu sĩ đây. Nếu mà chúng ta dùng cái hỷ mà
cái hỷ đó nó như là chúng ta tu về cái Hỷ vô lượng tâm đó. Cái Hỷ vô lượng tâm
đó nó sẽ giúp chúng ta xả được không hại mình, hại người và hại cả hai. Cho nên
chúng ta biết cái hỷ đó là hoan hỷ, vui theo với mọi sự, mọi vật. Do đó chúng
ta không làm hại người nào hết, không làm khổ ai hết, không làm khổ mình, khổ
người nữa.
Do đó mà chúng ta đã thực hiện Tứ vô lượng tâm thì chúng ta thấy
cái hỷ này rất là cần thiết cho cái sự tu tập của chúng ta. Do đó thì chúng ta
nhớ mãi không quên do cái lòng hỷ này, đó là chúng ta mới thọ Cụ túc giới.
Về Ưu thân cũng có ba, hại mình, hại người và hại cả hai. Chữ Ưu
đây là cái sự buồn khổ đó, buồn khổ trong cái thân của mình. Thân mình nhức chỗ
này, thân mình đau chỗ kia, lói chỗ nọ đó là sự buồn khổ của cái thân đó. Nếu
xả bỏ Ưu thân này, dùng Ưu thân đúng như thật, không hại mình, không hại người
và hại cả hai. Đây gọi là thọ Cụ túc giới. Nghĩa là chúng ta dùng cái Ưu thật,
nghĩa là đừng có lấy cái đau khổ của mình mà làm cho mình khổ sở đó là
cái sai.Mà lấy cái đau khổ phiền toái của chúng sinh mà làm cái chỗ thương
xót, thì đó là chúng ta đã thọ Cụ túc giới đó. Như Thầy dạy Từ, Bi, Hỷ, Xả đó,
quý thầy tu tập về cái lòng thương yêu của mình đó. Đó là cái chỗ về Ưu thân có
ba đó, là không hại mình, hại người và hại cả hai. Tức là thực hiện tâm từ bi
của mình đó. Đó gọi là xả về cái Ưu thân của mình. Đây gọi là thọ Cụ túc giới
thứ hai.
Về Xả thân cũng có ba. Mình xả, có cái mình xả mà hại người, có
cái mình xả hại mình, có cái mình xả hại cả hai. Cho nên mình phải xét cái nào
mình xả, mình bỏ ra mà hại người khác. Cũng như bây giờ mình tính thôi bây giờ
mình bỏ đi, mình bỏ mình đi tu đi, mình xả bỏ hết của cải, tài sản đi, bỏ luôn
cả vợ con đi. Lúc bấy giờ vợ con không ai nuôi, không ai làm cho nó sống hết,
nó khổ sở. Đó, mình xả cái kiểu đó là mình xả hại người ta đó, chết đó! Bây giờ
con mình mới sanh ra, nó chưa có ai mà chăm sóc, chưa có ai lo lắng mình muốn
xả bỏ con đi đi thì lúc bấy giờ ai nuôi nó? Đó là mình xả như vậy là sai! Vì
vậy cho nên chúng ta khi mà xả những cái gì mà ở trong thân của chúng ta cũng
như xả một cái gì đó thì chúng ta phải sáng suốt, khéo léo. Cũng như bây giờ,
cái thân của chúng ta như thế này thôi bây giờ mình chặt cái đầu nó chết đi, nó
là vô thường đi, mình xả bỏ nó đi cho nó không khổ nữa. Cái điều đó là mình xả
ngu rồi chứ không phải là xả đúng. Cho nên vì cái sự xả đó mà làm khổ mình, hại
mình thì cái đó là Phật nói xả kiểu đó là xả thân mà hại mình thì đừng có làm
cái chuyện đó. Cho nên có một thời tỳ kheo mà nghe quán thân bất tịnh rồi họ
thấy cái thân này ghê gớm quá, họ mướn người khác đâm cho họ chết đi thì một
lúc sau đức Phật hay được cấm không có cho làm cái chuyện đó, không phải là cái
chỗ như vậy.
Đó thì chúng ta thấy trong cái bước đường, nói về xả thì chúng
ta phải sáng suốt xả mà không hại mình, không hại người mà không hại cả hai.
Chứ có nhiều người ham tu, xả, bỏ gia đình, bỏ chồng con, trời ơi! Tức tối gần
chết, vợ con gì nói nó không biết nghe, nó bỏ nó đi tu thì chắc là ông thầy
chùa nào quyến rũ như vậy, tao đốt chùa. Bởi vậy trong cuốn Diệu Thiện đó, mà
cô Diệu Thiện, cổ đi tu đó, cha cổ giận quá ổng đốt chùa. Ổng nói ông thầy
quyến rũ con ổng, công chúa đi tu ổng giận đốt chùa, cho ớn, cho ghét! Đây gọi
là thọ Cụ túc giới.
Về các căn, đầy đủ trong luật nghi của Hiền Thánh có chừng bao
nhiêu tâm? Có người hỏi, về các căn mà được đầy đủ trong luật nghi của Thánh
hiền có chừng bao nhiêu căn?
Đó, thì đức Phật cũng giải thích cho chúng ta thấy rằng về luật
nghi mà đối với các căn của chúng ta được đầy đủ của Thánh hiền, về mắt
thấy sắc, ta nói có hai. Nghĩa là đối với mắt ta thấy cái sắc, thấy các
pháp đó thì ta thấy phải có hai, để cho cái luật nghi của giới Thánh hiền nó
phải như thế nào đúng ở trong cái chỗ căn đó, cho nên đối với mắt thì nó có
hai.
Một là đáng thân cận, hai là không đáng thân cận. Đó thì các
thầy thấy khi chúng ta thấy một cái vật đó mà chúng ta đáng thân cận, mà khi
chúng ta thấy cái vật đó mà chúng ta không đáng thân cận. Thì chúng ta phải
thấy khi con mắt thấy cái vật đó mà chúng ta thân cận, mà thấy cái vật đó mà
chúng ta không nên thân cận, thì cái này nó là Luật nghi của Phật đó, cái luật
nghi của Phật. Mình thấy một cái gì đó mà gợi cái tâm dục của mình lên là không
nên đáng thân cận, mà thấy cái đó mà tâm dục của mình không có gợi lên và không
có ham thích đó, thì cái đó là đáng thân cận. Cũng như bây giờ các thầy vô đây
ăn ngày bữa cơm mà không cho quý thầy ăn phi thời ấy, thì cái đó là quý thầy
đáng thân cận. Thấy thực phẩm ở đây mà bắt đầu cho quý thầy không thấy thèm,
thấy khát cái gì hết đó, thì đó là đáng thân cận. Mà các thầy thấy còn thèm ăn,
còn này kia thì không nên đáng thân cận, vì cái chỗ đó không phải là cái chỗ
tu.
Cho đến tai nghe cũng vậy, mà mũi ngửi mùi cũng vậy, lưỡi nếm vị
cũng vậy, thân xúc chạm cũng vậy, ý duyên pháp cũng vậy. Nghĩa là
cũng có hai pháp, lúc thì cái mũi ngửi mùi của mình, cái tai nghe tiếng của
mình thì cái tiếng nào đáng thân cận, cũng như nghe Thầy thuyết giảng thì các
con nghe cái tiếng đó là đáng thân cận. Mà nghe ca, nghe hát, nghe mấy cô đào ở
thành phố mà phát đài á, các con mở đài ra nghe ca hát, trời du dương quá! Tám
câu vọng cổ, mười câu vọng cổ nghe trữ tình dữ tợn, nghe nó muốn xiều hết á,
thì các con nên dẹp những cái thứ đó đi! Cái đó là không có đáng nghe! Cái
tiếng đó là không có được nghe!
Còn những cái mùi thơm, mùi này mùi kia, mùi mà làm cho chúng ta
gợi lên cái thích ăn, thích mà gần gũi thì những cái mùi đó dẹp đi! Những cái
mùi vị của đạo thì nên là gần gũi, còn cái mùi vị mà của thế gian thì không nên
gần gũi!
Còn cái lưỡi nếm vị cũng vậy, vị ngon, vị đắng, vị này kia tất
cả, xa lìa nó đi, đừng có nếm những cái vị đó nó không có được! Phải nếm cái vị
Cam Lồ của cái sự tu hành của chúng ta mà thôi!
Thân xúc chạm cũng vậy, ý duyên pháp cũng vậy, cho nên nó cũng
có hai. Đó là quý thầy nhớ kỹ để mà chúng ta nỗ lực tu hành.
Đó là như thế nào? Mắt thấy sắc mà thiện pháp tổn giảm. Nghĩa là
đức Phật nói khi con mắt chúng ta thấy một cái hình ảnh đó mà cái thiện pháp nó
bị làm giảm xuống đi mà bất thiện pháp nó tăng trưởng thì không nên thân cận
cái đó. Bây giờ các thầy hiểu chưa? Mà bây giờ mắt nó thấy cái sắc đó mà cái
thiện pháp nó tăng trưởng. Bây giờ thấy thí dụ như có người ăn mày đi sang
đường của mình, đi ngang trước ngõ mình, mình thấy cái người đó đói khổ quá,
tội nghiệp, mình lấy gạo mình cho người đó, hay lấy cơm cho người đó, hay lấy
thực phẩm cho người đó, hay lấy tiền cho người đó thì cái đó là mình thân cận
cái đó!
Còn mình thấy một cái người uống rượu mà mình nhào vô mình uống
rượu với họ, thì thôi thôi đừng đừng thấy cái này thì thôi, đó là ác pháp nó
tăng trưởng rồi đó, mà thiện pháp nó giảm xuống thì mình tránh xa cái bọn uống
rượu đi! Như vậy đó là mình mắt thấy sắc mà thiện pháp nó tổn giảm thì ngay đó
là mình lui đi, thấy người ta bài bạc thôi đừng rớ vô vì đó là cái ác pháp rồi.
Bất thiện pháp nó sẽ tăng trưởng lên mà thiện pháp nó giảm, vì vậy cho nên mình
tránh xa đi!
Mắt thấy sắc mà thiện pháp tăng trưởng, bất thiện pháp tổn giảm
thì nên đáng thân cận! Đây là các căn đầy đủ luật nghi Thánh hiền. Đó thì quý
thầy thấy chưa? Bởi vì mình muốn cho cái luật nghi của Thánh hiền mình, cái oai
nghi, cái tế hạnh của luật của mình được đầy đủ thì mình có con mắt, tai, mũi,
miệng, thân, ý của mình đối với pháp nào mà đáng thân cận và pháp nào không
đáng thân cận. Thấy thiện pháp tăng trưởng thì thân cận, còn thấy ác pháp tăng
trưởng thì mình không được thân cận. Đó, Phật dạy cho mình từng chút để mình
giữ oai nghi, cái luật nghi tế hạnh của mình ở trong những cái chỗ mà mình có
thể tiếp xúc chứ đâu phải là đức Phật dạy luật nghi mà không có cái hiểu biết
như vậy thì quý thầy sẽ bị phạm hết sao?
Cho nên trong cái dạy về giới luật Thầy dạy rất kỹ về cái vấn đề
này để cho quý thầy thấy được cái chỗ tu tập của chúng ta trong cái giới hạnh cho
nó nghiêm chỉnh, biết được nó cái nào là đúng, cái nào là sai ở trong cái oai
nghi, chánh hạnh của bậc Thánh hiền.
“Có bao nhiêu cứu cánh?”,ở đây có người hỏi đức
Phật, “Có bao nhiêu cứu cánh?”.
“Bị ái làm khổ thân, tâm mà diệt được thì là cứu cánh”.Đức Phật
trả lời đó! Bị ái, tức là bị thương ghét, bị ham muốn làm khổ thân, tâm của
mình mà diệt được cái đó là cứu cánh!
“Vậy thì cứu cánh có bao nhiêu?”.
“Có ba cứu cánh!”.Đó, đức Phật phân tích cho chúng
ta thấy nó có ba cứu cánh. Bây giờ chúng ta diệt ái mà nó sạch rồi thì thân,
tâm của chúng ta không còn khổ được nữa, thì đó gọi là cứu cánh chứ không phải
là cứu cánh có một cảnh giới nào khác lạ hơn là cái chỗ mà chúng ta diệt cái
lòng ham muốn của chúng ta. Do đó, khi mà cái lòng ham muốn nó hết thì đó gọi
là cứu cánh. Nhưng mà nó có mấy loại cứu cánh? Ở đây Phật nói có ba loại cứu
cánh.
- Một là cứu cánh phạm hạnh.Cứu cánh phạm hạnh tức là
giới hạnh đó, các con thấy giới hạnh đó! Vậy thì cứu cánh phạm hạnh, một người
mà còn làm nghề nông nè, còn làm thư ký nè, còn làm thầy thuốc nè thì cái đó có
phạm hạnh không? Không có phạm hạnh! Cho nên nó còn bận tâm lo là đi vào rừng
đào rễ cây về vạt, rồi hốt, rồi bằm, sắc, sao, rồi đốt hay hoặc là tẩm rồi chế
cái này, chế cái kia ra rồi mới hốt cho họ thành thang để họ trị bệnh, thì như
vậy họ có cứu cánh không? Hay hoặc là họ đang bận công việc, họ đâu có giải
thoát đâu mà gọi là cứu cánh? Cho nên không thể nào mà gọi là cứu cánh phạm
hạnh được! Mà cứu cánh phạm hạnh thì gọi là giới hạnh.
- Cái thứ hai là cứu cánh an ổn.Cứu cánh
an ổn gọi là giới đức. Một người mà tu mà ngồi thiền định mà nhập từ Sơ thiền
đến Tứ thiền, có an ổn không quý thầy? Rất an ổn, hỷ lạc rất tràn đầy, lúc bấy
giờ ngồi như ở trên cái cảnh giới mà Thiên đàng chứ đâu phải là ngồi dưới đất
này đâu? Cho nên vì vậy gọi là Giới đức.
- Ba là cứu cánh Vô dư,đó là cứu cánh Vô dư, đó là Giới
tuệ. Cái cứu cánh Vô dư đó là Giới tuệ. Các thầy thấy, ba cái cứu cánh này nó
ứng với ba cái giới mà chúng ta đã học, Giới hạnh, Giới đức, Giới tuệ.
Đó, thì qua những cái bài học như vậy thì chúng ta đã thấy, biết
được con đường mà chúng ta tu tập nó phải đi từng bậc nào để đi vào trong những
cái giới luật mà chúng ta đã học.
Tiếp tục Thầy giảng thêm cái phần này để chúng ta thấy được con
đường mà tu tập giới luật của chúng ta nó thực hiện như thế nào để mà chúng ta
biết được cho nó rõ ràng hơn để mà chuẩn bị cho cái sự bước qua một cái giai
đoạn mà giới tuệ cho nó thông suốt. Chứ còn nếu không bước qua giới tuệ thì tức
là chúng ta thấy như mình ở trên trời xanh chứ chưa phải là ở dưới đất đâu!
NĂM DỤC TRƯỞNG DƯỠNG
Có năm pháp khiến dục lạc tăng trưởng!Hồi nãy
chúng ta nói dục đó, tham dục đó, thì bây giờ cái việc mà khiến cho dục lạc nó
tăng trưởng, có năm pháp khiến cho dục lạc tăng trưởng. Người tu sĩ Phật giáo
phải xem năm pháp này là dây xiềng xích, lòi tói trói chặt người tu sĩ, không
có vẫy vùng, khó mà vẫy vùng ra khỏi. Nghĩa là phải thấy năm pháp mà khiến cho
cái dục lạc của thế gian nó tăng thịnh ở trong tâm của chúng ta. Vậy năm pháp
đó là gì?
Những pháp, những sắc pháp do mắt cảm nhận khả ái, mỹ miều,
thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục lạc, ái lạc.Đó, thì
cái pháp nào, lẽ ra thì Thầy đã giảng ở trong cái chỗ mà ngũ dục lạc, rồi sáu
cái dục lạc sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đó, nhưng mà Thầy lướt qua cái chỗ
đó đi. Cho nên bây giờ Thầy nghĩ là nếu mà không nhắc lại sơ cái này coi như
lược sơ ấy, thì quý thầy, không có giảng cái phần đó thì coi như là hơi thiếu.
Thay vì phải giảng cái phần đó thì nó cũng quá nhiều cho nên Thầy không giảng
nhưng ở đây Thầy chỉ lược sơ để cho quý thầy thấy được cái chỗ mà sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp đó, đó là nó lôi hút, nó cám dỗ chúng ta cũng dữ lắm!
Nhưng ở đây, để xuyên qua trong cái phần mà giới luật của Giới
tuệ thì chúng ta nhắc lại cái phần này để chúng ta thấy được cái chỗ mà chúng
ta tiến vào con đường của đạo Phật.
“Những sắc pháp do mắt cảm nhận, nó làm cho chúng ta thấy khả
ái, mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục lạc và ái lạc”.Đó, thì
những cái pháp đó chúng ta thấy nó là những cái sợi dây mà xiềng xích, lòi tói
mà trói chặt chúng ta lắm đó! Coi chừng những cái hình ảnh, những sắc pháp đó
nó sẽ cám dỗ chúng ta mạnh lắm đó!
Những tiếng pháp do tai cảm nhận, những
cái âm thanh, tiếng pháp đó, coi chừng nó cũng có thể là những sợi dây xiềng
xích, lòi tói nó trói chặt chúng ta lắm đó!
Những hương do mũi cảm nhận, những hương thơm do mũi
cảm nhận, nó cũng là sợi dây xiềng xích, lòi tói trói chặt chúng ta đó!
Những vị do lưỡi cảm nhận, tức là những ngày mà chúng ta ăn
những cái món ăn ngon, dở, coi chừng nó trói chúng ta chặt lắm đó! Nó là sợi
dây xiềng xích, lòi tói rất là chặt đó!
Do xúc cảm nhận, do xúc thân cảm nhận,đó thì
những cái điều kiện đó nó là những cái sợi dây trói chặt.
Năm pháp này khiến cho con người chấp trước, mê đắm, bị trói
buộc, không thấy nguy hiểm của chúng, không nhận thức sự không thoát ly
chúng.Nếu mà chúng ta không nhận nó được thì nó sẽ trói buộc chúng ta rất chặt
chứ không phải là đơn giản đâu! Thường thường là chúng ta xem thường nó lắm,
nhưng mà rồi chúng ta sẽ bị nó trói chặt! Cho nên ở đây, Phật chỉ nêu lên năm
cái pháp để mà nó lôi cuốn, nó trói chặt chúng ta, nhưng chúng ta còn quên có
một cái pháp nữa, tức là cái pháp thứ sáu đó, do cái ý, ở
đây nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Thân thì có xúc, mà ý thì nó có cái khởi ra
các pháp. Cho nên cái pháp đó nó làm cho chúng ta trở thành những cái kiến
chấp, nó cũng ghê gớm vô cùng, nó trói chặt chúng ta. Biết cái pháp của mình là
sai chứ chưa dám bỏ đâu!
Khi mà mình nghĩ rằng con đường thiền của tôi tu đây là đúng của
Phật rồi, mà sự thật thì nó trật lất à, nó không đúng, mà họ nói đó là đúng
rồi, họ bỏ không có được, cũng như họ tu tập thiền xuất hồn, họ nói đây là xuất
hồn, tôi đã xuất hồn được rồi, cho nên từ đó họ không bỏ được. Đó là cái pháp,
cái pháp làm cho họ dính mắc, nó cũng cám dỗ dữ lắm! Khi mà đọc được một cái
bài nào đó họ thích thú, cũng chẳng hạn như là có người đọc sách của ông Krisnamurti,
trời ơi nó hay quá, quá chừng hay, do đó mở miệng ra cứ là Krisnamurti không
hà, mà cuối cùng thì ông ta chỉ có miệng không hà, chứ không có giải thoát như
Krisnamurti chút nào hết. Cho nên cuối cùng thì cái đó gọi là cái kiến chấp của
pháp, mà cái đó nó lôi cuốn cũng mạnh lắm! Hở ra chút nào thì ông ta vươn cổ
lên mà khạc ra ba cái thứ đó. Nó không phải là con đường mà giải thoát mà là
con đường tà kiến, một con đường sai mà lý luận nó nghe nó siêu việt dữ lắm,
cho nên từ đó chúng ta bị cái lầm chấp đó, chúng ta thấy nó hay cho nên chúng
ta bị dính nó rồi!
Nó cũng làm cho chúng ta thích thú, cũng say mê, cho nên nó trói
buộc chúng ta rất chặt. Cho nên ở đây thì Phật nói năm chứ sự thật nó là sáu:
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà! Chứ đâu phải là cái thứ thường đâu!
NĂM TRIỀN CÁI
Bây giờ tiếp tục, chúng ta sẽ học cái phần này, bởi vì chúng ta
nghe triền cáirồi nghe nào là kiết sửmà chúng
ta không hiểu nó thì chúng ta biết ở đâu mà chúng ta dẹp những cái triền cái
này? Bắt đầu chúng ta phải học cái này.
Có năm triền cái được gọi là chướng ngại, được gọi là màn che,
triền phược trong giới luật của bậc Thánh.Nghĩa là
năm cái này nó làm cho chúng ta, nó làm che mất cái giới luật nghi của các bậc
Thánh, nó làm cho chúng ta không giữ trọn được các giới của bậc Thánh là năm
cái triền cái này. Cho nên một cái người mà học về giới luật mà không thông
được năm cái triền cái này thì chúng ta bị nó che, bởi vì “cái” là cái màn che,
nó che ngăn, nó làm cho chúng ta không có thấy được, cho nên chúng ta phạm giới
chứ không phải gì hết. Còn chúng ta thấy được thì chúng ta không phạm giới. Cho
nên trong cái luật của bậc Thánh hiền mà khi mà chúng ta rõ được năm cái triền
cái này thì chúng ta không còn bị nó che mất cái luật của chúng ta đi. Còn nếu
mà không rõ thì nó bị che mất đi, nó làm cho chúng ta phạm giới.
- Một là Dục cái, tức là Tham cái đó;
- Hai là Sân cái;
- Ba là Hôn trầm - thùy miên cái;
Bốn là Trạo hối cái;
- Năm là Nghi cái.
Đó là năm cái được gọi là Ngũ triền cái đó! Năm cái triền cái,
năm cái sự ngăn che làm cho chúng ta mờ mịt, làm cho chúng ta phạm giới của bậc
Thánh hiền, đó thì đó là năm cái này.
Dục cái hay là Tham cái, tức là cái lòng ham muốn của chúng ta
nó ngăn che, nó làm cho chúng ta phạm giới. Bởi vì mình ham muốn, ví như mình
thấy một cục đường hay hoặc một miếng kẹo, cái bánh mình thèm ăn rồi thì bắt
đầu mình lấy mình bỏ vô miệng mình nhai và nuốt đi thì tức là cái lòng tham muốn
của mình đó đó mà nó che đi, làm cho mình phạm giới ăn uống phi thời, phải
không? Quý thầy thấy rất rõ, cho nên chỉ một chút xíu thôi là mình bị phạm
giới, chỉ một chút hà, nó ham muốn cái đó thì nó bị che giới luật đi đó là mình
bị phi thời.
Sân cái tức là cái tâm sân hận của chúng ta, giận dữ lên thì nó
làm chúng ta phạm vào những cái giới luật, lời ăn, tiếng nói của chúng ta thô
lỗ. Tức là nó phạm vào cái giới luật đó rồi. Nó chửi mắng người ta, nó nạt nộ
người ta, nó làm dữ tợn, thì đó là phạm phải cái giới luật của về khẩu nghiệp
của chúng ta. Cho nên chúng ta có phạm vào cái giới.
Ba là Hôn trầm - thùy miên cái. Hôn trầm là ngủ gục, Thùy miên
là ngủ. Những cái người mà ngủ này họ thường thường là họ bị phi thời. Cho nên
trong cái vấn đề Hôn trầm - thùy miên này nó mới sanh ra cái nghi, à cái si mà
cái si tức Si cái ấy tức là cái ngu si, cái vô minh thì gọi là hôn trầm ,thùy
miên cái tức gọi là si cho nên gọi là tham, sân, si á, nó là ba cái độc. Hôn
trầm, thùy miên là cái trạng thái của cái người ngu si, mà ngu si thì nó làm
cho người ta vô minh, người ta không có thấy cái đúng, cái sai, cái nào là hại,
cái nào không hại, cái nào là đúng chân lý, mà cái nào là không đúng chân lý.
Vì cái si mà làm sao đúng được? Cho nên do đó nó bị lầm chấp!
Cũng như bây giờ mình chấp một cái pháp nào đó, mình cứ cho nó
đúng, tức là do cái si mê của mình, bị cái kiến chấp. Cũng như mình lầm chấp
cái thân của mình, có cái ngã ở trong này, có cái thật ở trong này. Đó là cái
lầm chấp, mà cái lầm chấp đó gọi là si, si mê. Mà cái si mê đó nó hiện ra cái
tướng hôn trầm, thùy miên. Tức là cái người mà ngu si là cái người ham ngủ. Cái
người mà ham ngủ, ngủ gà ngủ gật là mấy cái người ngu si đó! Họ không có thông
minh. Mặc dù là họ thông minh cái gì kệ họ nhưng mà đối với Phật pháp, đối với
sự giải thoát, tu hành họ là người ham ngủ thì họ là cái người ngu si, họ không
sáng suốt được, họ không thấy được cái chân lý đúng là cái chỗ giải thoát. Cái
người mà ngu si mà hôn trầm, thùy miên đó thì cái người đó họ luôn luôn là
những hạng người chạy theo dục chứ không bao giờ họ thoát ra khỏi dục.
Bốn là Trạo hối cái. Trạo hối cái là những cái loạn tưởng, những
cái vọng tưởng nó liên tục, nó từ cái này đến cái khác. Nó làm cho họ nhớ,
tiếc, thương cái này, nhớ, tiếc, thương cái kia. Ngồi đây mà nhớ chuyện quá khứ
không thì cái chuyện đó là Trạo hối của họ. Gọi là Trạo hối cái, nó che làm cho
họ không có thấy được cái tâm của họ đang dày vò, đang đau khổ, đang nhớ cái
này, đang tiếc cái kia gọi là Trạo hối!
Cũng như mình đến mình học với ông thầy nào đó dạy mình nghi ông
thầy ổng chưa có tu chứng như thế này như thế khác, thôi mình học ít bữa mình
bỏ đi. Như mình thấy cái vị đó mình tu hành, mình đâu có hiểu được họ như thế
nào. Trong một ngày, hai ngày đâu làm sao thông họ được? Ông thầy này ổng ở bẩn
quá, không thể được! Rồi mình ở với ông thầy này, ổng lại khổ hạnh quá, mình ở
cũng không được! Ông thầy này ổng ăn uống ngày có một bữa như vậy, mình sống
sao nổi mà tu? Ông thầy này ổng làm cái kiểu cách của ổng chứ chưa chắc đã là
chứng! Do đó mình nghi ổng đi! Mình nghi ổng tức là mình phải bỏ ổng thôi, mình
không làm sao mà tu. Cho nên, những cái nghi đó nó che mờ mà mình không thấy
được cái (sự thật). Hoặc là ông thầy ổng thể hiện qua sự thử thách người đệ tử,
cái người đệ tử tưởng là ông thầy này còn phàm phu quá, thấy kiểu cách của ông
ấy không phải là bậc Thánh. Nhưng mà không ngờ là người ta thử thách mình,
nhưng mà cuối cùng thì mình bị người ta gạt mình, rồi mình đâm ra mình nghi. Từ
đó mình sẽ mất cái chỗ đứng của mình để mình tu tập.
“Bởi năm triền cái này mà người tu sĩ bị che khuất, bị trói
buộc, bị triền phược, bị chướng ngại khiến cho người tu sĩ phạm giới”.Đó, thì
năm cái triền cái đó nó sẽ làm cho cái người mà tu sĩ phạm giới, đều là do năm
cái triền cái đó.
NĂM HẠ PHẦN KIẾT SỬ
Vậy thì chúng ta đã biết được năm cái triền cái rồi thì bây giờ
chúng ta học thêm năm cái Hạ phần kiết sử. Bởi vì về Kiết sử thì nó
có Năm hạ phần kiết sử và Năm thượng phần kiết sử. Nếu mà chúng ta không học
thì chúng ta làm sao biết được? Do đó chúng ta thấy Triền cái nó cũng giống, mà
lại là Kiết sử nó cũng giống, nó cũng giống như nhau, nó không khác nhau. Chỗ
nào là Kiết sử, mà chỗ nào là Triền cái? Chúng ta phải phân biệt được cái chỗ
này!
Năm hạ phần kiết sử : Một là Tham, hai là Sân, ba là Si,
bốn là Mạn, năm là Nghi.
Tham tức là hồi nãy là Dục cái đó, chúng ta thấy nó che ngăn,nó
làm cho chúng ta không thấy, gọi là Cái. Mà nó làm cho chúng ta bị trói buộc,
bị dính mắc đó, thì đó là Kiết sử. Kiết sử có nghĩa là nó trói chúng
ta, rồi nó sai chúng ta, nó làm cho chúng ta chạy theo nó, gọi là Kiết sử. Cho
nên, khi mà chúng ta bị một cái tâm tham mà nó kiết sử á thì chúng ta bị nó
trói chúng ta, rồi nó sai chúng ta, gọi là Kiết sử. Mà khi một cái tâm tham mà
của chúng ta nó bị mờ ám, nó làm cho chúng ta phạm giới thì cái đó là Dục cái.
Chúng ta không rõ cho nên do cái tâm ham muốn đó mà nó xảy ra, nó làm cho chúng
ta phạm giới. Đó là Dục cái!
Chẳng hạn như bây giờ mình bị che mờ, mình thấy một cái cô phụ
nữ đi ngang qua, trong tâm mình khởi lên có cái tâm dục thì do đó mình bị cái
tâm dục mình nó che đi, tức là cái tâm tham dục nó che đi, do đó cái ý mình
khởi lên thấy cô ta đẹp. Chứ mình chưa khởi gì hết, thấy cô ta đẹp thì ngay đó
là mình bị che mờ đi do cái ý đó mà mình đã bị phạm giới. Còn bây giờ thì Kiết
sử nó lôi chúng ta chạy theo cười cợt, nói chuyện với cô ta rồi đó, thì cái
chuyện đó là Kiết sử! Bây giờ nó lại gần hơn đó, hồi đó nó che chúng ta, rồi
chúng ta không thấy, chúng ta mới khởi ý thích thôi thì bắt đầu cô này ngó mình
một cái, liếc qua, rồi mình cũng ngó theo, mình liếc theo bắt đầu bây giờ đi
theo gót cô ta tìm cách gợi chuyện nói. Thì như vậy đó là mình đã bị Kiết sử,
nó trói mình đó.
Sân nó cũng vậy, mà Si, ở đây chỗ Si mà gọi là Năm hạ
phần kiết sử thì Phật còn gọi một cái tên là Giới cấm thủ. Giới cấm thủ
nghĩa là cái Si nó làm cho mình dính mắc, giữ gìn cái đó trở lại, nó làm cho
ḿnh không có thấy nên ḿnh không có buông ra được, mình không có ly ra được.
Đó, chạy theo hoài mà không có biết mệt mỏi. Đó gọi là Si, cho nên
Phật còn gọi là Giới cấm thủ.
Mạn tức là ở đây Phật còn gọi chữ Mạn đó là Thân kiến, nghĩa là
mình chấp cái thân của mình. Cái phần mà Năm hạ phần kiết sử này là thay vì Mạn
là ngã mạn, là kiêu mạn, thì ở đây cái Mạn của Năm cái hạ phần kiết sử này thì
Phật cho là Thân kiến, tức là mình chấp cái thân của mình là có thật, ở trong
cái thân này nó có cái thật ở trong này. Ở trong cái thân Tứ đại này nó có cái
thật ở trong này, cho nên đó gọi là Thân kiến, kiến chấp, tức là chấp cái thân
có thật.
Cho nên chữ Mạn đây là chỉ cái Thân kiến chứ không phải Mạn là
ngã mạn, cao ngạo, mà đây là Thân kiến. Cho nên Năm hạ phần kiết sử đây mình
chấp cái thân mình là có, vì vậy mà những cái vật chất xung quanh là cái năng
sở của nó, nó trói buộc mình, làm cho mình bị cái Mạn này.
Nghi thì chắc chắn là lúc nãy Thầy có giảng ở Nghi cái rồi, bởi
vì cái nghi này khi nó nghi rồi bắt đầu nó cứ theo dõi này kia nọ, nó đủ cách
nó lôi cuốn mình đó, gọi là Nghi. Mà cái Kiết sử thì nó lôi mình đi theo cái sự
Nghi đó mà nó không bao giờ mà rời, gọi là Kiết sử. Cho nên đây gọi là Năm hạ
phần kiết sử!
NĂM THƯỢNG PHẦN KIẾT SỬ
Năm thượng phần kiết sử thì như thế nào?Một là Sắc
tham, hai là Vô sắc tham, ba là Mạn, bốn là Trạo cử, năm là Vô minh. Vô minh ở
đây chúng ta phải hiểu nó là Si đó, là Hôn trầm, thùy miên như hồi nãy đó, là ở
trên cái Cái kia, còn chữ Si ở Năm hạ phần kiết sử này là Giới cấm thủ tức là
bị dính mắc, nó không rời ra được, nó giữ chặt, bị nó trói buộc ở trong cái vật
chất, cái giới đó rồi. Nó làm cho chúng ta chặt ở trong đó. Cho nên cái Si này
nó bị mờ mịt, nó không thấy, nó vô minh không thấy mà cứ cho đó là cái chấp của
mình, như mình bây giờ Thân kiến, mình chấp cái thân này thật mà mình bị Giới
cấm thủ của cái Si cho nên mình coi nó là thật, ai nói gì mình cũng chẳng nghe
hết. Tức là mình bị Si, tức là Giới cấm thủ đó!
Còn ở đây, còn ở Năm thượng phần kiết sử này, Sắc
tham nghĩa là có một cái hình ảnh, có một cái sắc tướng nào đó làm cho mình
chạy theo cái sắc đó, trói buộc mình chạy theo sắc đó tức là Sắc tham. Vô sắc
tham tức là mình ngồi, mình tưởng tượng ra cái hình sắc này, hình sắc kia thấy
thích thú ở trong đó, đó là kiết sử nó Vô sắc tham. Ba là Mạn, Mạn tức là ở
trong chỗ này là cao mạn, kiêu mạn chứ không phải Mạn là Thân kiến nữa đâu!
Nghĩa là nó coi mình là trên hết đó! Thì cái Mạn cũng có nghĩa là Thân kiến, mà
cũng có nghĩa là cao ngạo, mà cũng có nghĩa là chấp ngã. Trạo cử, Trạo cử như
hồi nãy mà ở chỗ Trạo hối đó. Trạo cử là nó lăng xăng, nó nghĩ chuyện này đến
chuyện kia, lung tung đó.
Đó là Năm thượng phần kiết sử! Thì cái triền miên của cái tư
tưởng nối tiếp nhau nó gây cho chúng ta có cái sự liên tục, trói buộc nhau ở
trong cái triền miên suy nghĩ đó thì cái đó gọi là Trạo cử của Kiết sử, Năm
thượng phần kiết sử. Vô minh tức là Si thì Si vô minh thì nó cũng giống như
những cái Si kia, nhưng mà cái Si này nó thể hiện qua cái chỗ vô minh, mờ không
thấy rõ năm cái Thượng phần kiết sử này, là không có thấy rõ cái chân lý giải
thoát của đạo Phật. Còn cái Si hồi nãy á, nó là cái Hôn trầm, thùy miên, đó là
cái sự ngu si của một cái mất tỉnh thức, nó không sáng suốt.
Còn cái chỗ Vô minh này nó có minh, cái chỗ vô minh của thượng
phần kiết sử này là người đó có thể là một nhà bác học, có thể là một nhà tiến
sĩ học rất thông minh, thông minh mọi mặt của thế gian nhưng mà họ không có
thông minh cái con đường giải thoát của họ, không có trí tuệ hiểu biết chân
thật như Bốn cái chân lý của Phật là Khổ, Tập, Diệt, Đạo, cho nên họ không giải
thoát được họ, vì vậy cái Vô minh này gọi là Si, họ không thấy được cái chân lý
giải thoát và họ thấy toàn là chạy theo cái danh lợi, chạy theo cái danh của
thế gian, cái lợi của thế gian, cái sắc của thế gian, cái ăn, cái uống, ngủ của
thế gian. Họ làm cái gì họ cũng lo phục vụ cho những cái đó thì họ gọi là Vô
minh chứ họ thông minh lắm chứ đâu phải, họ làm ông giám đốc, bà giám đốc không
chứ đâu phải làm nhỏ đâu? Họ làm ông lớn không chứ không phải làm nhỏ, nhưng mà
họ vẫn vô minh là vì họ không giải thoát.
Cho nên chữ Si của Năm thượng phần kiết sử thì chúng ta phải
hiểu chữ Si này nó nằm ở chỗ nó là chạy theo những cái thông minh của dục lạc
chứ không phải là Si theo cái kiểu mà buồn ngủ như mấy cái thằng làm biếng đó
đâu, như là Triền cái đó đâu! Đó thì phải hiểu như vậy thì chúng ta mới hiểu
được những cái danh từ ở trong kinh điển của đạo Phật đã chỉ cho cái tên của nó
như thế nào!
BẢY KIẾT SỬ
Và về phần Kiết sử mà gọi chungthì đức Phật có cho nó là bảy cái
kiết sử. Nghĩa là hồi đó thì năm cái Hạ phần kiết sử rồi năm cái Thượng phần
kiết sử, tức là mười cái Kiết sử, nhưng mà đức Phật tóm lạithì cho
chúng ta biết rằng có bảy cái Kiết sử. Đó là, một là Ái kiết sử, hai là
Sân kiết sử, ba là Kiến kiết sử, bốn là Nghi kiết sử, năm là Mạn kiết sử, sáu
là Hữu tham kiết sử, bảy là Vô minh kiết sử.Đó, thì chúng ta thấy nó rõ
ràng là bảy cái Kiết sử này mà gồm chung nó là mười cái Kiết sử kia là Năm hạ
phần kiết sử và Năm thượng phần kiết sử. Gồm lại thì nó chỉ có bảy kiết
sử, tắt lại thì có bảy kiết sử mà thôi!
Ở đây, thì những kiết sử cũng là Ái kiết sử tức là Dục kiết sử
hay là Tham kiết sử thôi chứ không có gì. Sân thì biết rồi, Kiến thì Thân kiến
biết rồi, Nghi thì quý vị cũng biết rồi, Mạn thì cũng biết rồi, Hữu tham kiết
sử mà Hữu tham kiết sử thì các vị cũng biết rồi, mà Vô minh kiết sử thì cũng
biết rồi, Hữu tham tức là có khởi một cái lòng ham muốn. Hữu là có nghĩa là có
khởi một cái lòng ham muốn, tức là có kiết sử liền tức khắc.
BẢY TÙY MIÊN
Nói như vậy là chúng ta đã rõ hết là bảy cái Kiết sử. Vậy thì rõ
biết bảy Kiết sử thì chúng ta phải rõ thêm bảy Tùy miên.Tùy
miên đây không phải Thùy miên là buồn ngủ. Còn Tùy miên, Tùy là theo, Miên là
liên tục. Theo liên tục, cho nên cái này gọi là theo liên tục đó! Thì gọi là
Bảy tùy miên. Cho nên có nhiều người không hiểu thấy trong kinh sách có chỗ sao
để Thùy miên và có chỗ sao lại để Tùy miên? Họ không hiểu! Họ không hiểu cái
danh từ chỗ người ta dùng và người ta cũng không hiểu bởi vì chữ Tùy với chữ
Thùy nghe nó gần như là cái âm nó gần giống nhau, nhưng mà cái nghĩa nó cách xa
lắm! Chữ Thùy là nó ngủ, mà chữ Tùy là nó theo! Đó phải hiểu như vậy để rồi
chúng ta mới thấy được bảy cái chỗ Tùy miên này, nó có bảy Tùy miên chứ không
phải có thùy miên, hôn trầm, thùy miên không. Cái kia là ngủ nghỉ, ngủ gục
thôi. Nó khác!
Cho nên bảy Tùy miên này nó như thế nào?
Một là Dục ái tùy miên,nghĩa là cái lòng tham ái, tham
dục của mình nó miên man, nó thích thú ở trong đó, nó kéo dài thích lắm, nó kéo
dài cái thời gian liên miên ở trong đó. Cái người mà có cái tâm dục nó miên man
ở trong những hình ảnh của các cô gái mà khiêu gợi họ đó, họ không bao giờ quên
những hình ảnh đó. Cho nên nó làm cho họ miên man ở trong cái chỗ thích dục đó!
Sân tùy miên cũng vậy.Người ta chửi mình, cái bắt đầu
suốt ngày đó nó cứ ở trong lòng nó cứ liên tục phiền não, phiền não hoài gọi là
tùy miên Sân đó, đó là mình phải hiểu cái chỗ đó! Ngay sân rồi thì mình dứt đi
liền, không, để nó kéo dài từ ngày này đến ngày khác, ba bốn bữa mới cười cười
được một chút, chứ cái mặt nó sầu. Đó là nó bị tùy miên Sân đó!
Kiến tùy miên cũng vậy,luôn luôn lúc nào mình cũng chấp
những cái ý nghĩ của mình, cái gì của mình đúng luôn luôn mình cứ cho nó đúng,
luôn luôn liên tục hoài cái gì cũng cho đúng đó. Coi chừng cái đó nó kéo dài
mình mà nó không bao giờ cho mình thoát ra khỏi những cái tà kiến nữa! Nhiều
khi những cái tà kiến của mình mà mình cứ cho mình đúng rồi mình cứ miên mật,
cứ luôn luôn liên tục ở cái chỗ đó mà mình cho nó là đúng, đúng, đúng, không
bao giờ sai hết. Ai nói gì cũng trật, chỉ có mình là đúng thôi! Thì cái đó là
cái tùy miên đó, Kiến tùy miên.
Nghi tùy miên cũng vậy.Nghi người nào thì nghi chết thì
thôi hà, không có chịu suy nghĩ con người ta có đúng có sai, người ta có ăn
trộm hay không mà cứ nghi người ta ăn trộm, cứ để nghi người ta ăn trộm hoài mà
người ta có ăn trộm đâu? Đó là Nghi tùy miên!
Mạn tùy miên cũng vậy!Ngã mạn, cống cao, luôn luôn lúc
nào hở ra cũng nghênh mặt ở trên trời, đi thì không ngó dưới đất mà ngó lên
trời coi thiên hạ không ra cái gì, coi ngýời ta nhý kiến cỏ đó. Ðó là Mạn tùy
miên!
Hữu tham tùy miên.Lòng ham muốn của chúng ta, có cái
gì cũng ham muốn liên tục ở trong đầu, thấy cái gì cũng ham, thấy cái gì cũng
ham, gọi là Hữu tham tùy miên. Thấy vật gì nhỏ, lớn gì cũng tham hết, cũng đem
nhét cất hết, đó là Hữu tham tùy miên đó!
Vô minh tùy miênlà luôn luôn lúc nào cũng không
thấy hiểu biết gì hết à. Cái gì cũng chấp, cái gì cũng dính, cái gì cũng mắc
hết á. Lúc nào nó cũng miên mật ở trong cái đầu của người đó hết, thì đó gọi là
Vô minh tùy miên, không có hiểu cái gì hết! Cái gì cũng bị dính mắc hết!
Đó là những cái phần mà chúng ta học về những cái từ để chúng ta
biết được những cái trạng thái của tâm của chúng ta nó rơi vào ở trong cái
trạng thái nào của Kiết sử, của Cái, của Năm triền cái, của bảy cái Tùy miên.
Chúng ta biết được những cái chỗ đó để mà chúng ta biết được cái tâm niệm của
mình nó đang ở cái dạng nào mà chúng ta diệt trừ nó chứ không có để. Nói như
vậy nó quá nhiều, quý thầy cũng khó nhớ, do đó quý thầy cũng cần
phải đọc đi đọc lại nhiều lần để nhớ những cái này.Khi tâm chúng ta
khởi ra, chúng ta biết nó nằm ở trong cái Kiết sử nào, cái Dục cái nào như thế
nào thì chúng ta mới loại trừ nó ra được, còn nếu không thì chúng ta khó mà
loại trừ ra được!
Bây giờ Thầy đọc lại chỗ Tùy miên để cho các con kiểm tra lại
bảy có phải không? Một là Dục ái tùy miên, hai là Sân tùy miên, ba là
Kiến tùy miên, bốn là Nghi tùy miên, nghi là nghi ngờ đó, năm là Mạn tùy miên,
sáu là Hữu tham tùy miên, bảy là Vô minh tùy miên. Đủ rồi phải không?
GIỚI TUỆ
Để tiếp tục cái chương trình giáo án này, quý thầy học đến Giới
tuệ. Sau thời gian đã qua, đã được học Giới hạnh, Giới đức và bây giờ
là học Giới tuệ. Giới tuệ phải được đặt trên nền tảng của Giới đức, nếu không
đặt trên nền tảng Giới đức thì khó mà xây dựng ngôi nhà Giới tuệ được.
Nghĩa là không tu tập xong Giới đức thì không thể nào tu tập Giới tuệ được. Cũng
như các thầy không tu tập Giới hạnh được mà vội tu (BBT:CĐ,21A,E00:44:17)Giới
đức thì khó mà tu tập được. Ví như trường học ngoài đời có ba cấp, một
là Tiểu học,(BBT:CĐ,21B,B00:00:00) hai là Trung học, ba là Đại
học. Nếu học chưa xong Tiểu học thì làm sao lên Trung học học được? Nếu học
chưa xong Trung học mà lên Đại học thì làm sao học được? Vì vậy quý thầy muốn
tu theo đạo Phật thì quý thầy phải tu tập lớp Sơ thiện tức
là Giới hạnh. Khi đã tu tập lớp này xong mới tiến lên lớp Trung
thiện - Giới đức. Sau khi đã tu tập xong lớp Trung thiện xong thì
quý thầy mới tiến lên lớp tu tậpHậu thiện là Giới tuệ.
Đó thì quý thầy thấy nó phải có từng bước từng bước, cũng như
bây giờ thí dụ như cái lớp mà Sơ thiện là cái lớp Giới hạnh, mà cái lớp Giới
hạnh thì quý thầy biết rằng đó là cái lộ trình của người tu sĩ. Bây giờ quý
thầy còn ở trong chiếc áo của cư sĩ, còn gia duyên còn làm những công việc, còn
bao nhiêu nghề nghiệp để sinh sống thì thử hỏi quý thầy không có thực hiện cái
lớp đó mà bây giờ cho quý thầy ngồi cái lớp Giới đức để tu thiền định thì có
được không?
Như vậy là quý thầy không có học cái lớp Tiểu học mà nhảy lên
Trung học học thì ngồi đó chỉ ngó thôi chứ làm cái gì? Người ta cho bài ra thì
chỉ còn có nước cắn ngòi bút chứ làm sao mà làm? Đó thì quý thầy thấy điều đó
là một cái điều mà quý thầy đã lạc ở trên con đường tu tập. Cho nên
cái ba y, một bát mình chưa xong mà mình vội mình ngồi tu thiền thì chẳng qua
là mình đi vào cái thiền ma, thiền quỷ thôi chứ làm sao mà thiền gì đúng được?Bởi
vì đức hạnh của con người là cái Giới hạnh, là phải dẹp tất cả cái đời sống của
thế gian mới đi vào cái con đường này được!
Bởi vậy đến Giới tuệ, quý thầy mới thấy cái lực của Giới tuệ nó
tuyệt vời không thể nào tưởng tượng được là vì người ta phải dẹp hẳn cái cuộc
sống của thế gian, hoàn toàn là người ta thực hiện cái đời sống của bậc tu sĩ
rồi. Do đó mới đến cái Giới tuệ này chúng ta mới thấy nó là cả một cái sự siêu
việt của con người chứ đâu phải là tầm thường?
Cho nên muốn đi được vào cái chỗ này mà quý thầy còn sống ở
trong thế gian thì thử hỏi làm sao mà quý thầy được? Cho nên cái lớp Sơ thiện
mà không được thì làm sao mà học cái lớp Đại học – cái lớp Giới tuệ được, cái
lớp mà Hậu thiện được? Đâu có phải chuyện dễ đâu?
Lẽ ra người dạy đạo tu hành không thể dạy mênh mang như thế này
được.Nghĩa là đối với Thầy là một người mà dạy đạo thì không bao giờ
mà dạy mênh mang. Nhưng vì cái giáo án tu tập của đức Phật đã có sẵn mấy ngàn
năm, nghĩa là cái giáo án của Phật đã để lại trong kinh sách của chúng ta mấy
ngàn năm chứ không phải là ít, hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm chứ đâu phải
ít? Thế mà đến bây giờ chưa có ai sắp xếp lại được những cái thứ lớp này. Cho
nên ở đây vì vậy mà Thầy phải dạy mênh mang như vầy chứ còn lẽ ra mà dạy đạo là
tùy theo căn cơ của mỗi người. Bây giờ đến đây là phải sống đúng cái hạnh của
người tu. Nghĩa là phải bỏ hết của cải, tài sản, dẹp hết những nghề nghiệp, đến
đây chỉ ôm bát đi xin mà thôi, thì cái đó là cái Giới hạnh thứ nhất!
Cho nên chấp nhận được thì vô tu, còn không chấp nhận được thì
thôi chứ còn tu lơ mơ mà như thế này thì tốn của đàn na thí chủ chứ có ích gì
đâu? Nó có đi đến chỗ nào được đâu? Cho nên khi mà chấp nhận cái đời sống mà
xuất gia tu hành rồi thì phải ba y một bát rồi. Đó là cái Giới hạnh!
Về cái Giới đức thì bắt đầu bây giờ mình đã ly được rồi thì ngay
đó cái Giới đức mình có thể tiếp tục mình tu được rồi, đâu có gì khó đâu? Đó
thì quý thầy thấy cái điều kiện tu tập nó phải rõ ràng. Còn bây giờ mà thầy dạy
mênh mang như thế này thì thử hỏi cái lớp mình có ai dứt được chưa? Chưa à!
Phần nhiều là chúng ta còn đang ở trong lưng chừng chứ chưa phải là rõ nét đâu,
khó lắm chứ không phải dễ!
Đó, nhưng vì giáo án tu tập của đức Phật đã có sẵn mấy ngàn năm
nhưng chưa ai sắp xếp có lớp lang, có kỹ thuật, thấy sao thấp cao cho rõ ràng
để người tu tập được dễ dàng, vì thế Thầy phải sắp xếp có lớp lang, có kỹ thuật
nên mới dạy mênh mang như thế này. Vả lại nếu Thầy không làm điều này thì nhìn
trước, nhìn sau còn có ai làm được và làm sống lại giáo lý của đức Phật? Nghĩa
là bây giờ nhìn trước, nhìn sau thì Thầy thấy chưa có một vị thầy nào, chưa có
một người nào mà có thể gánh vác cái trọng trách này được! Cho nên buộc lòng
Thầy phải dạy cái cách thức mênh mang như thế này nè. Chuyện mà các thầy chưa
tu tới mà phải nói á, gọi là dạy mênh mang đó! Thay vì tu tới đâu Thầy dạy tới
đó chứ không phải là dạy như cái kiểu này được! Cho nên ngày xưa đức Phật dạy đệ
tử của Ngài cũng vậy. Khi tu tới đâu thì Ngài dạy tới đó, mà người nào chưa tu
tới thì Ngài chưa có dạy tới những cái mà chưa có thể mà dạy cho họ được. Còn
bây giờ vì có những cái điều kiện cần phải làm cho nên Thầy phải làm mà thôi!
Chứ dạy như thế này nhiều khi gieo vào trong tâm tư của quý vị những cái tưởng
giải trong đó không hà, những cái tưởng tượng của các vị trong đó không hà, chứ
không phải là cái tốt lành gì đâu!
Cho nên Thầy không có mong muốn làm cái điều này. Cho nên từ cái
ngày mà Thầy tu hành xong ấy, Thầy ra thất, Thầy không bao giờ Thầy muốn viết
một bài kinh nữa. Thầy đã hiểu biết cái lầm lạc đó vì viết bài kinh là giết
người ta chứ chưa phải là độ người ta đâu! Vì khi mà người ta hiểu nó hay là
người ta bị dính nó rồi. Rồi khi mà người ta chưa tu tới đó, người ta tập chưa
có căn bản, đầu chưa có mà người ta tập, người ta thấy cái hay đó, người ta bắt
đầu người ta tập cái đó thì cái tưởng của người ta sẽ sinh ra. Mà nó sinh ra
thì nó là ma chướng của họ chứ đâu phải là chuyện dễ? Cho nên viết kinh sách là
một cái tai hại! Cho nên thời đức Phật Ngài không có viết kinh sách và người
nào tu tập tới đâu là dạy tới đó rồi sai thì Ngài nhắc nhở chứ cũng không cho
ai lấy lá buông hay hoặc là lấy lá thốt nốt mà ngồi viết chữ lên đó hết để mà
ghi nhớ lại như bây giờ đâu!
Còn bây giờ chúng ta ghi nhớ như vậy, nó làm cho đầu óc của
chúng ta không có sống độc cư, không có sống trầm lặng được! Thường thường là
chúng ta hay quên, mà chúng ta tu tập vốn tu tập chứ không phải vốn để
nhớ. Tu tập để giải thoát chứ không phải là nhớ một cái bồ chữ đó đâu,
một cái tủ đựng kinh sách đó đâu! Cho nên chúng ta vốn để nhớ, nhớ để
nó trở thành cái tâm của chúng ta trở thành một cái tủ đựng kinh sách, từ đó
mới giải thoát nó không có. (BBT:CĐ,21B,E00:05:55)
(BBT:CĐ,21B,E00:05:56)... toàn là có tri kiến mà
thôi. Đó là cái tai hại khi mà Thầy dạy đạo Thầy biết cái này rất là rõ ràng,
không có phải là một cái chuyện đơn giản. Vì vậy mà vì vấn đề mà giáo lý của
nhà Phật bây giờ phải sắp xếp mà nhìn trước nhìn sau thì ai mà làm cái này, cho
nên Thầy phải buộc lòng mà làm, làm với cái sự bất đắc dĩ của mình chớ không
phải làm với cái sự cầu danh cầu lợi ở trong này. Thầy chỉ mong có người tu
hành chứng đạo chứ không phải mong cho người ta có kiến thức hiểu biết như thế
này đâu. Cho nên cái viết ra là một cái tai hại rất lớn, cái nói ra mà
khi người ta chưa tới là một cái điều rất tai hại cho tư tưởng, làm hư hoại tâm
hồn của họ, làm hư hoại tư tưởng của họ.Họ hiểu rồi, nó dính mắc ở trong
đó, nó khó mà giãy dụa, cho nên họ đâu còn thanh thản được. Họ bị lời nói của
Thầy, họ bị những dòng chữ của Thầy làm cho họ bị chi phối tâm hồn của họ. Cho
nên họ đâu còn là một tờ giấy trong sạch nữa, họ bị Thầy gạch mực ở trong đó
quá nhiều ở trong đó rồi. Cho nên những điều này là điều bất đắc dĩ mà Thầy
phải làm thôi.
Bây giờ quý thầy bắt đầu tu, học tập Giới tuệ.
Khi tu tập Giới đức xong thì toàn thân của quý thầy chỗ nào cũng
được thấm nhuần, thuần tịnh, trong sạch. Nghĩa là khi mà tu tập Giới Đức rồi
thì thân tâm của quý vị nó thuần tịnh, nó thấm nhuần, rất là trong sáng và
thanh tịnh, rất là sáng suốt. Nghĩa là lúc bấy giờ khi mà Giới Đức mà
thực hiện xong rồi thì nó thuần tịnh lắm! Tâm hồn của quý vị nó không còn
ô nhiễm một chút gì ở thế gian, nó không còn có khởi một sự ham muốn dục lạc
của thế gian, mặc dù là có bao nhiêu sức cám dỗ của nó cũng không lôi cuốn được
quý vị nữa. Cho nên nó gọi là thuần tịnh, thấm nhuần, thuần tịnh, trong sáng.
Đó, thì bắt đầu bây giờ quý vị mới học Giới Tuệ thứ nhất của cái tâm này đây!
“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền
não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản”.
Như vậy nghĩa là lúc bây giờ cái tâm của quý vị nó đang ở trong
cái trạng thái như vậy đó. Những cái danh từ mà Thầy chỉ đọc ra đây để cho quý
thầy nghe được cái tâm của mình như vậy đó. Thầy đọc lại một lần nữa để quý
thầy xét cái tâm của mình khi đã tu Giới Đức xong thì luôn luôn cái tâm của quý
vị bao giờ nó cũng ở trong cái trạng thái này:
Với tâm định tĩnh- rất định tĩnh, không có gì làm
cho nó chao động được hết, thuần tịnh- thuần là thanh tịnh, nó
không còn bị cái gì mà dơ bẩn ở trong đó, cho nên nó không cấu nhiễm,
không phiền não, nhu nhuyến- nhu là mềm, nhuyến là nó mềm dẻo, dễ
sử dụng- cái tâm của quý vị bây giờ dễ sử dụng, sai sao nó làm vậy hết, nó
không bao giờ có chỗ cứng đầu cứng cổ như bây giờ đâu, vững chắc-
luôn luôn nó rất vững chắc, cái sự nhu nhuyến đó nó mềm dẻo vậy chứ nó rất là
vững chắc, nó không có bị chao động, nó bình thản, nó thản nhiên, nó thanh
thản, nó không cái gì làm mất cái sự bình thản, thản nhiên của nó được. Đó là
lúc bây giờ các vị đã học tu tập được cái Giới Đức rồi thì cái tâm của quý vị
nó đến ở mức độ này. Mà nó đến ở mức độ này thì quý vị mới tập luyện
được cái Giới Tuệ, chứ còn nếu không thì quý vị không bao giờ mà thực hiện được
cái Giới Tuệ này đâu.
“Lúc bây giờ vị Tỳ kheo dẫn tâm hướng đến Chánh trí, Chánh
kiến”.Bây giờ chúng ta mới dẫn tâm, tâm nó được thanh tịnh như vậy rồi
thì quý vị mới dẫn cái tâm của quý vị đến Chánh trí - tức là trí chân chính của
quý vị, rồi cái Chánh kiến - cái hiểu biết chân chính của quý vị thì vị ấy biết
rõ, biết rất rõ. Nghĩa là người đó mà dẫn cái chánh trí với chánh kiến của mình
thì biết rất rõ:
“Thân này của ta là do sắc pháp, do bốn đại mà thành, do cha mẹ
sanh mà có, do nhờ cơm cháo nuôi dưỡng mà lớn, nhưng nó lại vô thường, biến
hoại, phiền toái, đoạn diệt, hoại diệt. Trong thân này chỉ có thức uẩn là bị
trói buộc, là bị quên mất”.
Nghĩa là khi người đó mà có sức định tĩnh của tâm như vậy rồi
thì hướng tâm đến Chánh trí thì bây giờ mới nhìn thấy cái thân này nó rõ ràng
như vậy và biết được cáithức nó đang bị trói buộc trong
cái thân này, nó đang bị trói buộc ở trong đó và nó bị lãng quyên mất đi và bây
giờ nó đang hiện ra được. Đó, thì bây giờ mới thấy được cái chỗ mà Thức
thức nó đã từ lâu chúng ta nói thân ngũ uẩn của chúng ta mà, Sắc – Thọ
- Tưởng – Hành – Thức đó, thì cái Thức này từ lâu nó nằm ngủ yên đó, nó bị trói
buộc, cột chặt, không làm việc gì được hết. Tất cả mọi “thằng khác” thì
làm việc, còn riêng nó thì nó nằm im lìm đó, nó như là ngủ quên vậy, như người
ta không có nhớ nó được vậy. Thì đó là khi mà chúng ta dùng cái sức định tĩnh
của tâm chúng ta mới nhìn thấy được cái Thức của chúng ta nó đang bị ngủ quên,
bị trói buộc từ lâu tới giờ vậy đó.
Bây giờ là lúc cần thiết dùng đến nó, nó sẽ làm các phận sự mà
ta sai bảo trong khi tu tập Giới Tuệ. Đó, bây giờ nhìn nó mình thấy nó từ lâu
bị trói buộc, nó bị bỏ quên lãng đi, vì vậy bây giờ mình mới cần thiết mình mới
dùng nó để cho mình sai nó làm những phận sự sau này, cho nên mình sai nó cái
gì thì nó cũng nghe theo hết.
Như vậy là khi mà chúng ta dùng được cái Chánh kiến, Chánh trí
chúng ta mới quan sát lại nó, khi mà tâm chúng ta đã ở trong cái thanh tịnh,
cái thuần tịnh này thì chúng ta mới có sai được cái Thức thức của
chúng ta, mới dậy nó làm việc ở trong cái Giới Tuệ của nó mới được.
“Ví như một hòn ngọc lưu ly bảo châu đẹp đẽ, trong suốt, có tám
mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Một
sợi dây được xâu qua hòn ngọc ấy, sợi dây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng
hoặc màu nâu chúng ta đều nhìn thấy rõ sợi dây ấy màu gì, rõ ràng, không sai
một chút nào”.
Nghĩa là đức Phật ví như cái lúc mà cái tâm của chúng ta thuần
tịnh như vậy mà chúng ta hướng đến chánh trí, chánh kiến mà thấy cái Thức của
chúng ta bị trói buộc, bị ngủ quên, giống như chúng ta xỏ một sợi dây qua một
hàng ngọc bảo châu trong suốt, cho nên sợi dây màu vàng là chúng ta thấy vàng,
màu xanh là chúng ta thấy xanh, màu đỏ chúng ta thấy đỏ, nó không có thấy màu
khác và không có mờ mịt chút nào hết. Đó là đức Phật đem cái ví dụ như vậy để
chúng ta thấy rằng cái tâm mà chúng ta thuần tịnh rồi thì chúng ta mới dùng cái
tri kiến và cái chánh kiến, cái chánh trí của chúng ta, chúng ta thấy được cái
Thức của chúng ta, thấy được cái thân này vô thường, biến hoại, nó luôn
luôn là bị hoại diệt, thay đổi, nó làm cho chúng ta phiền toái, đau khổ và đồng
thời cái mà chúng ta đang cần dùng nó thì nó bị bỏ quên đi.Đó là cái Thức
thức của chúng ta bị bỏ quên đi, chúng ta không thấy, nó bị trói buộc, nó bị bỏ
quên, nó không có làm việc gì được hết. Bây giờ là lúc chúng ta cần thiết phải
đánh thức nó dậy, phải dựng nó dậy để sai bảo nó làm công việc trong sự tu tập
Giới Tuệ của chúng ta. Nghĩa là chúng ta muốn tu tập Giới Tuệ thì chúng
ta phải đánh thức Thức của chúng ta dậy thì chúng ta mới tu tập được Giới Tuệ.Còn
Thức thức chúng ta không có dậy thì không có tu tập được Giới Tuệ. Đó, quý thầy
hiểu chưa?
Mà khi đó chúng ta phải thực hiện Thiền định rồi thì chúng ta
đánh thức nó dậy. Mà Thiền định tức là Giới Đức, mà Giới Đức xong thì mới có
được cái này. Còn nếu mà Giới Đức chưa xong thì thử hỏi làm sao có được.
Hôm nay quý thầy đã thấy từng cái chỗ mà chúng ta vô cái đoạn
đầu chúng ta đã đánh thức được cái Thức thức của chúng ta bằng cái chánh trí,
bằng cái chánh kiến của chúng ta.
“Đó là Giới Tuệ thứ nhất trong Giới luật của đức Phật mà cũng là
một kết quả tu tập thiết thực hiện tại của vị ấy”.Nghĩa là
cái vị ấy mà tu được tới chỗ này là cái Giới Tuệ của vị ấy đã đánh thức được
cái Thức thức dậy rồi. Đó là một cái kết quả thiết thực, hiện tại của vị ấy.
Cái kết quả rất là vi diệu. Đó là cái Giới Tuệ thứ nhất. Đánh thức được cái
Thức đó là lúc bây giờ mới dùng cái chánh trí và cái chánh kiến mà đánh thức nó
dậy, làm cho nó bật dậy bằng cái gì?Bằng cái pháp hướng.
Đó là Giới Tuệ thứ nhất chúng ta phải tiếp tục ở trên con đường
tu tập để đánh thức cái Thức thức của chúng ta dậy, để sai cho nó tiếp tục ở
trên con đường mà thực hiện những cái Giới Tuệ của nó, tu tập những cái Giới
Tuệ của nó.
“2. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm,
không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ kheo
chú tâm hướng đến sự hóa hiện một thân do ý làm ra, vị ấy tạo ra một thân khác
từ thân này, cũng là Sắc pháp, đầy đủ các chi tiết lớn nhỏ, không thiếu một căn
nào, cũng ví như người rút một cây lao ra khỏi vỏ lao, cũng ví như người rút
thanh gươm thanh kiếm ra từ bao kiếm, cũng ví như người lột xác một con rắn”.
Đó, khi mà chúng ta đến đây chúng ta thực hiện cái Giới Tuệ của
chúng ta mà cái Giới Tuệ thứ hai này là chúng ta sai cái Thức thức của chúng ta
phải làm việc. Bây giờ từ ở trong một cái thân này phải biến ra một cái thân
khác, hiện ra một cái thân khác mà làm cho được đầy đủ cái thân đó cũng là Sắc
tướng cũng vậy, rồi các căn nó cũng vậy, lớn nhỏ mắt tai mũi miệng nó cũng y
như cái thân của chúng ta mà nó hiện ra nó ngồi ý như hai người ngồi như là
một. Như vậy là chúng ta đã thực hiện được cái Giới Tuệ thứ hai của chúng ta.
Đó là cái phần thứ hai để nói lên cái sức làm chủ, sai khiến của cái trí tuệ
của chúng ta lúc bấy giờ điều khiển thân và tâm của chúng ta nó phải thể hiện
qua cái trí tuệ của chúng ta chứ không còn làm sai khác được cái ý của chúng
ta.
“Đó là Giới Tuệ thứ hai trong Giới luật của đức Phật mà vị ấy đã
đạt được một kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu và thù thắng”.
Các thầy nghĩ coi bây giờ từ chỗ Thiền định mà nhập Tứ thiền rồi
mình ngưng các hành trong thân của mình rồi, mình ngưng hơi thở mình rồi thì
bắt đầu cái tâm của mình nó thuần tịnh rồi thì bắt đầu mình dùng tri kiến mình
đánh thức cái Thức thức của mình dậy. Mình đánh thức cái Thức thức mình dậy rồi
bắt đầu mình sai khiến nó, bắt đầu mình dùng nó. Bây giờ nó sử dụng cái thân
này phải biến ra một thân nữa y như nhau, cũng có các căn mắt tai mũi miệng
thân ý đàng hoàng, mặc y áo giống nhau, thì nó ra nó ngồi đây một cái thân nữa.
Lúc bây giờ quý thầy thấy cái Giới Tuệ nó như thế nào? Có thù diệu không? Có vi
diệu không? Mà nó thiết thực, nó cụ thể, nó hiện tại chứ không phải nói cái chuyện
mù mờ, vu vơ đâu! Lẽ ra cái này khi nào mà quý thầy tu tới đây Thầy mới giảng,
và đồng thời giảng thì phải có một người thực hiện cho được. Còn cái này thật
ra thì đây là xếp thành một cái giáo án chứ nó chưa phải là quý thầy tu tới.
Chứ trong thời đức Phật nói ra là có chứng minh liền tức khắc chứ không phải
nói vu vơ như thế này! Còn bây giờ mà Thầy làm trò xiếc cho mấy thầy coi thì
cái điều đó là cái điều quá là ngu si chứ chưa phải là người biết Phật pháp.
Cũng như bây giờ thí dụ như nói về Tẩu hỏa nhập ma thì phải có một người bị thì
cái đó là chứng minh cho cụ thể, còn như hồi nãy Thầy đã nói lẽ ra thì không
được giảng mênh mông như thế này mà chỉ giảng những cái nào người ta tu tập mà
thôi. Còn giảng mênh mông như thế này nhiều khi nó làm cho người ta bị lạc
hướng mất đi, người ta tưởng tượng quá nhiều.
Nói đến cái Giới Tuệ này thì Thầy thấy nó là siêu việt, người
thế gian không thể lường được. Thành ra Thầy nói tới đây dường như người ta nói
Thầy nói láo, nhưng mà nó là một sự thật! Nó không phải là nói láo đâu! Bởi vì
kinh sách của Phật còn đặt, nhưng mà bây giờ cái người thể hiện ra thì chưa có
ai thể hiện cho nên người ta vẫn nói đó là Phật cũng là nói láo chứ không phải
là không nói láo. Nhưng mà Thầy đã biết cái điều nói láo hay không nói láo,Thầy
biết chứ làm sao ai biết được.
Cho nên hôm nay vì cái giáo án mà buộc lòng Thầy phải giảng hết
những cái gì mà Phật đã dạy ở trong Kinh, không thể nào mà thiếu một cái gì và
bỏ một cái gì được. Vì đây là một cái đường đi của đạo Phật đã để lại cho chúng
ta là một cái gia tài rất quý báu mà không giảng hết thì Thầy thấy có một cái
lỗi của mình là nhìn tới nhìn lui không ai làm được cho nên phải nói.
Bây giờ về cái phần Giới Tuệ thứ ba.
“3. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền
não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Tỳ kheo dẫn tâm
hướng đến Dục Như Ý Túc, (Bây giờ tới Tứ Như Ý Túc đó, bây giờ là Dục Như Ý Túc
đó), vị ấy chứng được Dục Như Ý Túc, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân
hiện ra một thân”.
Trước thì đức Phật chỉ ra Giới Tuệ đầu tiên là một thân hiện ra
một thân, các căn mắt tai mũi miệng đều y, quần áo đều mặc y giống nhau không
khác. Đó là mới có biến ra một thân mà thôi. Các thầy thấy phải đi tuần tự chứ
không thể nào mà nghe nói cái biến ra nhiều thân một lần được đâu! Chúng ta
phải tập tuần tự, cho nên khi mà chúng ta hướng ra một thân biến ra một thân
được rồi thì bắt đầu bây giờ mới tới giai đoạn chúng ta một thân biến ra nhiều
thân. Bây giờ nó mới tới Dục Như Ý Túc đó!Chứ hồi đầu nó chưa phải Dục Như Ý
Túc đâu!Chúng ta mới tập luyện cho cái Thức thức của chúng ta sống dậy biết
điều khiển mà thôi, chứ chưa phải hoàn toàn là đủ cái Dục Như Ý Túc đâu! Bây
giờ bắt đầu chúng ta mới tới nữa thì chúng ta mới thấy được cái Giới Tuệ thứ ba
này chúng ta mới thấy một thân nó hiện ra nhiều thân.
“Một thân hiện ta nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân”, nhiều
thân nó gộp lại một thân rồi một thân nó hiện ra nhiều thân, “hiện
hình, biến hình, đi ngang qua vách đá, qua tường, qua núi như đi ngang qua hư
không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước
không chìm như đi trên đất liền, ngồi kiết già đi trên hư không như con chim,
với bàn tay chạm rờ mặt trăng mặt trời, những vật có đại oai lực, có đại thần
lực”.
Như vậy nghĩa là đức Phật ví dụ như mặt trăng mặt trời nó cao
xa, nó lớn như vậy đó mà bàn tay của chúng ta vói tới chúng ta rờ mặt nó được.
(Kiểu này chắc rờ mặt trời chắc cháy tay). Có đại oai thần như vậy có
thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên.Lúc bấy giờ cái người đó có thể bay đến
cõi phạm thiên được.
“Ví như một người thợ gốm khéo tay với đất sét, khéo nhồi
nhuyễn, có thể làm các loại đồ gốm tùy theo sở thích”.Đức Phật
ví như người tu tới Giới Tuệ thứ ba này họ cũng như một người thợ đồ gốm khéo
tay, với cục đất sét mà nhồi rất nhuyễn rồi thì cái người thợ gốm này muốn làm
cái chum, cái chén, cái gì họ làm cũng được hết, thậm chí họ nắn cả tượng Phật
hoặc bình sứ, bình bông cái gì họ khéo tay cũng làm được hết. Thì ví dụ như
chúng ta tu tới đó bây giờ chúng ta muốn làm cái gì cũng được hết, không phải
72 phép biến như là Dương Tiễn, cũng như là Tôn Ngộ Không đâu! Có 72 à! Còn ở
đây nó vô lượng chứ đừng có nói! Quý thầy phải hiểu rằng đường lối của đạo Phật
không phải tập luyện có 72 phép biến đâu! Mà đây là chúng ta muốn cái gì được
cái nấy hết, cho nên ví như một ông người thợ gốm mà với cục đất sét ông nhồi
rất nhuyễn rồi bây giờ ông chỉ có nắn, ông muốn nắn con bò, con trâu, con voi,
con ngựa gì cũng được hết à. Một người đạt đến chỗ này thì họ muốn nắn cái gì
cũng được hết như vậy đó!
“Ví như một người thợ ngà voi khéo tay với ngà voi đẽo dũa có
thể làm các loại đồ ngà tùy theo sở thích”.Nghĩa là người thợ đó khéo
tay thì lấy cái ngà voi đó họ làm cái gì cũng được, không có gì khó khăn đối
với ông hết. “Ví như người thợ vàng (thợ kim hoàn đó) khéo tay với vàng
khéo tinh luyện có thể làm tất cả đồ trang sức bằng vàng tùy theo sở thích”.Đó
là đức Phật ví dụ như những người làm ra những điều đó thì cũng như là chúng ta
đang ở trong một cái tâm định tĩnh như vậy mà chúng ta dùng cái thần lực của
chúng ta, cái oai lực của chúng ta, chúng ta có thể làm tất cả những cái gì
cũng được hết chứ không có khó khăn gì hết.
Đó là Giới Tuệ thứ ba trong Giới luật của đức Phật.Đây là cái
Giới Tuệ thứ ba thôi chứ chưa phải là nó hết những Giới Tuệ của Phật đâu! Mới
bắt đầu nghĩa là bước qua đầu cái Giới Tuệ là chúng ta thấy có những sự vi diệu
tuyệt vời rồi đó.
“Đó là Giới Tuệ thứ ba trong Giới luật của đức Phật mà vị ấy đã
đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu, khó nghĩ
lường”.
Bây giờ cái đầu óc của chúng ta nghĩ không có ra được cái này
đâu! Thầy nói bây giờ mấy người nghĩ sao mà cái thân này biến ra ngàn thân, mấy
người nghĩ đi! Cách thức nào làm cho được đi! Nghĩ sao cho ra không? Thế mà
người ta đạt được đến cái mức độ này người ta làm ra được. Nó đâu phải là
chuyện khó đâu, nhưng mà bây giờ lấy cái đầu óc phàm phu mà nghĩ thì chắc chắn
là không có được rồi. Cho nên khó nghĩ lường, ở đây nó vi diệu, thù thắng mà
thiết thực, hiện tại chớ không phải là đợi ngày mai ngày mốt đâu! Bây giờ muốn
là bây giờ được, mà ngày mai muốn là ngày mai được. Muốn hồi nào là được hồi
nấy. Phật lại nói thêm: “Tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi
diệu”.Trong thời gian hiện tại mà thiết thực, cụ thể chứ không phải nói mơ
hồ như cái bóng ma, bóng khói, như đám mây mờ mờ ảo ảo đâu! Nó là một sự thật
như vậy!
“4. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền
não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, như vậy Tỳ kheo dẫn tâm đến
Thiên nhĩ thông. Tỳ kheo với Thiên nhĩ thông thanh tịnh, siêu nhân, có thể nghe
hai loại tiếng nói của chư Thiên và của loài người dù ở xa, ở gần cũng đều nghe
rõ không sai. Ví như một người đang đi qua đường nghe tiếng trống lớn, tiếng
trống nhỏ, tiếng loa, tiếng xập xả, tiếng kèn, tiếng kẻng. Người ấy nghe biết
rõ ràng. Cũng vậy, vị Tỳ kheo tâm định tỉnh hướng tâm Thiên nhãn thông nghe
thấy rõ ràng cũng vậy.
Đó là Giới Tuệ thứ tư trong Giới luật của đức Phật mà vị ấy đã
đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, thù thắng, vi diệu, khó nghĩ
lường”.
Quý thầy thấy khi tâm người ta như vậy thì người ta dẫn tâm
người ta đến Thiên nhãn thông hoặc là Thiên nhĩ thông, hoặc là Tha tâm thông,
tất cả những cái này đều là những điều kiện mà những vị đó đã tu tập ở trong
Giới Tuệ và họ đã đạt được.
“5. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền
não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị Tỳ kheo dẫn
tâm và hướng tâm đến Tha tâm thông”.
Ở đây Thầy nhắc nhở quý thầy hai danh từ: Dẫn tâm và hướng
tâm. Dẫn tâm là như thế nào và hướng tâm là như thế nào? Sau này Thầy dạy
tới các pháp Thầy sẽ giải thích chỗ này cho. Còn bây giờ thì chúng ta học suông
qua thôi. Bây giờ hướng dẫn đến Tha tâm thông đây!
“Tỳ kheo sau khi dẫn tâm đi sâu vào tâm chúng sanh (hướng tâm,
dẫn tâm mình đi sâu vào tâm chúng sanh) của loài người, với tâm thuần tịnh,
trong sáng, vị ấy biết được như sau: Tâm của chúng sanh có Tham biết là có
Tham, tâm không có Tham biết là tâm không có Tham. Tâm của chúng sanh có Sân
biết là tâm của chúng sanh có Sân, tâm không có Sân biết là không có Sân. Tâm
của chúng sanh có Si biết là tâm có Si, tâm không có Si biết là tâm không có
Si. Tâm chuyên chú biết là tâm chuyên chú, tâm tán loạn biết là tâm tán loạn.
Đại hành tâm biết là đại hành tâm, không phải đại hành tâm biết là không phải
đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng biết là tâm chưa vô thượng, tâm vô thượng biết
là tâm vô thượng. Tâm Thiền định biết là tâm Thiền định, tâm không Thiền định
biết là tâm không Thiền định. Tâm giải thoát biết là tâm giải thoát, tâm không giải
thoát biết là tâm không giải thoát”.
Đó, khi mà được cái Giới Tuệ thứ năm này thì quý vị làm cái gì,
tu tập đúng sai thì vị Thầy người ta đều biết hết nhưng mà người ta không nói
ra thôi, người ta lần lượt điều khiển, hướng dẫn cho người tu đúng thôi, chứ
người ta biết quý vị còn ở trong tâm nào người ta biết hết chứ không phải là
người ta không biết. Người ta sử dụng được cái tâm của người ta cho nên người
ta phải thông suốt quý vị hết. Chứ nếu người ta không sử dụng được cái tâm của
người ta thì làm sao người ta biết quý vị! Nhưng người ta không muốn làm quý vị
bất mãn, không muốn làm cho quý vị trái ý, người ta tùy thuận quý vị nhưng
người ta lần lượt hướng dẫn nhỏ nhẹ để cho quý vị sửa lần lần để đi vào con
đường đúng mà thôi! Bởi vì người tu người ta hiểu biết cái kiến chấp của quý vị
nó rất nặng, nó không phải dễ dàng một ngày một bữa mà nó cởi ra được, mà phải
tuần tự người ta khéo léo để giúp cho quý vị cởi ra.
“Ví như một người đàn bà soi mặt mình trong một tấm gương trong
sáng suốt, nếu mặt có tì vết liền biết mặt có tì vết, nếu mặt không có tì vết
thì biết là không có tì vết, da mặt trắng biết là da mặt trắng, da mặt đen biết
là da mặt đen, mặt có nốt ruồi biết là mặt có nốt ruồi, mặt không có nốt ruồi
biết là mặt không có nốt ruồi, mặt có vết thẹo biết là mặt có vết thẹo, mặt
không có viết thẹo biết là không có vết thẹo”.
Đó, đức Phật ví dụ như một người đàn bà cầm cái gương soi vậy,
thấy cái mặt mình như thế nào thì biết rõ, thì cái người có được cái Giới Tuệ
thứ năm này thì người ta dẫn tâm vào tâm của chúng sanh, vào tâm các thầy, các
thầy tu như thế nào người ta biết hết chứ không phải người ta không biết đâu!
Đó là như chúng ta soi một cái gương cũng như người phụ nữ mà soi một cái gương
trên mặt vậy đó! Họ biết họ rõ như thế nào thì cũng ví như một người mà người
ta đã có được Giới Tuệ thứ năm này thì người ta thấy cái tâm chúng sanh nó cũng
như vậy đó!
“Đó là Giới Tuệ thứ năm trong Giới luật của đức Phật vị này đã
đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.
Chúng ta thấy tới Giới Tuệ thứ năm chúng ta đã thấy được thông
suốt được những cái tâm sai khác của chúng sanh như thế nào, tu được hay không
người ta biết hết, tu đúng tu sai người ta biết hết chứ không phải là người ta
không biết.
“6. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu uế,
không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản,
như vậy vị ấy dẫn tâm hướng tâm đến Giới tuệ Túc mạng minh– đó bây
giờ mới hướng đến Túc mạng minh đây, vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như
một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi
đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một
trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị
ấy nhớ rõ ràng sanh tại chỗ kia ta có tên như thế này, dòng họ như thế này,
giai cấp trong xã hội như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức
như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia ta được sanh ra tại chỗ nọ, tại chỗ ấy ta
có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp trong xã hội như thế này, thọ
khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta
được sanh ra ở đây. Như vậy như vị Tỳ kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng
với các nét đại cương và chi tiết rất rõ ràng”.
Đó, đức Phật ví dụ như chúng ta dùng Túc mạng minh thì
chúng ta thấy nhiều đời nhiều kiếp mình như vậy đó chứ không là thấy ít đâu!
“Ví như một người đi từ làng mình đến làng khác, từ làng ấy đi
đến một làng khác nữa và từ làng này trở về làng mình, làng của mình, người ấy
nghĩ: Ta từ làng của mình đi đến làng kia, nơi đây ta đã đứng như thế này, đã
ngồi như thế này, đã nói như thế này, đã yên lặng như thế này. Từ nơi làng nọ
ta trở về làng của ta.
Đó là trí tuệ thứ sáu trong Giới luật của đức Phật vị ấy đã đạt
được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ lường”.
Đó thì quý thầy thấy người ta thấy nhiều đời nhiều kiếp người ta
như là mình đi từ làng này đến làng khác rồi mình trở về làng mình như vậy.
Nghĩa là thấy từ quá khứ rồi trở về hiện tại là cái vị đó cũng như mình ngồi tu
đây bắt đầu mình trở về quá khứ nhiều đời nhiều kiếp…
Bây giờ bắt đầu chúng ta tiếp tục bài học vừa rồi là thuộc về
Giới Tuệ.
“Đó là Giới Tuệ thứ sáu trong Giới luật của đức Phật. Vị ấy đã
đạt được kết quả tu tập thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ
lường”.
“7. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm,
không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản, như vậy Tỳ kheo
dẫn tâm hướng tâm đến Giới Tuệ về sanh tử của chúng sanh, tức là Thiên nhãn
minh. Vị ấy với Thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng
sanh, vị ấy biết rõ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ
thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do Nghiệp của chúng tạo ra. Này các con!
Người thường hay làm điều ác hạnh về thân, lời nói và ý nghĩ do vô minh, không
rõ theo tà kiến, phỉ báng xuyên tạc giới luật và pháp môn của các bậc Thánh
hiền, chạy theo tà kiến, tạo các tà nghiệp, nuôi sống tà mạng… Những người này
sau khi hết phước báu hiện tại, khi thọ, khi thân hoại mạng chung để lại cho
thế gian chứng nghiệm một sự đau khổ của các vị ấy, cực kỳ đau khổ. Đến khi
mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ địa ngục. Hiện giờ họ đang phè
phỡn trên mồ hôi nước mắt của đàn na thí chủ. Còn ngược lại những chúng
sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời nói và ý nghĩ, không theo tà kiến,
luôn luôn theo chánh kiến của Phật dạy nên không phỉ báng, thêm bớt Giới luật
và giáo pháp của đức Phật, thường theo Giới luật của Phật không làm khổ mình
khổ người, không làm các tà nghiệp, không nuôi dưỡng bằng những thực phẩm bất
tịnh có ác pháp, có sự chết chóc đau khổ bằng sinh mạng của chúng sinh. Những
người này sau khi thân hoại mạng chung được sanh lên thiện thú, cõi trời, cõi
người, hưởng đầy đủ phước báu, không có thiếu thốn một vật gì cho cuộc sống.
Với Thiên nhãn minh thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống chết của chúng sanh rất
rõ ràng, ví như một người ở trên tòa lầu đài có thượng đài giữa ngã tư đường,
môt người có mắt nhìn xuống thấy rất rõ, sẽ thấy những người đi vào nhà, từ nhà
đi ra đi qua đi lại trên đường, ngồi ở giữa ngã tư đường hay trèo lên đài
thượng rất rõ ràng không thiếu một chi tiết nào hết.
Đó là Giới Tuệ thứ bảy trong Giới luật của đức Phật vị ấy đã đạt
được kết quả Giới Tuệ này thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó nghĩ
lường”.
“8. Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm,
không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, thanh thản như vậy, vị Tỳ
kheo dẫn tâm hướng tâm đến Lậu tận trí, vị ấy biết như thật đây là Khổ,
biết như thật đây là nguyên nhân của Khổ, biết như thật đây là Khổ diệt, biết
như thật đây là con đường đưa đến Khổ diệt; biết như thật đây là những Lậu
hoặc, biết như thật đây là nguyên nhân của những Lậu hoặc, biết như thật đây là
sự diệt trừ các Lậu hoặc, biết như thật đây là con đường đưa đến diệt trừ các
Lậu hoặc.Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát
khỏi Dục lậu, thoát khỏi Hữu lậu, thoát khỏi Vô
minh lậu, đối với tự thân đã giải thoát như vậy sự hiểu biết khởi lên một
cách rất rõ ràng “Ta đã giải thoát. Sanh đã tận, phạm hạnh đã xong, việc cần
làm đã làm xong, sau đời hiện tại này không còn có đời sống nào khác nữa!”.
Đó là cái Tuệ thứ tám của vị này nó hiện ra thì đó chứng đạt
được cái lý Tứ Diệu Đế. Cho nên trong Ngũ lực thì đức Phật có
nói là cái Tuệ lực là cái gì? Tuệ lực là Tứ Diệu Đế. Cho nên thấy
thật, chứng thật, thấy rõ. Khi mà chúng ta nghe nói Tứ Diệu Đế chúng ta nghe
nói Khổ, đời là khổ, rồi nguyên nhân Khổ, rồi cảnh giới thoát Khổ, rồi tám cái nẻo
để đưa đến cảnh giới thoát khổ đó thì chúng ta hiểu biết như vậy, đó chúng ta
mới ngộ được cái chân lý của đạo Phật mà thôi. Còn ở đây khi mà cái Giới Tuệ
của chúng ta thực hiện được là cái Lậu tận minh thì chúng ta sẽ thấy được cái
nguyên nhân Khổ, khổ thật chứ không phải là ngộ mà đây là chứng cái lý
Khổ. Cho nên Phật mới dạy là khi mà cái trí tuệ đó, cái Giới Tuệ đó mà
nó hiện ra thì chúng ta thấy: đây là Khổ, đây là chứng thật cái sự khổ
chứ không phải nói đây là Khổ như chúng ta biết nó khổ thường thường đâu! Mà
đây là cái sự chứng thật! Biết như thật tức là biết thật sự, thấm cái lý ở
trong đó do sau những ngày tu tập cái Định vô lậu mà nó thấm nhuần, nó mới thấy
như thật được, thì đây là nguyên nhân của khổ thật, chúng ta biết rõ là lòng
ham muốn khổ thật, nhưng bây giờ chúng ta hiểu nó là biết cái nguyên nhân khổ
là lòng ham muốn, nhưng mà chúng ta đoạn trừ không được, nhưng mà thời gian
chúng ta nghiền ngẫm đặt cái niệm đó trước mặt mà chúng ta nỗ lực thực hiện cái
niệm đó bằng cái pháp hướng. Tùy theo cái pháp mà chúng ta nổ lực thực hiện,
tâm chúng ta nó thấm được cái lý đó, nó chứng được cái lý đó cho nên bây giờ
mới gọi là cái trí tuệ Vô lậu, nó thực hiện ra chúng ta mới thấy được nó như
thật, biết nó như thật như vậy! Cho nên mới biết đây là khổ thật, đây là nguyên
nhân khổ thật, đây là cái nơi hết khổ, đây là cái chỗ mà chấm dứt khổ và đây là
con đường dẫn đến hết khổ.
Và kế đó thì đức Phật lại nhắc lại thêm cho chúng ta thấy bốn
cái Khổ đế này rõ ràng nhưng mà đức Phật xác định cho chúng ta thấy bốn cái Khổ
đế nó nhằm vào những cái lậu hoặc của chúng ta để chúng ta thật thấy nó.
“Biết như thật đây là những lậu hoặc, biết như thật đây là
nguyên nhân của những lậu hoặc, biết như thật đây là diệt trừ các lậu hoặc,
biết như thật đây là còn đường đưa đến diệt trừ các lậu hoặc”.
Thì chúng ta sống ở trong cuộc sống chúng ta hàng ngày là chúng
ta phải thấy cái mấu chốt của lậu hoặc là nó như thế nào. Cái lậu hoặc là cái
khổ, mà nguyên nhân của lậu hoặc là lòng ham muốn của chúng ta, mà diệt hết
lòng ham muốn thì sẽ hết cái lậu hoặc, mà hết lậu hoặc thì đó là Niết bàn, là
cái cảnh hết khổ. Mà muốn được như vậy thì chúng ta phải thấy được con đường
đưa đến hết cái khổ đó tức là đoạn diệt cái lòng ham muốn thì con đường đó thì
chúng ta thấy muốn cho hết cái lậu hoặc ở trong tâm của chúng ta thì con đường
đó là Bát chánh đạo – Tám cái nẻo mà chúng ta cần phải tu tập.
Cho nên ở đây cái Giới Tuệ nó giúp cho chúng ta biết rằng, chỉ
bảo cho chúng ta biết rằng con đường nào sẽ đưa chúng ta đi đến tận diệt cái lậu
hoặc. Sau khi học xong Giới luật thì bắt đầu chúng ta sẽ học đến tám cái nẻo
này, và tám cái nẻo này thì chúng ta phải biết từ cái Chánh kiến cho đến Chánh
định, mà từ Chánh kiến đó chúng ta phải tu như thế nào, phải tập luyện như thế
nào ở trong những cái Chánh kiến. Bắt đầu chúng ta phải tu những cái Định gì
đối với Chánh kiến đầu tiên như bây giờ chúng ta tu cái…Nói ví dụ như bây giờ
chúng ta bắt đầu tu thì chúng ta phải tu trong Chánh kiến, phải phòng hộ cái
Chánh kiến của chúng ta. Phòng hộ Chánh kiến chúng ta tức là phòng hộ mắt tai
mũi miệng thân ý của mình. Tức là Phật gọi là Thánh phòng hộ sáu căn.
Như vậy mới đầu vô mà được Chánh kiến là phải phòng hộ mắt tai
mũi miệng của mình, cho nên tâm của chúng ta bây giờ nó không bị nhiễm trước,
không bị đắm trước các đối tượng, các pháp cho nên khi phòng hộ nó thì chúng ta
đâu thấy vật nào. Sau đó thì chúng ta phải dùng trên cái mắt tai mũi miệng của
chúng ta, chúng ta phải tu tập cái sức tỉnh thức để khi chúng ta nhìn mọi vật
mà chúng ta thấy không có cho cái tâm của chúng ta làm cái duyên trở thành sự
dính mắc của vật đó, thì đó là chúng ta phải tu Chánh niệm tỉnh thức. Cho nên
phòng hộ thì trước tiên, mà đây là mới có tu cái nẻo Chánh kiến mà chúng ta
phải phòng hộ nó rồi.
Rồi đến khi mà mắt của chúng ta nhìn các vật được, trước đó
phòng hộ để cho chúng ta luyện tập cái sức tỉnh thức. Sau khi tập luyện tỉnh
thức được thì chúng ta mới cho mắt của chúng ta nhìn các vật, do đó chúng ta
thấy nó tỉnh thức trong mọi vật cho nên nó đã làm cho tâm chúng ta không còn
khởi ham muốn mọi vật nữa. Vì vậy lúc bấy giờ chúng ta đã tu hai cái Định, và
hai cái Định đó để giúp chúng ta trong Chánh kiến, và bây giờ chúng ta mới quét
sạch, trong cái nhìn của chúng ta nó sẽ sanh ra lậu hoặc. Do đó chúng ta phải
tu cái Đinh vô lậu nữa! Từ đó nó còn có những cái khó khăn của
nó vi tế nữa, cho nên chúng ta phải đi đến cái Định Hiện tại an lạc trú để
chúng ta quét sạch lậu hoặc, chứng được Tam minh mới quét nó ra được, cho nên
con đường đi chúng ta phải ba bốn thứ Định trong một cái Chánh kiến. Từ cái
Chánh kiến rồi thì cái Chánh Tư duy thì cũng phải tu như vậy. Rồi Chánh ngữ,
Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh niệm, Chánh định chúng ta cũng phải tu trong
mấy cái định này chứ đâu phải là tu có một cái không.
Rồi còn phải tu trong cái hành tướng, cái nhân tướng, cái đặc
tướng của cái Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng,
Chánh định, Chánh tinh tấn, chớ đâu phải là có một cái không. Cho nên giảng về
Tứ diệu đế đâu phải là đơn giản mà nói suông suông được. Cho nên nó còn rất
nhiều điều mà Thầy cần phải nói để cho quý thầy biết rằng con đường của đạo
Phật rất là kỹ lưỡng, trên bước đường hướng dẫn cho một người tu đạt đến chỗ
giải thoát hoàn toàn của tâm họ. Chớ đâu phải là dạy sơ sơ trên cái nhân tướng
là nói mình phải thấy đúng hiểu đúng như thế này thế khác bằng thiện pháp như
Thầy dạy cách thức đơn giản thì người ta chỉ có được một chút ít nào giải thoát
mà thôi, làm cho tâm hồn họ được an ổn mà thôi, chớ không thể nào như một vị tu
hành phải hiểu cho rõ cho đúng.
Đến đây là cái Giới Tuệ thứ tám mà chúng ta nhận ra được những
cái lậu hoặc chúng ta còn hay là hết.
“Ví như tại dãy núi lớn có một hồ nước thuần tịnh, trong suốt
tận đáy hồ, không cấu nhiễm, một người có mắt đứng trên bờ hồ sẽ nhìn thấy con
hến, con sò, con ốc, những hòn đá, hòn sạn, những đàn cá bơi lội qua lại hay
đứng lại một chỗ rất rõ ràng không có mờ mịt chút nào, không có chỗ nào còn che
dấu được mắt họ”.
Đức Phật ví dụ khi mà tâm của chúng ta mà cái Lậu tận minh nó
hiện ra rồi thì cái tâm của chúng ta bây giờ nó thuần tịnh, nó trong cũng như
là cái nước hồ mà trong suốt mà chúng ta đứng trên hồ rồi nhìn xuống đáy hồ
thấy tất cả những vật ở dưới đáy hồ rất rõ ràng. Phật ví dụ tâm chúng ta đến
cái chỗ Giới Tuệ thứ tám này thì nó trong suốt như vậy đó. Nó thanh tịnh trong
suốt, nó không còn một chút tham dục nào trong đó, nó không còn một chút bất
tịnh nào trong đó, cho nên nó trong suốt như vậy! Khi tu đến đây rồi thì cái
tâm của chúng ta dễ sử dụng tất cả mọi thứ, điều khiển nó như thế nào thì nó làm
được tất cả như thế nấy.
“Đó là Giới Tuệ thứ tám trong Giới luật của đức Phật, vị ấy đã
đạt được kết quả Giới Tuệ này thiết thực, hiện tại, vi diệu, thù thắng, khó
nghĩ lường”.
Tóm lại, tám Giới Tuệ trong đạo Phật là tám loại trí tuệ thanh
tịnh, siêu việt trong kinh Sa môn quả. Đó là ở trong kinh Sa môn quả nó nếu ra
tám cái loại trí tuệ đó như vậy. Nhưng ở đây chúng ta còn phải hiểu thêm cho
đúng khi một người thọ trì tu tập đúng pháp của Phật là phải bắt đầu từ Sơ
thiện, Trung thiện và Hậu thiện.
Sơ thiện là Giới luật, còn gọi là Giới bổn Patimokka. Trung
thiện gọi là Thiền định, còn gọi là Bốn thiền, hay gọi là Tứ thánh định. Nếu
gọi Thiền định của đạo Phật như vậy chưa đủ. Ta nên xem lại Giới Đức của đạo
Phật có phân làm 10 loại Định. Nghĩa là trong cái Thiền định của đạo Phật chia
làm 10 loại Định chứ không phải như chúng ta nói rằng Bốn cái Thiền định đó
đâu!
Có 10 loại Định. Vậy thì 10 loại Định nó như thế nào? Thầy xin
kể ra cho quý thầy nghe.
Thứ nhất,Định niệm hơi thở. Đó
là cái thứ nhất mà cái người tu bắt đầu vào để mà tu tập là phải ổn định hơi
thở. Vì khi mà chúng ta ăn uống điều độ mà chúng ta giữ được hơi thở điều hòa
thì cơ thể chúng ta không có bệnh tật. Như quý thầy biết rằng vốn đạo Phật ra
đời là một y vương để trị bệnh cho chúng sanh. Bệnh chúng sanh có hai
loại bệnh: Bệnh thứ nhất là thân bệnh. Bệnh thứ hai là tâm bệnh.Mà đức Phật
dạy cho chúng ta để trị thân bệnh thì bằng cách ăn uống điều độ ngày 1 bữa chớ
không được ăn nhiều và hơi thở được ổn định,(BBT:CĐ,21B,E00:44:54)
điều hòa thì cơ thể không có bệnh đau. Cái thứ hai thì đức Phật dạy cho chúng
ta trị tâm bệnh. Vì tâm bệnh thì nó mới làm cho thân chúng ta mới bệnh. Còn tâm
người đó không bệnh thì ít khi mà thân chúng ta bị bệnh. Một người mà phiền não
(BBT:CĐ,22A,B00:00:00) rầu buồn thì lâu ngày ăn uống không được
thì sẽ bệnh; một người giận dữ, tức giận thì cũng ăn uống không ngon, do đó tạo
cho cơ thể rối loạn và từ đó dễ sanh bệnh. Cho nên những cái sân hận, phiền
não, đau khổ, lo lắng, suy tư là cái tâm bệnh. Cái tâm bệnh thì lấy gì mà trị?
Đức Phật nói: Cái Tâm bệnh lấy Trí mà trị, lấy sự hiểu biết mà trị
nó.Cho nên ở đây hầu hết để trị cho chúng ta cái Tâm bệnh Vô lậu này
thì phần nhiều là lấy Trí tuệ, mà lấy Trí tuệ đó thì như quý thầy đã học
rồi, Trí tuệ ở đâu thì Giới luật ở đó.Bởi vì Trí tuệ nó làm
cho Giới luật thanh tịnh, mà Giới luật nó làm cho Trí tuệ thanh tịnh. Cho
nên người có trí là người có Giới luật, mà người không có trí là người không có
Giới luật. Dù là người đó là người có thông minh gì đi nữa mà đời sống
họ không đúng Giới hạnh, không đúng cái Giới luật của Phật dạy thì đương nhiên
người đó là người không có trí. Cũng như quý thầy thấy mọi vị ăn phi thời tức
là người đó không có Giới luật, mà không có Giới luật tức là không có trí tuệ,
mà không có trí tuệ thì người ăn phi thời sẽ có nhiều bệnh tật đem đến đau khổ
cho họ. Và khi mà chạy theo sự ăn uống đó là họ bị dục lạc của ăn uống cám dỗ
làm cho tâm hồn của họ khi mà ăn cực khổ hoặc là khi không có ăn thì họ phải
sinh ra đau khổ, phải sinh ra phiền não, phải sinh ra những cái ác pháp.
Đó, thì như vậy là người không có trí mà chỉ sống theo dục lạc
cho nên luôn luôn tạo mình khổ, tức là tạo cho mình có bệnh, tâm bệnh hoặc là
thân bệnh. Cho nên ở đây là cái Định niệm hơi thở vốn mục đích nó hợp với cái
sự ăn uống điều độ của chúng ta thì giúp cho thân chúng ta không bệnh. Cho nên
nó là Định thứ nhất của đạo Phật để trị cái thân bệnh của chúng ta. Còn các cái
định khác, còn 9 cái thứ định này vốn là để trị cái tâm bệnh của chúng ta. Đó
thì cái Định niệm hơi thở nó hợp với cái đời sống ăn uống của chúng ta hàng
ngày thì nó trị được cái thân bệnh. Còn 9 cái loại định sau này nó hợp lại để
mà nó trị cái Tâm bệnh của chúng ta. Biết như vậy thì Thầy sẽ kể tiếp cho quý
thầy nghe.
Thứ hailà Thánh định phòng hộ sáu căn. Bởi
vì phòng hộ sau căn là một cái loại định làm cho mắt tai mũi miệng thân ý chúng
ta thanh tịnh, và oai nghi luật nghi, cái luật nghi mà Giới hạnh làm cho chúng
ta rất rõ nét mà người nào nhìn vào cũng biết là cái người đó Giới luật hẳn
hòi. Một người tu sĩ mà đi ra đường ngó qua ngó lại thì biết rằng người đó
không phòng hộ sáu căn. Mà không phòng hộ sáu căn thì tức là người đó đã phạm
Giới. Không thể nào trong ý của họ không phạm Giới. Họ đi mà họ ngó qua ngó lại
thì cái ý họ bị dính kẹt ở trong những cái đối tượng của các pháp thế gian thì
làm gì họ cũng bị phạm Giới hết. Mặc dù là Thân – Khẩu họ không phạm, đời sống
họ không phạm nhưng Ý họ vẫn bị phạm Giới. Đó là Thánh định phòng hộ sáu căn.
Thứ balà Thánh Định Chánh niệm Tỉnh thức,
nghĩa là người tu sĩ luôn luôn phải tỉnh giác, phải tỉnh thức, không có được mê
mờ, cho nên khi đi luôn luôn họ tập trung dưới bàn chân họ, họ tránh tất cả
những loài chúng sanh và đồng thời họ giữ được Chánh niệm là không hại chúng
sanh, không làm đau khổ chúng sanh, tức là không giết hại chúng sanh, tức là
giữ giới không sát hại chúng sanh. Cho nên Giới luật ngay từ chỗ bước đi của họ
chứ không phải họ cầm dao họ giết con vật hoặc cầm dao giết người mới gọi là
sát sanh, mà chính vô tình đạp chết chúng sanh vẫn là thọ lấy cái Giới phạm
Giới sát sanh chứ không phải không.
Thứ tư,Chánh Định Thiểu dục tri túc. Nghĩa là
phải dùng cái sức định tâm hết sức mới giữ được cái Thiểu dục tri túc, chứ
không thể nào mà thiếu Thiểu dục tri túc, thiếu cái định tâm mà giữ gìn được
Thiểu dục tri túc đâu! Cho nên ở đây thứ tư là Thánh định Thiểu dục tri túc,
Phật gọi nó là Thánh định. Cái Thiểu dục tri túc là của bậc Thánh chứ không
phải phàm phu mà thiểu dục tri túc được. Quý thầy cứ nghĩ ba y một bát như thế
này, sống ngày có người cho ăn mà có ngày không có người cho ăn vẫn thấy mình
biết đủ, chưa phải là thấy mình thiếu sót đói khổ. Quý thầy có nghĩ được cái
điều đó không? Cuộc sống của một người tu sĩ mà đến cái mức độ đó thì quý thầy
thấy nếu mà ngoài đời sống thì không ai mà chịu nổi hết. Người ta nói quá khổ
à, không thể nào cái khổ nào hơn cái khổ của những bậc Thánh này. Vì vậy cho
nên Thiểu dục tri túc nghe hai danh từ thì dễ lắm, nhưng mà sống không phải dễ.
Khi vào trong rừng không có cơm ăn, phải ăn lá cây rừng vẫn thấy thiểu dục tri
túc. Khi đau bệnh mà không có thuốc thang vẫn thấy thiểu dục tri túc, trước cơn
ngặt nghèo mà chúng ta vẫn thấy thiểu dục tri túc. Không đòi hỏi thì lúc bấy
giờ mới thấy thiểu dục tri túc phải là Thánh định, chứ còn không Thánh định thì
không thể nào chịu nổi trước cái cảnh thân và tâm quá khắc khổ trong cuộc sống.
Đó gọi là Thánh định Thiểu dục tri túc, mà ở đây đã có cái… mình mới đạt được
cái Giới Đức đó chứ không phải dễ. Cho nên Định nó thuộc về Giới đức.
Thứ năm,Thánh Định Vô lậu. Làm cho
lậu hoặc chúng ta sạch cho nên gọi là Thánh Định Vô lậu.
Thứ sáu, Thánh Định Sơ thiền. Còn
gọi là Định chói sáng, hay gọi là Định sáng suốt. Đó, cái Sơ Thiền nó còn có
cái tên gọi là Định chói sáng hay là Định sáng suốt mà Thầy thường nhắc quý
thầy ngồi lại mà giữ tâm thanh thản, giữ tâm vô sự đó. Đó là cái Định Sơ Thiền
đó. Chứ không phải là gì, vì có ly dục ly bất thiệp pháp thì mới nhập được Sơ
Thiền, mà có nhập được Sơ Thiền thì ngồi nó mới thanh thản, còn không thì làm
sao mà thanh thản được. Cho nên cái Định Sáng suốt (Định chói sáng) là cái định
của Sơ Thiền. Vì vậy ở đây Phật gọi là Thánh Định Sơ Thiền. Chứ không phải phàm
phu mà nhập được cái Định này đâu!
Kế đó thứ bảythì Phật gọi là Thánh
Định Nhị thiền. Nghĩa là diệt Tầm Tứ, không tác ý, không phải chuyện dễ
làm của phàm phu cho nên chỉ có bậc Thánh mới có thể làm được điều đó.
Thứ tám, Thánh Định Tam thiền. Chỉ có
bậc Thánh mới ly tất cả những trạng thái của ma tức là mười tám cái trạng thái
của Tưởng. Mỗi cái trạng thái của Tưởng nó khởi lên là nó làm cho chúng ta có
niềm vui mừng, mà cái niềm vui mừng đó nó làm cho chúng ta mà Phật gọi là “Ly
hỷ, trú xả”. Mỗi cái trạng thái của Tưởng khởi lên làm cho thân chúng
ta đang bị đau khổ dày vò do đó chúng ta phải ly cho được thì như vậy chúng ta
mới nhập cho được Tam thiền. Mà ly 18 trạng thái của Tưởng này thì mới nhập
được Tam thiền cho nên mới gọi là Thánh định. Thậm chí như chiêm bao, giấc mộng
chúng ta cũng phải ly sạch ra, nếu còn mộng thì chưa nhập Tam Thiền. Cho nên
cái sức tỉnh của người đó dù trong lúc ngủ họ cũng phải tỉnh, mà không tỉnh thì
phải có chiêm bao, mà chiêm bao tức là họ chưa lý được cái trạng thái của
Tưởng. Chưa ly được trạng thái của Tưởng thì không bao giờ nhập được Tam thiền.
Cho nên khi ngủ, cái người mà tu đến cái chỗ mà vượt qua cái Tưởng này thì
người đó không còn mộng mị. Mà không còn mộng mị thì ngủ phải tỉnh thức chứ
không thể ngủ mê như cái người tầm thường phàm phu được. Tới cái chỗ Thánh Định
Tam Thiền này chúng ta mới biết rằng cái chỗ ngủ và chỗ thức của chúng ta nó
không có cái chỗ sai khác chút nào hết.
Thứ chín, Thánh Định Tứ thiền. Đây, quý
vị thấy cái Thánh Định Tứ thiền là cái chỗ mà ngưng hoàn toàn hơi thở chúng ta,
mà chỗ đó là cái chỗ thanh tịnh nhất mà chúng ta thực hiện được Tam Minh đó. Đó
là chỗ Thánh Định Tứ thiền, không phải kẻ phàm phu mà nhập được Tứ Thiền nổi
đâu! Không phải chuyện dễ, hơi thở đang thở như thế này mà ngưng lại các hành
hoạt động trong hơi thở, đang co bóp, phổi chúng ta đang thở ra thở vô, thế mà
nó hoàn toàn ngưng mà chúng ta không chết thì không phải là thiền của bậc Thánh
mới làm được sao? Đó là cái chỗ làm chủ được sống chết của thân của chúng ta,
cho nên nếu mà chúng ta muốn bỏ thân này thì đều phải nhập vào Tứ thiền thì mới
bỏ thân này được.
Thứ mười,Thánh Định Diệt Thọ Tưởng. Nghĩa
là cái Định cuối cùng là định thứ mười là Diệt Thọ Tưởng. Cái Định này nó giữ
cái thân của quý vị ngàn năm không bị hoại diệt, nó giữ cái thân của quý vị
ngàn năm không bị hoại diệt. Nghĩa là Thánh Định Tứ Thiền nó chỉ có 49 ngày,
nếu quá 49 ngày thì cái thân của quý vị bị hoại diệt, vì nó còn ở trong cái
Thức thức, nó chưa ly khỏi cái thân Ngũ uẩn của nó, Tứ thiền nó chưa ly khỏi
cái thân Ngũ uẩn của nó, nó còn ở trong cái Thức thức của nó để nó sử dụng cái
biết để mà trở về cái trí tuệ Tam minh của nó, tức là cái Giới Tuệ của nó cuối
cùng. Cho nên nó không giữ được cái thân của nó lâu dài, chỉ có 49 ngày thì nó
bị hoại diệt. Nhưng chúng ta nhập tới 49 ngày tự cái thân của chúng ta nó phải
phục hồi sự sống lại, nó sẽ bung ra chứ nó không ở trong Tứ Thiền. Cho nên chúng
ta chẳng ngại vấn đề đó. Nếu chúng ta nhập Tứ Thiền đến đó nó tự bung ra, nó
không nằm ở trong đó cho chúng ta chết đâu. Còn Diệt Thọ Tưởng Định thì cái
Thánh Định thứ mười này nó giúp cho chúng ta nhập vào cái Định này cả trăm năm,
cả ngàn năm thân này bất hoại, không hư, không hôi, không thúi, luôn luôn lúc
nào nó cũng giữ gìn cái thân nó vững chắc như đá, không mòn, không hao, không
có một vật gì phá hoại cái cơ thể này được. Đó là cái Định giữ gìn cái cơ thể
tối đa và tất cả những cái bộ phận ở trong thân đó đều hoàn toàn ngưng hoạt
động, thậm chí như cái Ý căn của chúng ta cũng hoàn toàn ngưng hoạt động. Đó là
cái bộ óc. Còn Tứ thiền thì cái bộ óc của chúng ta, cái Ý căn của chúng ta vẫn
còn hoạt động, nhưng các phần khác của bộ óc đều đình chỉ như cái phần mà hoạt
động của bộ óc chúng ta về Ý thức của chúng ta thì ngưng hoạt động, về cái phần
Tưởng thức ngưng hoạt động, chỉ còn cái phần của Thức thức là nó đang hoạt động
mà thôi.
Phân biệt được như vậy chúng ta mới thấy rằng cái Định của Tứ
thiền thì cái Ý căn của chúng ta còn hoạt động trong cái phần của Thức thức,
chứ không hoạt động của phần tưởng thức và Ý thức của chúng ta. Còn Thánh Định
Diệt Thọ Tưởng thì cái Ý căn của chúng ta ngưng hoạt động hoàn toàn. Cho nên
Phật gọi nhập Diệt Thọ Tưởng Định là cái ý hành phải ngưng, phải tịnh chỉ, phải
tịnh chỉ ý hành thì mới nhập Diệt Thọ Tưởng Định, mà tịnh chỉ ý hành tức
là Ý căn ngưng hoạt động. Quý thầy hiểu cái chỗ đó. Thì như vậy quý thầy mới
biết mười cái loại Định. Trong khi người dạy ta Thiền Định chỉ có một thứ Thiền
Định mà ở đây Phật dạy chúng ta tới mười cái loại Thiền Định. Con đường của đạo
Phật nó không đơn giản đâu! Nó không phải có một loại định nào mà chúng ta có
thể hoàn tất được cái sự giải thoát cho chúng ta, mà cả mười loại mà chúng ta
phải tu chứ không có bỏ một cái loại nào được hết.
Cho nên hiện giờ quý thầy tu hơi thở cũng là tốt, mà tu làm mọi
công việc biết hành động làm mọi công việc cũng là tốt chứ đâu có gì sai, mà
quý vị phòng hộ sáu căn, giữ gìn sáu căn của mình cũng là tốt, đâu có gì sai.
Mỗi Giới luật của quý thầy học được, quý vị giữ được một cái Giới luật nào đó
cũng đều nhằm ở trong mười loại Định này chứ không ngoài mười loại Định đâu mà
sợ rằng chúng ta tu lạc. Chỉ có chúng ta bị lạc vào những cái trạng thái của
Tưởng mà nó khiến cho thân của chúng ta trở nên rối loạn, trở thành điên khùng,
trở thành bệnh Thiền chứ không có gì khác hết. Chỉ có chỗ từ Nhị thiền đến Tam
thiền cái đoạn đường đó là quý vị sẽ lạc vào những cái Thiền ma mà trở thành
thân bệnh, tâm bệnh mà thôi. Nếu mà vượt qua được cái chỗ từ Nhị thiền đến Tam
thiền mà vượt qua mười sáu cái loại của Tưởng uẩn thì quý thầy sẽ được an toàn
trên bước đường tu tập, không có sợ điên sợ khùng gì nữa hết. Nó chỉ có một
đoạn đường đó mà người ta chết điêu chết đứng ở đó mà không đi tới đâu được
hết.
Gồm chung mười loại Định này gọi là Giới Đức. Nghĩa là mười cái
loại Định này thì nó được cái tên gọi là Giới Đức, còn gọi là Giới Tâm hay gọi
là Thiền Định, còn gọi là Trung Thiện. Những cái tên của nó để gọi cho chúng ta
biết mười cái loại Định đó nó có những cái tên của nó như vậy để cho nó phù hợp
với đạo Phật, đúng với cái nghĩa của đạo Phật. Bởi nó đứng ở vị trí nào thì nó
có một cái tên xứng hợp với vị trí nó.
Như vậy là chúng ta phải hiểu khi mà bốn cái loại định này nó
đứng ở trong cái vị trí của Định thì nó gọi là Thiền Định, mà nó đứng ở trong
Giới luật thì gọi nó là Giới Đức, mà nó đứng ở trong các pháp thiện – nhân quả
thì nó gọi là Trung thiện. Bởi vậy nó đứng ở vị trí nào thì nó có một cái tên
xứng hợp ở cái vị trí nấy, như nó ở vị trí nhân quả thiện ác thì nó gọi là
Trung thiện. Đó, Thầy đem cái ví dụ để quý thầy thấy rất rõ, nếu nó ở trong cái
nhân quả thiện ác thì nó gọi là Trung thiện, mà nó ở cái vị trí của Giới luật
thì nó gọi là Giới Đức, nếu mà nó ở trong cái vị trí của Giới luật thì nó gọi
là Giới Đức, nó ở vị trí tâm định tỉnh, trong sạch thì nó gọi là Thiền định.
Nói chung nó là Giới Đức thanh tịnh tâm. Nó có một cái tên chung
của nó gọi là Giới Đức thanh tịnh tâm.
Đó quý thầy có những cái tên của nó, nó đặc biệt có những cái
tên riêng của nó nhưng nó có những cái vị trí đứng của nó, nó có những cái tên
riêng của những cái vị trí đứng của nó.
Như vậy là quý thầy nghe nói Giới Đức thì quý thầy hiểu nó là
cái gì rồi. Mà nghe nói Giới Đức thì quý thầy đứng ở trong nhân quả biết nó là
cái Trung thiện rồi, biết nó là cái tên gì rồi mà nếu gọi chung nó thì Đức Giới
thanh tịnh tâm. Đó thì quý vị có cái biết rằng cái Đức Giới này nó làm cho cái
tâm quả quý vị thanh tịnh mà định tỉnh, rất là sáng suốt.
Còn về 25 Giới hạnh như Thầy đã dạy ở trên còn gọi là Giới bổn
Patimokka. Hai nhăm cái hạnh mà mình không làm nghề nghiệp này không làm nghề
nghiệp kia đó, không sát hại chúng sanh đó. Tất cả những cái ở trên thì nó
thuộc về Giới bổn, sau này chúng ta ta sẽ học nó để chúng ta bổ túc thêm cho 25
cái Giới hạnh cho nó rõ ràng là oai nghi tế hạnh của người tu sĩ. Học Giới bổn
rồi chúng ta mới thấy được 25 Giới hạnh này nó còn thêm những hành động mà
chúng ta chưa có học, có thu nhập, có hiểu biết, chưa toàn diện. Khi mà học hết
Giới bổn Patimokka này rồi thì chúng ta có đầy đủ hơn về những cái Giới hạnh.
Hạnh Giới Ly trần tâm. Nghĩa là 25 Giới hạnh này còn có một cái tên gọi là Hạnh
Giới Ly trần tâm, nghĩa là cái Giới hạnh này nó ly cái tâm thế tục của chúng
ta, nó ly cái đời sống thế tục của chúng ta, chúng ta không còn ở trong thế tục
nữa, không còn sống như cách sống thế tục nữa. Cho nên nó có cái tên gọi là
Hạnh Giới Ly trần tâm, chúng ta không còn cái hành động sống như các người thế
gian nữa, cho nên nó ly ra tất cả hết cái tâm trần của chúng ta, nó lìa ra hết.
Cho nên nội cái Giới hạnh không là chúng ta đã lìa cái thế gian rồi.
Còn về 8 Giới Tuệ như trong Kinh Sa môn quả đã dạy thì chưa
đủ. Nó có 13 Giới Tuệ. Bây giờ cái Giới Tuệ chúng ta phải xác
định, hồi nãy Thầy xác định cái Định cho nó đủ để 10 cái Định. Còn
bây giờ nói hồi nãy chúng ta có học 8 Giới như trong Kinh sa môn quả đã dạy thì
nó chưa có đủ đâu, mà chính nó phải đủ là 13 cái Giới Tuệ chứ không
phải là có 8 Giới Tuệ đâu.Nhưng mà theo Kinh Sa môn quả thì chúng ta nêu ra
8 cái Giới Tuệ, cho nên nó có sự tóm tắt lại để cho chúng ta ngắn gọn, để không
nó dài dòng cho nên ở đây nếu phải rõ thì nó là 13 Giới Tuệ chứ không phải là
có 8 Giới Tuệ. Chúng ta phải kể ra cho rõ, nghĩa là Thầy phải nói ra cho rõ để cho
quý thầy biết như thế nào là 13 cái Giới tuệ này mà ở trong Kinh Giới, Kinh Sa
môn quả thì dạy có 8 cái Giới Tuệ mà thôi. Vậy thì nó làm sao mà có được 13
Giới Tuệ đây? Chúng ta phải thấy:
1. Bốn Như Ý Túc.
2. Lục thông.
3. Tam minh.
Quý thầy thấy nó rõ ràng là Bốn Như Ý Túc mình muốn như thế nào
nó làm theo như thế nấy hết mà bốn cái lận chứ không phải một cái Như Ý Túc
đâu. Cho nên nó là bốn, mà Lục thông là sáu cái thông: Thiên nhãn thông, Thiên
nhĩ thông,… cho đến Tha tâm thông sáu cái, mà sáu cái cộng với bốn không phải
là 10 sao? Rồi (3) cái Tam minh nữa. Ba cái nữa là phải 13 không? Cho nên phải
nói đủ là 13 cái Giới Tuệ. Thì như vậy là chúng ta thấy cộng lại là nó đủ 13
chứ không phải như trong Kinh Sa môn quả nói đâu. Trong Kinh Sa môn quả chỉ nói
cái Thiên nhĩ thông. Thầy nhắc lại cái Thiên nhĩ thông ở trong này là khi cái
người đạt được cái Thiên nhĩ thông mà siêu nhân rồi thì cũng nghe cái tiếng ở
cách xa ngàn dặm đó. Cũng như mình đi ra ngoài đường mình nghe người ta đánh
trống, thổi kèn, đánh xập xả y như vậy, rõ ràng như vậy mà cái tiếng người ta
nói chuyện ở đâu mình vẫn nghe được như vậy. Đó là đức Phật nói về Lục thông
thì đức Phật có nêu lên có một cái mà thôi để nói nó là cái Trí, cái Tuệ, cái
Giới Tuệ của nó ở trong cái…cho nó gọn thành lại 8, nhưng mà lôi ra cho đủ là
nó phải 6 cái Lục thông này mới đủ chứ không phải một cái được. Cho nên ở đây
nó là 13 Giới Tuệ này còn gọi là Trí Tuệ viên mãn. Mười ba Giới Tuệ này cũng
còn gọi nó với cái tên là Trí Tuệ viên mãn vì nó viên mãn cái trí tuệ này nó
phải đủ 13 cái Giới Tuệ này, chứ một cái mà nói bây giờ chúng tôi có Tam minh
thôi thì cái người đó chỉ hiểu quá là cạn, đơn sơ quá đơn sơ.
Cho nên ngoại đạo nó cũng có Lục thông thì ở trong cái chỗ tu
hành của chũng ta cũng thực hiện Lục thông chứ đâu phải không có Lục thông. Mà
chúng ta còn có Tứ Như Ý Túc, muốn cái gì được như nấy, còn chúng nó chỉ có Lục
thông mà thôi. Cho nên nó luyện có Lục thông mà nó không có Tứ Như Ý Túc thì nó
đâu có bằng cái phương pháp của Phật, mà nó chưa có Tam minh nữa thì nó đâu có
sánh được bằng Phật. Nó chỉ có Lục thông mà thôi. Cho nên cái Lục thông của nó
là do luyện tập để tạo cho có cái Lục thông bằng Tưởng pháp chứ không phải bằng
cái chánh pháp đâu, bằng cái Tưởng. Vì vậy mà khi mà đến Tưởng thì chúng ta dùng
Lục thông này được, cũng như đồng cốt mà, nó chỉ dùng cái Tưởng mà nó biết nhà
mình cái gì cái gì nó rõ hết, nó không có nói sai. Thì quý thầy thấy cái vấn đề
Lục thông của ngoại đạo là Lục thông nó ở trong trạng thái của Tưởng uẩn mà nó
thực hiện ra. Còn Lục thông của chúng ta là ở chỗ tâm thanh tịnh, sáu căn mắt
tai mũi miệng thân ý của chúng ta do ly ác pháp và ly dục cho nên nó thanh tịnh
mà nó như cái hồ nước trong. Vì vậy mà cái Lục thông này tự thanh tịnh mà thông
suốt ra chứ không phải là do chúng ta luyện tập ở chỗ Tưởng.
Biết như vậy thì chúng ta mới thấy được cái chỗ tuyệt vời của
đạo Phật đối với cái chỗ 13 cái Giới Tuệ này. Cho nên còn gọi nó là Trí Tuệ
viên mãn, viên mãn tức là đầy đủ, trọn vẹn không còn thiếu nữa. Còn gọi là Trí
Tuệ siêu việt, nó còn có những cái tên Trí Tuệ viên mãn là trí tuệ đầy đủ không
còn thiếu, tự 13 cái Giới Tuệ này là Trí Tuệ đầy đủ không còn có cái nào nữa
thêm nữa được hết. Đó gọi là Trí Tuệ viên mãn. Nó còn gọi là Trí Tuệ siêu việt,
cái trí tuệ này nó điều khiển tất cả những cái mà người ta không có thể lường
được cho nên nó gọi là siêu việt.
Nói Trí Tuệ người ta tưởng lầm là Tri kiến. Bữa giờ mình nói Trí
Tuệ thì người ta nghĩ rằng đó là cái Tri kiến của mình. Có người hiểu bởi vì
Tri là biết, kiến là thấy, biết thấy thì người ta nghĩ như vậy, người ta cho
Tri kiến là Trí Tuệ, vì tri kiến là Trí Tuệ người ta phân chia làm 3 Trí Tuệ.
Cho nên bây giờ Thầy nhắc là người ta lấy cái tri kiến đó mà người ta cho rằng
nó là Trí Tuệ cho nên người ta phân chia cái Trí Tuệ đó làm 3 cái Trí Tuệ của
chúng ta. Đó là một cái hiểu sai của những người chưa có biết tu. Cho nên vì
vậy trong Kinh rõ ràng là ghi như thế này:
1. Văn Tuệ.
2. Tư Tuệ.
3. Tu Tuệ.
Ai mà nghe những người giảng về Trí Tuệ đó thì họ phân chia rồi
làm Văn Tuệ, Tư Tuệ, Tu Tuệ. Phải không? Văn - Tư - Tu đó. Cho nên cái
này nó chỉ là Tri kiến chứ không phải là cái Tuệ đâu, nó không phải là Trí Tuệ
đâu. Nó là cái Tri kiến của chúng ta. Nó chưa đạt được cái Tri kiến giải
thoát nữa. Cái chỗ mà Văn Tư Tu này nó chưa đạt được cái tri kiến giải thoát
của chúng ta nữa. Nó chỉ mới ở cái chỗ Tri kiến mà thôi, tức là cái nơi mà
chúng ta tích trữ, tập hợp lại tất cả những sự hiểu biết của Kinh sách, của
những người xưa người nay để thành một cái hiểu biết của chúng ta, gọi là Văn
tuệ, tức là chúng ta nghe rồi chúng ta tích lũy lại gọi là Văn tuệ. Từ cái chỗ
Văn tuệ đó chúng ta suy tư bằng cách này bằng cách khác để làm cho tâm chúng ta
giảm bớt sự buồn khổ, như thế này thế khác hoặc là chúng ta suy tư ra để mà
chúng ta tìm hiểu thêm ra, thì đó gọi là Tư tuệ. Tư là suy tư, tư duy, cái suy
nghĩ để mà hiểu thêm ra, để mà thấu suốt được cái gì đó thì gọi Tư tuệ. Nhưng
đó cũng là cái Tri kiến của chúng ta chứ không phải là cái Trí Tuệ.
Còn đến phần Tu tuệ thì ở trong Kinh sách dạy chúng ta lấy một
cái sự hiểu biết như bây giờ Phật dạy làm cho chúng ta hiểu biết đó, đó là cái
thân chúng ta này, Ngũ uẩn của thân ngũ uẩn chúng ta này là Vô thường, Khổ, Vô
ngã này, thì chúng ta lấy cải chỗ hiểu biết đó mà chúng ta tu tập làm cho thân,
cái tâm của chúng ta không có phiền não, đau khổ nữa. Vì thế cái thân vô thường
này mình không chấp ngã này, mình không có giận hờn ai nữa này, mình thấy cái
thân vô thường này mình không có sợ đau sợ khổ nữa này. Cái mà làm cho
mình không có đau khổ đó gọi là lấy cái Trí Tuệ đó mà tu thì gọi là Tu tuệ.
Cho nên ở đây chúng ta phải hiểu 3 cái Trí Tuệ này chỉ là một cái Tri kiến của
chúng ta thôi chứ không phải gì khác hơn hết. Nó không phải là Trí Tuệ siêu
việt. Nó cũng không phải là Trí Tuệ viên mãn. Nó chỉ là một cái Tri
kiến tầm thường của mọi con người trong thế gian này ai cũng có chớ không phải
cần tu tập mới có. Nhưng khi mà chúng ta tích lũy thì chúng ta ăn nói nó có lưu
loát, nó có hơn cái người không tích lũy. Chúng ta nói ra văn chương bằng cách
này bằng cách khác là do vay mượn của kẻ khácnói thì nó hơn là cái người mà
không có vay mượn văn chương cho nên họ nói lời nói bình dân mộc mạc, họ nói
không có mượn câu này kia. Nói một hơi chúng ta để một câu kinh Phật ra nói,
nói một hơi chúng ta đem câu Nho ra nói thì cái đó là vay mượn của kẻ khác mà
làm ra cái chỗ ăn nói của mình cho có vẻ lịch lãm mà thôi. Đó là cái vay mượn.
Cũng như bây giờ chúng ta vay mượn khoa học để chứng minh cho
Phật pháp thế này thế kia, do đó Phật pháp có khoa học như vầy như vầy. Đó là
cái vay mượn của chúng ta qua những cái khoa học bằng máy móc của người ta tìm
ra những cái thực của cái cuộc sống ở trong cái vũ trụ này, do đó chúng ta vay
mượn cái đó để chứng minh cho Phật pháp nó cũng thực như vậy. Đó là cái vay
mượn mà cái vay mượn đó không phải là Trí Tuệ, đó là cái tri kiến góp nhặt mà
nói ra để làm cho chúng ta như một người thông về khoa học, thông về cái này
thông về cái kia. Đó là chứng tỏ cái bản ngã chúng ta, do cái tri kiến này mà
cái bản ngã của chúng ta càng ngày càng to lớn lên chớ không phải giảm xuống và
vô ngã được.
Văn Tư Tu Tuệ này chỉ là một Tri kiến góp nhặt chứ không thể
được liệt vào Tam Vô Lậu học Giới – Định – Tuệ của đạo Phật. Bởi vì Giới – Định
– Tuệ của đạo Phật nó là một cái loại Giới luật, mặc dù nói là Giới – Định -
Tuệ có cái tên riêng nhưng mà sự thật toàn bộ Giới – Định – Tuệ là một cái Giới
luật như Thầy đã nói. Giới bổn tức là Giới Hạnh, mà Định tức là Giới Đức, Tuệ
là Giới Tuệ. Cho nên toàn bộ của đạo Phật là Giới luật chứ không phải
gì khác hết. Vì người dạy Giới luật mà không hiểu được điều này mới thấy
Giới là nói riêng, Định nói riêng và Tuệ nói riêng, cho nên dạy giới luật rất
là khô khan. Làm cho con người ta học đến Giới luật người ta chán, người ta
thấy như một cái giáo điều, như một cái pháp luật khắc khổ trói buộc con người,
cho nên người ta sống không nổi với nó. Còn trái lại ở đây Thầy dạy giới luật
nó ở trong Tam Vô Lậu học cho nên Giới – Định – Tuệ nó là một cái Giới luật để
đem lại sự giải thoát cho con người. Từ bước đầu vô cái Giới hạnh chúng ta đã
thấy giải thoát, cho đến Giới Đức chúng ta thấy cả một sự định tâm vô cùng
tuyệt diệu, cho đến cái Giới Tuệ chúng ta không nghĩ lường được cái quyền lực
của Giới Tuệ đến cái mức độ cao siêu vô cùng của đạo Phật như vậy.
Cho nên ở đây dạy về Giới luật mà hiểu biết được Giới kinh, hiểu
biết được cái nhân quả của cái pháp môn Giới – Định – Tuệ này thì Thầy nói là
người dạy Giới luật rất là linh động, rất là khéo léo, làm cho người nghe càng
ngày càng thích và càng ham tu Giới luật hơn. Còn nếu mà cái người mà không
hiểu được như vậy dạy Giới luật người ta không bao giờ mà phát triển được Giới
luật. Đứng ở trên góc độ dạy Giới luật như Thầy thì tin rằng Giới luật
sẽ phục hồi rất nhanh và tiến bước trên con đường Giới luật mọi người người ta
khép chặt mình trong Giới luật để người ta thực hiện được cái đời sống giải
thoát, người ta không hề sợ khổ mà người ta thấy đó là một cuộc giải thoát thực
sự, hoàn toàn là một cuộc cách mạng của con người, làm cho chúng ta làm chủ
được cái sinh tử. Từ lâu chúng ta bị sinh tử làm chủ, bây giờ đòi lại
quyền sinh tử bằng một cái cuộc cách mạng, bằng cuộc cách mạng tức là thay đổi
cuộc sống của chúng ta toàn bộ.
Đó thì quý thầy thấy rất rõ nếu mà chúng ta không làm một cuộc
cách mạng hoàn toàn thì chúng ta không đòi lại quyền là chủ sinh tử đâu. Đó là
cái mục đích của Tam Vô lậu học là như vậy. Mà Tam Vô Lậu học là một cái Định
lực của Giới luật nó làm cho chúng ta thay đổi toàn bộ của cuộc cách mạng đời
sống của chúng ta. Cho nên quét sạch ra được thì chúng ta mới đạt được cái này
mà không quét sạch không làm cái cuộc cách mạng cho cuộc sống chúng ta thì hoàn
toàn chúng ta không đạt được cái sự giải thoát này đâu.
Vì Giới – Định – Tuệ của đạo Phật là ba pháp môn liên hoàn,
nghĩa là ba cái pháp môn này coi như nó kết hợp, nó liên hoàn nhau trong một
cái Giới luật chứ không phải là hai. Giới sinh Định, Định sinh Tuệ, không thể
tách lìa ba pháp môn này ra từng pháp môn được. Người không hiểu pháp môn này
họ hay tách lìa nó ra từng pháp môn, từng pháp môn, Định nó khác rồi Giới nó
khác. Người mà hiểu được ba pháp môn này đứng ở trên một cái nền tảng của Giới
luật thì hoàn toàn nó là ba pháp môn là Giới luật không gì khác. Người chưa có
kinh nghiệm tu hành trong đạo Phật thì không thể nào liễu giải pháp và liễu
giải nghĩa được. Thường họ giảng theo tri kiến phàm phu nên làm lệch nghĩa của
Phật dạy. Tri kiến mà họ hiểu là Trí Tuệ thì rất là sai lạc, lầm
lạc.
Người phàm phu ai cũng có tri kiến, nhưng một người tu hành đã
giải thoát có còn tri kiến hay không? Nếu mà cái người phàm phu thì luôn luôn
họ có tri kiến thì đồng ý rồi, nhưng thử hỏi một người tu hành đã giải thoát
rồi thì cái tri kiến họ có còn hay không? Thì ở đây Thầy xin trả lời: Thưa
không! Nghĩa là cái tri kiến đó họ hoàn toàn không có. Tại sao
vậy? Vì Tri kiến phàm phu đầy dính mắc và uế trược. Nghĩa là
cáitri kiến đó đây góp nhặt, đầy kiến chấp, tà kiến, học cái gì mà thấy khá hay
thì họ dính vô đó rồi, họ cho đó là cái hay chứ họ chưa biết cái đó là tà kiến,
cái đó là đúng cái đó là sai nữa. Họ thấy hay, họ nghe cái câu kinh đó hay thì
họ chấp nhận cái câu đó hay. Họ nghe cái lời của một cổ nhân nào nói hay là họ
chấp nhận ngay chứ họ chưa biết cái đó là tà kiến hay chánh kiến, họ chưa biết
đâu. Cho nên cái người tu hành giải thoát theo đạo Phật xong rồi họ không có
tri kiến đó nữa. Thì họ có cái gì mà họ dùng trong những cuộc sống của họ hàng
ngày họ đang sống? Đến đây Thầy sẽ trả lời để cho quý thầy thấy.
Vì tri kiến phàm phu đầy dính mắc, cái tri kiến, cái sự hiểu
biết đó nó đụng cái gì nó dính cái nấy và uế trược, nó rất uế trược.Vậy một
người tu đã thành tựu viên mãn có phải họ sống với Trí Tuệ hay không? Thưa
không! Nghĩa là họ cũng không sống với Trí Tuệ. Cái Trí Tuệ mà siêu việt họ
cũng không có sống đâu. Họ không có sống với cái Trí Tuệ đó. Khi họ sử dụng thì
họ lấy họ dùng, mà không thì họ hoàn toàn không sống với Trí Tuệ đó. Đừng nghĩ
rằng khi một người tu chứng họ luôn luôn sống với Trí Tuệ. Không. Họ sống với
cái gì đây? Vậy thì như thế nào? Nghĩa là họ phải sống như thế nào đây? Hàng
ngày họ đang sống với Tri kiến Giải thoát. Bởi vì quý thầy thấy
cái tri kiến nó dính mắc, mà Tri kiến Giải thoát nó đâu có dính mắc. Bởi vì tri
kiến họ cũng y như cái đầu của chúng ta suynghĩ sao thì họ cũng suy nghĩ vậy,
họ không khác chúng ta nhưng mà mọi vật đến với họ họ không bị dính mắc, họ
không bị ô nhiễm từng miếng ăn, không ai gạt họ mà đem đút miệng họ được.
Ví dụ như bây giờ Thầy sống với Tri kiến Giải thoát mà một người
làm cho Thầy một cái ly nước chanh để đây cho Thầy thấm cổ để Thầy thuyết
giảng, mà khi Thầy tưởng là nước trong Thầy nếm thử, Thầy biết rằng không phải,
đây là nước chanh có đường, đây là cái sự cám dỗ cho nên hoàn toàn khô cổ là
khô cổ, nhất định là không uống. Đó là không thể cám dỗ cái Tri kiến Giải thoát
của Thầy được. Bởi vì cái tri kiến Thầy biết rõ đây là cái nước có đường mà,
thì đâu cám dỗ Thầy được. Mà cái người bị tri kiến, đang sống trong tri kiến
thì thấy cái ly nước này thấm cổ mà nghe thông nói cho nó suôn thì thích rồi,
ngay cái chỗ ngọt đã đã là cám dỗ vị ta rồi. Còn cái tri kiến Giải thoát là
không cám dỗ được cho nên Thầy vẫn sống trong tri kiến mà Tri kiến Giải thoát
chứ không phải tri kiến. Chúng ta phân biệt như vậy!
Cho nên trong Kinh thường chúng ta thường thấy Giới hương, Định
hương, Giữ Huệ hương, Giải thoát, Giải thoát Tri kiến hương, có năm loại hương,
thì cái người tu sĩ xong viên mãn rồi thì người ta sống ở trong Tri
kiến Giải thoát chứ người ta không phải sống ở trong cái Trí tuệ siêu
việt đó đâu. Khi sử dụng thì người ta sử dụng, mà khi không sử dụng thì người
ta đâu cần sử dụng nó, người ta chỉ cần sống với Tri kiến Giải thoát.
Đó thì quý thầy hôm nay mới thấy rõ được cái chỗ, cái bài mà
hàng ngày quý thầy tụng kinh niệm Phật đó, bắt đầu cầm ba cây hương lên mà niệm
hương thì ngay đó đã nói lên cái chỗ nào sống của quý vị. Cho nên cái Tri kiến
Giải thoát là cái hương cuối cùng mà quý vị dâng lên. Chúng tôi hãy sống hàng
ngày cái chỗ này nè! Để làm cho tâm chúng tôi thanh tịnh không bị uế nhiễm của
những đối tượng phàm phu vật chất. Đó là cái chỗ tu hành của một cái vị mà đã
viên mãn. Họ không bị ai lường gạt họ được. Cho nên nó có một cái giải thoát
kèm bên cái Tri kiến đó. Còn cái tri kiến kia là cái Tri kiến mà thích tụ,
kết tập nó không Giải thoát đâu mà nó dính mắc, cho nên ở đây Thầy giảng như
vậy quý thầy chắc thấy rõ ràng không còn mờ mịt gì nữa hết. Bởi vậy khi một
người tu hành xong luôn luôn họ sống đúng Giới Hạnh, còn gọi là Giới hương, họ
sống đúng Giới Đức còn gọi là Định hương, nghĩa là họ sống… Cái hương tức là
thơm chứ gì? Các con hiểu không?
Cho nên mình niệm hương, mình thắp cây hương lên mình nói chứ
không phải đâu! Nghĩa là mình sống đúng Giới hạnh gọi là Giới hương. Mình sống
đúng Giới Đức thì gọi là Định hương. Bởi vì Giới Đức nó thuộc về Định cho nên
gọi là Định hương. Mình sống đúng Giới Tuệ thì gọi là Tuệ hương. Phải không? Họ
sống đúng với Tri kiến mà mọi người đang sống, đang biết không lầm lẫn, còn gọi
Tri kiến hương, nghĩa là sống đúng với chánh pháp của Phật dạy, với sự
hiểu biết đúng chánh kiến chánh pháp của Phật thì cái đó mới được gọi là Tri
kiến hương. Còn mình sống không đúng với chánh pháp của Phật dạy,
không sống đúng với Giới luật của Phật dạy cái Tri kiến đó, nghĩa là mình chưa
thành tựu cái gì hết nhưng mình sống không có đúng, mình sống ngoài những cái
tri kiến của Phật dạy, những lời của Phật dạy trong Kinh mà mình sống không
đúng thì cái đó không được gọi là Tri kiến hương. Còn mình sống đúng tri kiến
mà đúng lời Phật dạy, không để tâm mình lầm lạc, không để cho mình lỗi lầm
những cái phạm giới thì cái người đó được gọi là Tri kiến hương. Họ sống đúng
với Tri kiến Giải thoát nên còn gọi là Tri kiến Giải thoát hương. Đó thì Thầy
phân ra cho chúng ta thấy cái mùi thơm của các loại Trí Tuệ của chúng ta, các
loại sống của chúng ta ở trong Giới luật, đó là những mùi thơm của Giới luật
đó. Cho nên cái Giới luật đầu tiên là Giới Hạnh thì gọi là Giới hương. Cái Giới
luật thứ hai là Giới Đức thì gọi là Định hương. Cái Giới luật thứ ba tức là
Giới Tuệ thứ ba gọi là Tuệ hương. Cái Tri kiến mà chúng ta từng sống ở trong
những lời Phật dạy gọi là tri kiến hương. Còn cái tri kiến hằng ngày mà các bậc
viên mãn mà sống đó thì gọi là Tri kiến Giải thoát hương.
Thấy như vậy chúng ta mới rõ được, cái hương là cái mùi thơm mà,
cái mùi thơm tức là cái mà làm cho ai quý mến, cũng trọng hết. Còn nếu mà cái
mùi thúi thì có ai quý trọng không? Đâu có quý trọng, cho nên hương không có
nghĩa là cây nhang, hương không có nghĩa là cái bột nhang mà đốt lên có khói đó
đâu. Hương đây là cái mùi thơm của Giới Đức, của Giới Tuệ, của Giới Hạnh, của
Tri kiến, của Tri kiến đúng đó, chứ Tri kiến sai thì cũng không được, của Tri
kiến Giải thoát. Đó là những hương thơm của những loại Giới luật này.
Đối với Tam Vô Lậu học…
… cái tri kiến của chúng ta không được gọi là tên Tuệ Vô Lậu
đâu! Trong 13 Giới Tuệ này, Giới Tuệ thứ nhất dẫn tâm đến Chánh trí
và Chánh kiến. Đây, quý vị mới nghe cái chỗ này, nếu mà cái người
tu tập Giới Tuệ thứ nhất thì từ đó chúng ta mới có được Chánh Tri kiến. Chánh
Tri kiến này tức là Tri kiến hương đó thì chúng ta phải đạt tới cái Trí Tuệ,
cái Giới Đức, cái Giới Tuệ. Đầu tiên cái Giới Tuệ thứ nhất lúc bây giờ chúng ta
mới dẫn tâm nó để chúng ta đạt được Tri kiến đó chứ không phải cái Tri kiến tầm
thường như Tri kiến của thế gian, cái Tri kiến kết tập, cái Tri kiến tích tụ,
tích trữ lại những cái hiểu biết của người khác thì tri kiến đó là Tri kiến
phàm phu. Còn cái tri kiến ở đây là cái tri kiến mà chúng ta phải có sự tu tập
trau dồi nó cho đến khi mà trong cái Tuệ Vô lậu nó đạt được cái Giới Tuệ đầu
tiên thì cái tri kiến đó mới được gọi là Tri kiến hương.
Giải thích cho rõ như vậy thì chúng ta mới biết được cái tri
kiến của chúng ta ở chỗ nào. Hồi nãy Thầy chỉ nói cái tri kiến đó phải thông
hiểu cái lý của Phật pháp mà không được chấp cái kiến nào hết, nhưng ở đây thì
Thầy dạy thêm để chúng ta thấy rằng khi chúng ta muốn đạt được cái Tri kiến
hương này thì để thông suốt được cái lý của Phật pháp thì cái người đó phải nằm
ở trong cái Tuệ Vô lậu thứ nhất của Giới Tuệ của nó. Trong 13 Giới Tuệ này Giới
Tuệ thứ nhất “dẫn tâm đến chánh trí và chánh kiến”, tức là Tri kiến
mà hàng ngày người tu hành viên mãn.
Ở đây cái chỗ này Thầy hơi giảng lầm chút. Khi mà cái người đó
mới tu học thì phải huân. Thầy xin lỗi phần này đính chính lại chỗ này để cho
quý thầy hiểu rõ hơn.Khi cái người mới tu học mà theo đạo Phật thì chúng ta
phải huân học, phải hiểu biết cái Phật pháp, cái nào đúng, cái nào sai, từ đó
chúng ta mới thấy con đường của Phật pháp nhưng cái hiểu biết đó là đúng, là
chân lý, là sự thật, nói thân là khổ, là vô thường thì nó là sự thật, nó không
còn sai nữa. Nói là khổ là con người sinh ra là khổ thì đó là một chân lý không
thể thay đổi được, nói là cái nguyên nhân mà sinh ra đau khổ thì cũng không thể
thay đổi được, mà nói một cái cảnh giới Niết bàn thì đó là một trạng thái tâm
hồn chúng ta hết khổ. Mà nói đến tám nẻo đưa đi đến cái chỗ giải thoát thì
chúng ta thấy đó hoàn toàn là một chân lý không thể nào có ai thay đổi tám nẻo
giải thoát này được. Cho nên cái hiểu biết như vậy, tích trữ cái hiểu biết đúng
đắn như vậy đó gọi là Tri kiến.Còn đến khi mà chúng ta tu tập
đến cái Tuệ Vô lậu thì cái Tuệ Vô lậu thứ nhất thì cái đó được gọi là Tri kiến
Giải thoát, chứ không phải là cái tri kiến mà mới có học hiểu biết
rõ của cái chánh kiến của đạo Phật mà thôi.Cái kia còn gọi là Tri kiến, mà
Tri kiến đó thì nó mới chỉ hiểu biết Phật pháp, nó mới ngộ được cái lý của Phật
pháp chứ chưa chứng được cái lý của Phật pháp. Còn người tu đến cái Giới Tuệ
thứ nhất ở trong cái Tuệ Vô lậu thì cái hiểu biết cái tri kiến đó được gọi là
Tri kiến Giải thoát. Cái đó là cái tuệ thứ nhất mới được gọi là tri
kiến Giải thoát. Cho nên người tu họ không sống ở trong tất cả các Tuệ
Vô lậu mà họ chỉ sống ở Giới Tuệ thứ nhấtlà Tri kiến Giải thoát.Cho
nên cái Tri kiến Giải thoát ở đây nó được gọi là cái Giới Tuệ thứ nhất ở trong
Tuệ Vô lậu. Thì quý thầy hiểu cho rõ như vậy. Hồi nãy Thầy giảng hơi lầm lạc,
Thầy xin lỗi chỗ đó để sửa lại cho nó đúng cái nghĩa của nó để chúng ta hiểu
cho nó rõ hơn.
Cho nên hằng ngày người tu hành viên mãn thường sử dụng cái Tri
kiến Giải thoát chứ không sử dụng tri kiến như kẻ phàm phu. Cho nên Tri kiến
Giải thoát được nằm trong Giới tuệ, được gọi là tuệ Vô lậu, nó cũng được gọi là
tuệ Vô lậu nhưng nó là cái Giới Tuệ thứ nhất ở trong 13 cái Giới Tuệ chứ không
phải là cái Tuệ cuối cùng. Thường thường cái người tu hành viên mãn thì họ sống
ở trong cái Giới Tuệ thứ nhất, họ sử dụng cái Giới Tuệ thứ nhất cho nên cái
Giới Tuệ đó để đưa cho họ có một cuộc sống không bị dính mắc, không bị đau khổ,
không bị phiềntoái nữa, ai làm gì thì họ trơ trơ, họ vẫn thanh thản, an nhiên
mà không động tâm chút nào, không dao động tâm mình. Tức là cái Tri kiến Giải
thoát đó hay là Giới Tuệ thứ nhất của trong 13 Giới Tuệ.
Con đường tu hành theo đạo Phật đến đây đầy đủ Giới – Định –
Tuệ, tức là viên mãn trên đường đi.
Còn Niết bàn là gì? Ở đây chúng tôi không trả lời câu hỏi này.
Xin tóm lại buổi học hôm nay chúng ta đã viên mãn Giới luật của
Phật, hay nói một cách khác chúng ta đã hoàn thành được Thiện pháp của đạo
Phật, và cuối cùng xin quý thầy nên lưu ý chúng ta chỉ biết sau đời
hiện tại của chúng ta đang sống ở đây không còn có một đời sống nào khác nữa.
Nghĩa là chúng ta đến đây thì người ta hỏi chúng ta còn cái Niết bàn là gì?
Nghĩa là chúng ta đến đây chúng ta đã viên mãn được Giới – Định – Tuệ như vậy
tức là từ Giới Hạnh, rồi Giới Đức, rồi Giới Tuệ. Chúng ta hoàn thành được những
cái Giới luật này rồi thì có người hỏi khi mà hoàn thành được các Giới luật này
rồi, Giới – Định – Tuệ này viên mãn rồi thì cái Niết bàn nó là gì? Có người hỏi
chúng ta cái Niết bàn là gì? Thì ở đây chúng ta không có trả lời cái câu hỏi mà
hỏi như vậy, là cái Niết bàn là gì thì chúng tôi không có trả lời. Nhưng khi mà
giảng về Tứ Diệu Đế thì nói về Niết bàn thì chúng tôi sẽ giảng cái Niết bàn.
Còn ở đây mà hỏi cái chỗ này thì nó không phải là cái chỗ hỏi Niết bàn của
chúng tôi. Vì chúng tôi đã hoàn thành được Giới – Định – Tuệ mà nếu chúng tôi
còn nói cái Niết bàn thì đó là chúng tôi còn mộng, còn chấp kiến, còn chấp cái
Niết bàn. Cho nên ở đây chúng tôi không nói Niết bàn mà chúng tôi chỉ nó như
thế nào cho đúng. Chúng tôi sẽ trả lời: Sau đời hiện tại của chúng
tôi đang sống đây không còn có một đời sống nào khác nữa. Nghĩa là
bây giờ chúng tôi đang sống đây là chúng tôi còn cái đời này thôi, chứ khi mà
chúng tôi bỏ cái thân này rồi thì chúng tôi không còn cái đời nào nữa, tái sanh
ra trong cuộc đời này nữa, chứ chúng tôi không biết Niết bàn nữa.
Mà những người nào tới đây mà còn nói cái Niết bàn như thế này
thế này, thì cái người mới học Tứ Diệu Đế, mới ngộ cái lý Tứ Diệu Đế chứ chưa
phải là cái người đó đã chứng đạt Tứ Diệu Đế. Quý thầy phải hiểu cái chỗ đạo
Phật như vậy đó, cho nên khi một người mà tới rồi mà còn nói rằng bốn đức
Thường – Lạc – Ngã – Tịnh trong đó thì người đó chưa tới. Cũng như cái người mà
tới rồi họ nói tui chứng quả A-la-hán thì người đó chưa chứng quả A-la-hán đâu.
Bởi vì mình còn thấy chứng quả A-la-hán thì tức là mình mới ngộ thôi chứ chưa
chứng đâu. Mà mình tới đó rồi thì mình không thấy mình chứng nữa. Thì tức là
mình chỉ biết nó như thế nào? Sau đời hiện tại của chúng tôi đang
sống đây không còn có một đời sống nào khác nữa hết. Nghĩa là tôi
không có còn sanh thêm sanh chỗ nào nữa hết, hoàn toàn là tui không còn cái chỗ
nào mà tui sống nữa hết. Rồi mấy người muốn nghĩ như thế nào đó nghĩ, muốn nghĩ
nó Niết bàn hay muốn nghĩ gì tự mấy người chứ tui không biết, tui tới đó là tui
hết rồi.
Đó thì quý thầy thấy cái chỗ Phật pháp vi diệu, hễ mở ra một cái
hiểu biết gì sai là nó đã lệch con đường của đạo Phật rồi. Nói mình có chứng là
không chứng rồi đó, là mình mới ngộ chứ chưa chứng đâu. Mà nói mình như thế này
thế khác là cái người đó chưa có đâu. Ở đây rất là vi tế cái chỗ này cho nên
Thầy mới khi mà viên mãn cái về ba cái Giới này, vạch ra một con đường đi cho
đến cuối cùng tới hôm nay thì quý thầy thấy rất rõ là tới cuối cùng không nói
gì khác hơn là còn một câu nói:Sau đời hiện tại của chúng tôi đang sống
không còn có đời sống nào khác nữa!
Quý thầy hiểu cái chỗ đó sao đó hiểu. Nếu mà tui nói còn có cái
gì đó thì tui chấp ngã tui rồi. Tui chấp cái ngã tui rồi cho nên nó có cảnh
giới tui sống, còn nếu mà tui không có cái ngã của tui thì tui không có cái gì
mà tui sống nữa hết. Cho nên nó còn hay mất thì quý vị muốn hiểu sao có hiểu
được cũng hiểu, tui không cần nói cái điều đó nữa. Nghĩa là tới đó là tui giải
thoát là tui giải thoát.
Bây giờ chúng ta tiếp tục học về Giới Bổn Patimokka.
Để thông suốt oai nghi tế hạnh của người tu sĩ, vì trong Giới
hạnh chưa nói đủ ta phải tiếp tục học thêm cho được đầy đủ hơn. Nghĩa là trong
cái Giới hạnh mà chúng ta vừa học 25 Giới đó, nó chỉ nói đơn giản thôi chứ nó
chưa có nói đến những caí hành động hàng ngày của chúng ta. Vì vậy mà cái Giới
bổn Patimokka này nó nói tất cả những cái hành động của chúng ta để mà chúng ta
không có lầm lạc, để mà thực hiện những cái Giới hạnh đó để cho oai nghi tế
hạnh của người tu sĩ phải được đầy đủ, phải được trọn vẹn cái hành động của nó
phải như thế nào để mà chinh phục mọi người, người ta thấy được cái đức hạnh
của một người tu sĩ nó không phải tầm thường. Vì Giới hạnh nó phải học rất
nhiều mới có thể thâm nhập được cái oai nghi tế hạnh của nó. Bởi vậy cho nên
chúng ta phải tiếp tục lại 25 Giới hạnh, là chúng ta phải học cái Giới luật
Patimokka. Cái Giới luật này nó mới có thể đầy đủ và cái Giới luật này nó cũng
rất nhiều chớ không phải ít. Do vì vậy trước khi mà giáo cái Giới luật
Patimokka này nó phải có một cái lời nói rất là dài và đồng thời Thầy có bổ túc
thêm những cái bài để mà chúng ta chuyển qua cái Giới luật Patimokka này.
Để bổ túc thêm phần giáo án về Giới luật Patimokka cho rõ nét (BBT:CĐ,22A,E00:45:22),
ở đâyThầy nhấn mạnh: Giáo pháp của đức Phật dạy người không có
tranh luận với một ai ở đời.Vì thế mà ác tưởng sẽ không ám ảnh. Do thế
người ấy sống không bị Dục, triền phược, không có nghi ngờ,(BBT:CĐ,22B,B00:00:20)
do dự với mọi hối quá, đoạndiệt, không có tham ái đối với Hữu và Phi hữu. Ở đây
quý thầy phải hiểu khi mà bước sang qua cái Giới bổn Patimokka này thì chúng ta
sẽ thấy tràn trề sự sai lạc của cái người khác rất nhiều. Nghĩa là học xong cái
Giới bổn này rồi thì chúng ta nhìn cái giới tu sĩ cũng như nhìn cái giới mà cư
sĩ hiện giờ là đệ tử của Phật hầu như là cái danh từ là đệ tử của Phật chứ hầu
như là những cái người đó đều là hành ngoại đạo hết. Cho nên vì vậy mà
thầy phải phòng ngừa trước khi mà bước đầu qua học cái Giới luật
Patimokka thì chúng ta phải chuẩn bị cho tinh thần chúng ta vững vàng để không
khéo thì chúng ta toàn là thấy là ma quái không đó, chứ không phải là Phật
đâu. Với một người mà người ta thông suốt được cái Giới luật rồi thì
người ta nhìn cái giới tu sĩ và nhìn cái giới cư sĩ hiện giờ người ta thấy toàn
là thứ phá đạo, toàn là thứ phá Phật pháp. Cho nên chúng ta không nói ra, không
có chống báng ai là vì vậy, cho nên ở đây Phật nói chúng ta khi mà học xong rồi
thì không có một cái tâm tham ái. Tham ái tức là thấy những cái sai cái không
đúng của họ đó đối với Hữu, đối với cái Có và cái Không chúng ta xem thường
hết. Chúng ta đừng thấy cái tâm của chúng ta nó quá như thế này hay như thế
khác rồi chúng ta sanh ra nhưng cái bỉ thử ở trong đó rồi vì
vậy mà chúng ta có tranh luận, rồi có những cái sự không hay cho cái đời tu
hành của chúng ta.
Vì vậy mà rồi từ ở trong cái ác tưởng của chúng ta, cái tưởng
của chúng ta nó khởi lên những cái ác kiến đối với những người đó làm cho chúng
ta có những sự ám ảnh không tốt đối với Phật pháp cũng như không tốt đối với
bản thân của những người đó. Họ sống như thế nào để nhân quả thì họ phải lãnh
đủ những cái nhân quả đó. Còn riêng chúng ta thì hãy câm miệng lại, không
nói ra một lời nào hết. Biết Pháp luật rất rõ ràng, biết Giới luật rất
rõ ràng nhưng không động chạm đến một người nào, không nói người nào sai không
nói người nào đúng mà chỉ giữ mình để thực hiện cho đúng những cái
lời Phật dạy mà thôi. Mình cứu mình chứ không thể cứu ai được
trong cái lúc này hết. Chừng nào mình cứumình được thì chừng đó mình mới cứu
người ta được. Mình đã ra khỏi được cái con đường của thế tục thì mình mới có
mong mình cứu người còn đang ở trong thế tục. Còn mình đang ở trong thế tục mà
mình cứu người thế tục thì không cứu được đâu, và đồng thời đôi khi mình lại chết
chung với họ ở trong thế tục. Cho nên những cái hạnh Bồ Tát mà gọi là sống
trong thế tục để độ người thế tục thì coi chừng Bồ Tát cũng chết luôn với những
người thế tục mà không độ ai được hết.
“Giáo pháp của ta ví như một cái bánh mật”.Đức Phật
nói giáo pháp của đức Phật như một cái bánh ngọt, cái bánh mật, chớ không phải
là một cái bánh cay đắng đâu! Cho nên đến Giới luật thì người ta thấy cay đắng
lắm. Sống mà như thế này các thầy cứ nghĩ “ba y một bát” có cay đắng không? Đi
xin ăn người ta không cho, ngày nay không cho ngày mai không có thì quý vị thấy
như thế nào? Phải ăn lá cây rừng mà sống rồi. Mà ăn lá cây rừng quý vị chưa
từng tập thì quý vị có thấy xót ruột không? Chưa chắc là đã không mệt mỏi khổ
sở. Thế mà đức Phật nói “giáo pháp của ta là bánh mật”. Bánh
mật là thứ bánh ngon chứ đâu phải bánh dở. Thế mà bước đầu và mà gặp tới cái
Giới luật, cái Giới bổn Patimokka này thì nó không phải là bánh mật thật đâu.
Mà chính nó là bánh mật nếu mà chúng ta thực hiện đúng. Nếu mà chúng ta thực
hiện không đúng thì nó là những bãi chông gai, nó là những cái chỗ nguy hiểm
nhất, nó là những cái chỗ mà chúng ta không thể sống nổi.
Khi đến đây Thầy cảnh giác nhữngcái điều này mà trước khi dạy nó
thì Thầy phải cánh giác rất lớn đối với quý thầy, để khi quý thầy được học đến
nó thì quý thầy mới thấy được cái cái chỗ nào gọi là bánh mật mà cái chỗ nào
không gọi là bánh mật. Vì thế mà cái người dạy Giới ở trong cuộc đời bây giờ
thì họ… Cho nên đức Phật mới dạy chúng ta và cảnh giác chúng ta ở chỗ này để
chúng ta chuẩn bị cho cái Giới bổn này, sau khi chúng ta học thì chúng ta mới
biết nó là cái bánh mật như thế nào. Chớ nó không phải là đơn giản.
“Giáo pháp của ta ví như một cái bánh mật đối với cái người đang
đói lả và mỏi mệt. Cứ mỗi một miếng vị ấy nếm được vị ngọt thuần nhất. Cứ mỗi
một miếng vị ấy thưởng thức càng lúc càng thích thú hơn, càng thấy người khỏe
hơn, khinh an hơn”.
Đó, nếu mà chúng ta tu đúng, chúng ta biết được cái Giới bổn này
đúng thì mỗi một cái Giới mà chúng ta thực hiện thì giống như một người đang
đói, đói lả người, mệt mỏi mà cứ mỗi một miếng ăn vô thì coi như một cái Giới
luật mà chúng ta đã thực hiện vô thì mỗi cái miếng đó chúng ta thấy được vị
ngọt thuần nhất của nó ở trong đời sống của chúng ta. Đời sống đang lúc chúng
ta mệt mỏi đói khát đó mỗi một miếng nữa thì chúng ta thưởng thức mà càng thích
thú hơn và càng thấy khỏe hơn, và khinh an hơn. Đức Phật ví dụ cái Giới bổn nó
như vậy đó.
Đó là không phải là nói về Thiền định mà khinh an đâu,mà đây là
muốn nói rằng cái Giới luật mỗi cái Giới luật mà chúng ta chấp hành nghiêm
chỉnh nó đem đến chúng ta cũng như cái bánh ngọt mà chúng ta cầm mỗi miếng
chúng ta ăn trong lúc chúng ta là người đang đói đang mệt đó mà chúng ta ăn thì
chúng ta thấy nó ngọt mà nó khỏe lắm, nó ngon lắm, nó thích lắm, nó làm cho cơ
thể chúng ta càng ngày càng thấy cái sự sống, nguồn sống nó dồi dào lên. Còn
nếu mà sai thì các thầy thấy ngán quá, ớn quá, sợ quá. Đây đi xin ăn chắc không
có ai cho chắc chết, bây giờ không có làm sao, coi chừng công an nó bắt bỏ tù
nữa, nó nói mình gian lận, làm biếng, nó làm thế này thế khác. Từ cái tư tưởng
đó, suy nghĩ đó thì ngay đó là mình đã thấy hoảng hồi rồi chứ chưa nói chi mà
tới ôm bình bát đi xin nữa. Không biết đi xin mới đây đi ôm bình bát xấu hổ
quá! Trời ơi thời giờ mình không có đi xin. Kiểu này không ai ngó tới đi mắc cỡ
chết. Cái tư tưởng đó vẫn có mà.
Lúc Thầy mới bắt đầu đi khất thực Thầy cũng vậy. Đi ra đường ôm
bình bát đi mà con mắt nhắm chứ không dám mở, mở sợ thấy người ta cười mình.
Trời ơi mình vậy mà đi xin. Từ nào tới giờ mình đi dạy học hoặc đi làm ai cũng
biết mặt hết. Trời, đi ra đường vậy, nhất là Thầy ở thành phố mà Thầy đi xin ở
mấy cái chỗ chợ thành phố mà bên chùa Giác Ngộ nữa thì các thầy nghĩ sao? Bao
nhiêu Phật tử quen mình quá rồi. Hồi nào tới giờ họ kêu mình thầy mà giờ ôm cái
bình bát đi xin. Mà chính cái chỗ đó họ lại còn kính trọng Thầy hơn nữa chứ! Mà
khi mình đi thì mình ngại ngùng vô cùng lận! Từ hồi tới giờ ai có làm này. Kỳ
vậy! Đó là những cái bắt đầu của Thầy, mà Thầy đi có một mình chứ phải đi có
người nào hướng dẫn thì cũng đỡ đi. Đằng này tự mình à! Rồi mình nghĩ cách thức
rồi bắt chước theo mấy ông khất sĩ, thôi mình cũng làm đùa. Trong kinh thì đâu
có dạy kỹ cái vấn đề nà,y bởi vì kinh Đại Thừa nó đâu có nói về chuyện khất
thực đâu mà đi dạy. Đâu có phải như bên Nguyên Thủy kia nó dạy rất kỹ còn bên
đây nó đâu có dạy chuyện này. Cho nên học Đại Thừa rồi đi ra khất thực ngơ ngáo
chẳng biết gì hết. Thầy mới hỏi thăm thầy Thiện Huệ là hồi ông còn nhỏ ông đi
với thầy của ổng, cũng đi khất thực cũng ở thành phố ở chùa Giác ngộ cũng đi
khất thực. Thầy mới hỏi ông về khất thực sao, ông nói thì mình cứ ông bình bát
vậy mình cứ nhắm mắt mình ngó xuống đất mình đi đi. Rồi họ cho mình chứ cái gì!
Thầy nghe vậy thôi, Thầy cũng ôm bình bát Thầy cũng đi vậy thôi, mà hồi đó Thầy
đâu có bình bát. Các con biết không? Thầy phải đi mua cái ô mà người ta để trầu
cau đó nó tròn tròn bằng nhôm đó, Thầy mới may cái túi Thầy mới bỏ trong đó
Thầy ôm vậy Thầy đi. Trời đất ơi! Người ta biết, hồi đó nó dễ chứ bây giờ mà
kiểu này mà bưng cái kiểu đó mà nó thấy không có giống cái bình bát là nó ra nó
chốt liền đó. Chứ phải dễ đâu! Còn hồi đó nó dễ lắm! Hồi cái chế độ trước nó dễ
lắm! Bởi vậy Thầy ôm bình bát đi Thầy xin như thường mà Thầy cũng chả biết xin
nhiều ít như thế nào nữa, chỉ biết đi xin thôi! Nhưng mà không ngờ khi mà Thầy
vào đến đầu chợ cái họ biết Thầy ở chùa Giác Ngộ lâu rồi. Họ để cho Thầy đi mà
họ không có cho. Trời mắc cỡ gần chết, không có cái gì hết, nhưng mà Thầy đi
suốt hết cái đường chợ vậy mà tới cuối hết cái chợ thì họ gồm họ để một đống họ
kêu xe xích lô chở về chùa Thầy. Thầy đâu có hay. Bởi vì họ thấy cái bình bát
Thầy thì nhỏ, mà Thầy đi như vậy thì bỏ được có bao nhiêu. Cho nên họ nghĩ rằng
Thầy đi xin cho cả chùa ăn mà, chớ đâu phải xin cho mình Thầy. Cho nên họ biết
Thầy ở chùa đó thì phải xin cho các thầy ăn chung chứ đâu phải có mình Thầy.
Cho nên Thầy đi hết cái đường chợ vậy không có cái gì trong bát thầy hết, mà
tới cuối chợ Thầy thấy họ chất một đống nào cải nào bánh mỳ, đồ ăn đủ thứ hết,
đủ loại đường sữa gì đủ chất một đống. Cái có người Phật tử đứng đó họ
nói: Chúng con đã góp nhau hết chúng con để đây xin cúng dường Thầy.
Ôi trời ơi! Thầy xin có mình Thầy ăn mà sao cúng dường vậy? Thầy ở chùa Giác
Ngộ thì chúng con kêu xe kéo về cho Thầy chứ giờ mọi người cúng dường chứ đâu
phải mình con. Thôi kêu xe kéo về chùa. Các con thấy không? Đi xin là như vậy
đó! (BBT:CĐ,22B,E00:08:50)Bởi vì Thầy nói khi mới…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét