BĂNG SỐ 52
Nó đã diệt mòn đi
với cái sự tu tập Thiền định của Thầy, cho nên Thầy thấy mình chẳng ra gì hết,
mình là một con ‘số không’ ở trong cái thế gian này, không có gì hết. Bởi vì sự
giải thoát là giải thoát, không nghĩa giải thoát là bản ngã, mình làm chủ được
sanh tử, không có nghĩa là mình hơn ai hết, đối với Thầy thì Thầy thấy mình
không hơn ai hết, cho nên đối với Hoà Thượng Thầy vẫn thấy là một bậc Thầy
khả kính, Thầy không thấy hơn Hoà Thượng chút nào hết. Thầy chỉ thấy rằng mình
là người đệ tử phải làm sao giúp Thầy đền đáp ơn Thầy là đủ rồi. Còn toàn bộ
Thầy như là không có.
Hôm nay quý thầy đã
được nghe lời thỉnh nguyện của Thầy cách đây đã 7- 8 năm, mà may là còn, nhưng
cái lời mà ghi lại trong băng, trong những cái máy mà đem theo ghi thì các thầy
biết là cái phương tiện rất là tệ. Lúc bấy giờ trong cái bữa mà thu lời thỉnh
nguyện này, mà bây giờ Thầy ghi lại đây, chứ không phải mà hồi đó mà còn ghi
như thế này đâu. Thầy ghi rồi bây giờ Thầy bỏ đâu Thầy cũng chẳng biết cái bài
mà Thầy thỉnh nguyện ở Thường Chiếu. Thì thầy Chơn Thông bây giờ đã đi xa để
mà tu học theo Nguyên Thuỷ rồi đó. Thì Thầy đã mang theo 1 cái máy, cái máy
nhỏ như thế này, thầy lén thầy mới xin quý thầy cho chui vào mà quý thầy
không cho là không cho, chui vào để kê lại chỗ mà Thầy thỉnh nguyện với Hoà
Thượng để mà thu mà không cho là không cho. Cho nên, do vì vậy đó mà trong
khi đó thì cái chú ngồi sau, chú có cái máy nhỏ, chú bảo thầy bây giờ
Thầy thỉnh nguyện thì xin Thầy treo ở cổ này nè, rồi Thầy nói đây nó thâu
vô, cho nên bây giờ biết đâu chừng thầy Chơn Thông xin không được rồi làm
sao? Nó căng như vậy các con biết, không bao giờ họ để lưu lại cái lời nói của
Thầy ở đâu hết. Họ không bao giờ cho. Cho nên Chơn Thông đem máy vô thu
không có được, do đó quý thầy bảo để ở ngoài muốn thu ngồi ngoài mà
thu.
Làm sao mà con
thấy, bây giờ Thầy ngồi ở đây với Hoà Thượng, Hoà Thượng ngồi đầu đây thì
tất cả chúng ngồi dài đây, mà thầy Chơn Thông thì ngồi kia làm sao thu? Phải
không? Vậy các con thấy làm sao thu, mà cái máy nhỏ chứ đâu phải máy lớn,
thành ra làm sao thu được, chỉ có ngồi sát đây thì may ra để vậy thì mới
thu vô được chứ, mà nó còn không được rõ nữa, chứ đừng nói. Cho nên
vì vậy chú sau chú mới cho Thầy mượn cái máy, chú bảo Thầy thôi giờ Thầy đeo
cổ đi, không chắc gì Chơn Thông thu không được đâu. Thầy nhớ Thầy bấm chứ
Thầy không bấm thì nó cũng không chạy.
Mà lúc bấy giờ
trước khi mà xin thỉnh nguyện, trong khi mà ra giữa chúng mà Thầy quỳ
xuống Thầy xin thỉnh nguyện, trước khi mà ra Thầy đã bấm máy trước rồi, Thầy
ngồi đó, tới cái chỗ mà Thầy xin sám hối đó, thì tới phiên Thầy,
thì Thầy đã thò tay Thầy bấm cái nút rồi, nó chạy rè rè ở cổ Thầy cũng
lâu lắm rồi Thầy mới ra, chứ không phải là mau được. Do đó Thầy chỉ thu
lại, bây giờ là nghe lại cuộn băng đó nó rè rè rè rè đó, nó không rõ là
cái chỗ này nhưng mà nhờ đó mà bây giờ còn ghi lại, chứ không bây giờ Thầy
cũng chẳng đâu mà nhớ được mà ghi nữa chứ đừng có nói. Còn hồi đó thì
viết ra một cái bài để mà Thầy đọc lên cái lời thỉnh nguyện của mình nó
có mạch lạc hẳn hòi rõ ràng, chứ không phải nói miệng suông được, mà nó
rất gian khổ như vậy. Bây giờ nó còn này. Còn một cái bài thỉnh nguyện thứ
hai nữa coi như là không có thu được. Như vậy đó, thì các con biết nó còn
có cái bài thỉnh nguyện thứ 2 nữa chứ không phải. Ở đây là cái bài
thứ nhất, còn cái bài thứ 2 nữa.
Thì các con biết
làm Phật sự nó có nhiều cái gian khổ lắm, nó không đơn giản, nó phải trên
thuận dưới hoà, nó phải hoà hợp với nhau, nó không hoà hợp thì không bao giờ
làm được chuyện gì hết. Bây giờ Thầy nói cái Giáo án này ra là mục đích làm
sáng tỏ lại Phật pháp, làm lại những cái gì mà Phật Pháp người ta không hiểu
thôi. Không phải trách quý thầy hiện giờ là phạm giới phá giới đâu mà quý thầy
chỉ không hiểu mà thôi, chứ thầy nghĩ rằng quý thầy hiểu thì chắc không có
đến nỗi nào.
Thì hôm nay nói về
cái vấn đề này, thì hôm nào Thầy sẽ có dịp Thầy sẽ đọc lại cái dự thảo
phương án cái Trung tâm an dưỡng, cái mục đích mà đưa lên để xin phép Nhà
nước là phải nói có lý hẳn hòi đàng hoàng, chứ không phải là đơn giản đâu.
Cách thức đó như thế nào và tổ chức như thế nào và kinh phí như thế nào
mà hợp lý thì Nhà nước mới chấp nhận. Bởi vì nó là cái phương án Trung tâm
an dưỡng, do đó nó phải hợp lý mình mới trình cho Nhà nước rồi cái Kinh
phí mà để chi cho cái phương án này nó ở đâu mà có, chứ không phải đơn giản
đâu. Người ta sẽ còn hỏi mình tất cả mọi mặt, sau đó người ta mới chấp nhận
cấp giấy tờ cho mình, chứ đâu phải mình lập lên đó rồi nó không có
đồng xu nào trong đó, chỉ cất mấy cái số nhà đó, rồi bắt đầu nhận
vô bỏ đói người ta hết sao? Cho nên nó phải có cái nguồn kinh phí
nào, cho nên nó không có đơn giản đâu.
Vì vậy mà các
thầy thấy từ cái chỗ mà muốn tổ chức được như vậy đó để cho thực hiện được
cái hoài bão của một người tu sĩ mà đi khất thực, thì cái Trung tâm an dưỡng
phải có khu an dưỡng trung tâm. Tăng và Ni nữa, chứ không phải tăng không mà
không phải ni không. Tại sao vậy? Thầy muốn tổ chức lại cái đời sống của người
tu sĩ là ‘ba y một bát’, đi xin. Thì trong cái Trung tâm này nó có một cái nơi
để nấu cơm, để cung cấp cho mọi người về an dưỡng. Thì trong khi đó họ sẽ nấu
cơm giúp đỡ cho chúng ta tu hành mỗi ngày một bữa cho đúng giờ thì chúng ta đến
câu lạc bộ hoặc là cái nơi mà người ta nấu cơm đó người ta sẽ xới bát cho mình.
Thì mình sẽ thực hiện cái đời sống ba y một bát, đi khất thực rất là đúng mà
không có phạm vào một cái lỗi. Ngay cả đất nước của chúng ta nó không có lỗi
thời chút nào hết, chúng ta chẳng biết tiền bạc, chẳng biết gì hết. Ai cúng
dường thì đem cúng vào cái nơi nào đó, chứ còn chỗ chúng ta tu hành thì chúng
ta không nhận cúng dường mà chỉ nhận thức ăn mà thôi, nhận một ngày một bữa ăn
thôi, không nhận tiền bạc.
Đó là cái Thầy muốn
tổ chức như vậy, để quý thầy thấy rằng Thầy có những cái việc làm rất là sáng
suốt chứ không phải không, tổ chức ngay để mà chúng ta có một đời sống khất
thực, mà khất thực không có làm cho người khác nghèo. Mà chỉ có người giàu,
Phật tử giàu người ta bỏ vào, người ta cúng dường cho mình, rồi người ta nấu
cơm cho mình ăn ngay tại chỗ đó mà hàng trăm người có thể sống rất dễ dàng mà
không có lo, mà không có một cái chùa to tháp lớn gì. Chúng ta ở toàn là những
cái chòi tranh vách lá làm bằng tầm vông, vách tre như thế này. Nghĩa là
khu vực an dưỡng không phải là cái chùa cho nên chúng ta đâu có cất cái chùa y
như thật. Chúng ta chỉ có một cái nhà tròn hoặc cái nhà mát để chúng ta được
những cái ngày mà tập họp lại được nghe Thầy thuyết giảng nói về cái sự tu tập,
nói những cái bài pháp cho các thầy nghe tu tập thôi. Đó là cái nhà rộng cũng như
cái Thiền đường của chúng ta như thế này thôi, đủ rồi. Còn tất cả những chúng
thì hoàn toàn ở những cái chòi tranh vách lá, người cái người cái không có ở
chung nhau.
Đó là cách thức tổ
chức của Thầy, cái Khu an dưỡng của chúng ta (..). Mà ở đó không thờ ông Phật
nào hết, ở đó chỉ chuyên tu thôi chứ không có thờ tượng ông Phật nào hết. Mặc
dù chúng ta là một người tu theo Phật giáo phải có tượng Phật, nhưng ở đây
chúng ta đâu có quyền, chúng ta là người an dưỡng, nghỉ ngơi tu tập chứ không
phải chúng ta ở đây cất cái chùa mà thờ Phật. Nếu chúng ta thờ Phật tức là sai
đi cái chỗ chúng ta, mà chính thờ Phật không đúng. Theo Thầy thấy Phật ở trong
tâm của mình, mình tưởng nhớ Phật, hàng ngày mình sống đúng những cái gì mà
Phật đã sống thì đó là Phật ngay trước mặt mình rồi, còn đi đâu mà thờ cái
tượng. Cái tượng nó có giống không, chắc chắn là không giống đâu.
Như vậy Thầy đã nghĩ
cái điều nghĩ này cho nên cái đời sống của tu sĩ hiện bây giờ nó giống như đức
Phật ngày xưa. Đức Phật ngày xưa đâu có thờ ông Phật, phải không các con thấy
đúng không? Chúng ta cũng không thờ, nhưng hằng ngày chúng ta sống đúng giới
hạnh tức là ông Phật ngay tại chỗ giới hạnh đó. Chỗ hạnh sống của chúng ta là
ông Phật chứ không phải tìm chỗ khác. Do đó chúng ta càng muốn cho ông Phật
sống, càng thờ ông Phật tại khu đó thì tức là cái hạnh sống của chúng ta phải
toả ra những cái mùi hương của giải thoát của Đạo Phật thì chính là ông Phật
ở đó rồi. Không phải đi tìm ông Phật xi măng, ông Phật đồng, hoặc là
bằng vàng thờ, thì cái đó là cái hình thức của những người còn mê
tín, chứ không phải của người tu hành giải thoát, đó là cái chân
chính.
Còn
bây giờ chúng ta sẽ tiếp tục giáo án, tiếp tục để tu, để học
Thầy
xin trả lời chung qua những ý kiến mà qua 2 bức thư của thầy Thiện
Thiền. Trong cái bức thư đó thì Thấy rằng con đường của đạo Phật chúng
ta phải đi từ căn bản nhất là Thầy yêu cầu cái căn bản. Thì trong cái
căn bản đó không phải là ngay liền mà dạy Tứ thiền hoặc là Tam minh
được mà phải có cái lộ trình của nó rất rõ. Nếu mà khơi khơi mà cắt
ngang như vậy thì những cái giáo án của chúng ta nó không có thành một
cái khung được. Như bây giờ chúng ta thuyết giảng bây giờ bỏ những cái
khoản kia đi, bây giờ chúng ta bắt đầu vô cái tứ thiền đi, chúng ta bắt
đầu sơ thiền đi thì nó không thành một vấn đề của một cái giáo án
nữa, mà nó thành ra một cái đoạn mà có thể nói rằng một cái đoạn
văn hoặc là cái pháp nói về thiền đó thôi. Như vậy là chỉ có dạy
riêng chứ không thể nào mà nó gộp chung ở trong giáo án này được.
Không thể nào mà thu chung ở trong cái giáo án này được. Thí dụ như
bây giờ muốn dạy riêng, còn mấy ngày nữa thì quý Thầy xin: à bây giờ
còn mấy ngày nữa chúng con muốn học riêng, còn về phần giáo án thì
để sau này Thầy có thể Thầy giảng tiếp như thế nào thì sau này, còn
bây giờ chúng con muốn học tứ thiền. Ờ thì như vậy Thầy sẽ dạy
riêng, hoàn toàn Thầy sẽ dẹp cái giáo án này ra, Thầy không dạy nữa,
do đó Thầy chỉ dạy cái phần của tứ thiền rồi tam minh thôi. Thầy không
dạy Tứ như ý túc mà Thầy nói tam minh, phải ở trong chỗ nào để mà
hướng tam minh thôi. Thì quý Thầy nắm được tu được thì được mà không
tu được thì cái đó là cái phần của quý thầy, còn Thầy thì nói hết
những cái điều kiện mà ở chỗ đó để mà thực hiện, thì Thầy nói cái
đó rất rõ. Quý thầy làm được mà không làm được thì quý thầy chịu
lấy, chứ còn Thầy biết rằng cái lộ trình của nó phải đi từ cái dễ
đến cái khó.
Cũng
như bây giờ các thầy muốn biết cái bài vở ở trên lớp đại học nó như
thế nào nhưng mà cái trình độ chưa biết, chưa có hiểu được cái trạng
thái đó, cũng như bây giờ mình chưa có ly dục, tâm mình còn dục thì
mình chưa biết cái ly dục như thế nào mà gọi là có hỷ lạc do ly dục
sanh thì các thầy chưa biết, mà chưa biết mà đòi hỏi tới cái cao nữa
thì chắc chắn quý thầy chỉ còn ngồi ngó thôi chứ không biết. Mà đây
là Thầy dạy nó cô đọng lại một cái pháp, mà pháp của Phật nó dường
như là nó có móc chuyền với nhau, cái pháp này nó móc với cái pháp
kia, nó liên tục với nhau.Cho
nên 37 phẩm trợ đạo nó phải có cái móc chìm chứ không phải cái pháp
nào nó độc lập nó riêng được.Cho nên cái đầu tiên mà
chúng ta tu cái Định vô lậu được thì ngay đó thì định bốn thiền cũng
như cái tam minh nó dễ dàng. Mà cái vô lậu không được thì bây giờ bốn thiền với tam
minh cũng chẳng qua để đó là chúng ta ngó cũng như là cái tài liệu
mà thôi chứ không có gì hết.Bây giờ Thầy nói, dạy rất kỹ, ai
thấy nói tứ thiền thì người ta cũng thấy rằng đúng rất đúng, rất hay đó. Nhưng
mà thực hành thì quý thầy thực hành không vô, Thầy chắc chắn là không vô. Cho
nên ở đây khi mà chúng ta hiểu được cái giáo án này rồi thì chúng
ta biết bước đường chúng ta phải tập cái gì trước, tập cái gì sau.
Bây giờ quý thầy cứ nghĩ rằng mình phải nắm cho được cái thiền định đó để cho
mình tu, không có chắc quý thầy tu được đâu.
Bởi
vì con đường của đạo Phật nó thuộc về toàn diện của nó. Toàn bộ của nó là Giới
luật, là giới luật toàn bộ, từ đầu chí đuôi đều là Giới luật. Nó có một then
chì nó móc với nhau từ cái này nó móc với cái kia nó không thể rời nhau được.
Cái đời sống của tu sĩ nó móc nối những cái thiền định, những cái thần thông
của nó móc chuyền với nhau hết. Nếu
mà đời sống không hợp thì cái móc chuyền này nó bị gãy ngay rồi, nó không còn. Cho nên
bây giờ chúng ta lấy nội cái thiền của Phật, bốn thiền tu thôi, còn hoàn
toàn cái kia không cần, giới luật không cần, thì chúng ta chẳng đạt
được đâu. Thầy biết cái này mà, mười năm trong thất Thấy biết mà. Nếu
mà không có một cái Giới luật, không có sống đúng cái hạnh độc cư, không có
sống đúng ly dục ly ác pháp thì không bao giờ nếm được cái mùi vị của tứ thiền,
cũng không bao giờ thấy được tam minh.
Cho
nên quý thầy mất thì giờ lâu là tại vì quý thầy cứ nhắm thiền định mà quý thầy
không nhắm đến cái đức hạnh, cái giới luật. Chớ mà nhắm được cái giới luật đức
hạnh thì quý thầy sẽ đi mau lắm và cái thời gian rút ngắn chậm hơn nữa, thời
gian rất nhanh.
Cho nên Thầy sẽ cố
gắng trong thời gian này Thầy sẽ dạy cho các thầy Tứ thiền cho kịp chứ không
thể nào mà không có học Tứ thiền đâu. Và đồng thời có thể nói rằng khi mà dạy
tứ thiền được thì Thầy cũng cố gắng Thầy dạy Tứ như ý túc để chuyển qua Tam
minh cho nó có cái đường lối kích thước của nó đi rất dễ dàng. Bởi vì không có
tu Tứ như ý túc thì không có làm sao mà biết cái pháp mà đi tới Tam minh
được.Phải thực hiện hàng ngày tu tập như thế nào để trao dồi cái pháp hướng
pháp tùy như thế nào để mà thực hiện được tứ như ý túc như Thầy nói. Cho nên
cái người mà đi trước rồi thì người ta biết được cái lộ trình, còn các thầy
chưa đi trước cho nên các thầy nói khơi khơi. Nói chung mình chưa có đạt
được lớp 1 mà muốn nhảy lên Đại học mình ngồi để nghe coi thử mấy ông thầy, mấy
ông giảng sư trên này dạy làm sao thì chắc chắn là ngồi đó ngóng. Thiệt ra thì
chắc chắn là quý thầy cũng chỉ dùng những cái từ đó nói thiền đạo chơi, nghe
chơi thôi chứ còn thực ra nó không có, quý thầy hiểu cái gì mà biết. Bây giờ
đem ra thì các thầy cũng à bây giờ nhập sơ thiền, cũng nói theo cái lời mà Thầy
dạy, nói như két vậy chứ làm thì làm không được đâu. Chính cái cuộc sống mình
chưa sống được thiền nó đâu có được như vậy, cho nên cái kết quả nó phải theo
cái cuộc sống. Mà mình là người quyết tu theo đạo Phật thì phải lấy cái cuộc
sống để mà làm cái điều kiện để mà tiên quyết để đi hành, chớ còn cái ham muốn
như vậy Thầy thấy đó cũng là cái ham muốn sai, nó không đúng.
Trước khi học tu Tứ
bất hoại tịnh, quý thầy nghe lời dạy này của đức Phật để suy nghĩ cuộc sống và
mọi pháp sinh diệt trong thế gian này như thế nào. Đây là bài pháp của đức Phật
để dạy cho chúng ta biết, trước khi chúng ta tu Tứ bất hoại tịnh, cái pháp mà
làm chúng ta tin Phật, Pháp, Tăng như thế nào để cho nó tròn đầy. Tức là chúng
ta phải hiểu được cái lý của các pháp của đời sống của con người như thế nào mà
chúng ta không thể nào thực hiện được cái Tứ bất hoại tịnh. Thầy sẽ đọc bài
pháp mà người ta đã hỏi đức Phật:
‘Bạch
Đức Thế Tôn có cái gì mà không có thực ở ngoài có thể gây lo âu phiền muộn cho
mình?’.
Nghĩa là cái người
này họ hỏi đức Phật có cái gì mà nó ở bên ngoài của mình mà nó làm cho mình lo
âu phiền muộn, phiền muộn nhất. Thì đức Phật trả lời:
Có
thể có, này các thầy tỳ kheo, ở đây chúng ta nghĩ rằng “
Cái này chắc chắn là của tôi, nay chắc chắn không còn là của tôi nữa. Cái này
chắc chắn nó có thể là của tôi, chắc chắn tôi không được cái này”.Nghĩa
là cái người đó họ nghĩ như thế này “cái này là của tôi”. Cũng như bây giờ Thầy
ví dụ như cha mẹ của mình, mình nói là cha mẹ của mình đi. Bây giờ rủi mà cha
mẹ mình chết thì như thế nào. Bởi vì cha mẹ của mình mà, cho nên khi cha mẹ
mình chết thì mình có buồn không. Cho nên đức Phật nói, khi mà mình nhận thấy
các pháp đó ở ngoài mình chứ đâu phải ở trong thân mình mà chính mình nhận nó
là của mình thì tức là mình sẽ có sầu muộn.“Người đó có sầu muộn, than vãn khóc lóc, nóng ngực đi đến bất
tỉnh. Phải sầu khổ như vậy. Này các thầy Tỳ kheo như vậy có cái không thực ở
ngoài có thể gây lo âu phiền não cho chúng ta”.
Bây giờ cha mẹ mình
có phải là thực không, thế mà mình chấp là cha mẹ mình là thực. Do đó tức là
mình có cái sự phiền não, cái sự khi mà cha mẹ mình mất đi mình có cái sự phiền
não đâu khổ. Cho nên đó là những pháp bên ngoài tượng trưng, lấy một cái ví dụ
như cha mẹ mình, chứ còn bao nhiêu cái làm mình phiền não: như ví dụ cái đồng
hồ này, như ví dụ cuốn tập này, cuốn băng này nó mất đi nó cũng làm cho mình đi
tìm kiếm hoặc thế này thế khác. Đó không phải là làm cho mình phiền não sao? Đó
là tất cả những cái pháp ở bên ngoài chứ không phải pháp ở trong thân mình đâu
mà nó cũng làm cho mình phiền não. Như vậy theo đạo Phật mình đã hiểu như vậy
thì mình hãy buông xả nó xuống đi. Nó là những cái pháp làm cho mình đau khổ,
làm cho mình muốn chết đi, làm cho mình sầu muộn đi nó sung sướng gì đâu? Những
pháp đó chúng ta phải bỏ nó xuống đi, phải dẹp nó đi, chứ nếu mà chúng ta không
dẹp được thì chắc chắn là chúng ta sầu khổ đau buồn.
“Bạch
Đức Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở ngoài có thể gây lo âu phiền
muộn?”.
Nghĩa là cái người
hỏi đức Phật có thể có cái gì không thực có ở ngoài mà có thể gây lo âu phiền
muộn cho mình, nghĩa là bên ngoài nó không có cái thực có mà nó có thể gây lo
âu phiền muộn cho mình?
Có
thể có. Này các thầy Tỳ kheo, có người nghĩ như
sau “Cái gì chắc chắn đã là của tôi,
nay chắc chắn không còn là của tôi nữa, cái gì chắc chắn có thể là của tôi chắc
chắn tôi không được cái ấy thì người đó sầu muộn, than vãng, khóc lóc, đấm ngực
đi đến chỗ bất tỉnh”.
Nghĩa là có những
cái vật ở bên ngoài mà cái người đó mới đầu họ không có biết họ nhận cái vật
bên ngoài đó, như cha mẹ của mình là của mình đi hoặc là những vật nhà cửa đều
là của mình đi. À, bây giờ họ đã hiểu biết rồi, họ đã hiểu biết tất cả những
cái đó không phải là những cái vật của mình đâu. Không có phải những cái vật đó
là của mình cho nên nó sẽ bị hoại diệt, nó sẽ bị mất mát, nó sẽ bị tiêu mòn đi,
nó sẽ bị hao mất đi...nó sẽ không còn cái đó là mình giữ được nó đâu. Do đó,
như cha mẹ của mình bây giờ chết do đó mình có buồn không, nếu mình biết rằng
cái đó không phải là của mình, mình không có giữ được nó, nó không là vật
thường hằng thì như vậy là mình có buồn không? Nếu mình hiểu được như vậy khi
cha mẹ chết mình có buồn không? Không buồn, bởi vì mình thấy đó không phải là
vật của mình, là cha mẹ của mình mà đó là nhân quả.
Bởi vì Thầy muốn dạy
cho các thầy thấy đi vào con đường mà tu theo đạo Phật chúng ta không phải là
cái người vong ơn bội nghĩa với cha mẹ, chúng ta biết công ơn sanh thành của
người. Nhưng vì cái tâm niệm chúng ta đừng dính mắc nó là cái không thật, để
rồi khi cha mẹ chết mình sầu muộn mà mình phải cứu lấy mình. Mình biết như vậy
là cái không thật, mình không thể nào mà chết thay thế cho cha mẹ mình được,
mình cũng không thể nào gánh vác cho cha mẹ mình được. Do vì vậy đó màkhi cha
mẹ mình chết mình không có buồn nữa, mình biết là cái đó không phải thật là của
mình mà do nhân quả, do cái chỗ này thì mình mới thấy được cái cách thức tu tập
của mình, mới giải thoát được.
Bạch
Thế Tôn, có thể có cái gì không thật ở trong có thể gây lo âu phiền muộn chăng?
À, đức Phật nói, có
thể có, bây giờ nó ở ngoài, tất cả các pháp ở bên ngoài, bây giờ nhắm vào bên
trong của mình thì nó có cái gì đây? Cái người này hỏi đức Phật.
“Có
thể có ở đây này các thầy Tỳ kheo có người có tà kiến chấp thủ, đây là thế
giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ có cái này thường còn, thường hằng,
thường trú...không hoại diệt”. Đó là mình có những cái tà kiến, có những
chấp kiến của mình mình cho nó là đúng, cho cái kia sai. Mình cho những cái đó
là cái đúng của mình và chấp nhận cái đó là cái đúng của mình. Vì vậy, cho nên
đó là những cái mà khi cái này nó không thoả mãn cho mình thì mình đâm ra mình
buồn, đâm ra mình đau khổ, đâm ra mình tức tối. Đó, mình đòi hỏi những cái mà
nó chưa phải đúng thì đó là những cái tà kiến của mình chứ chưa phải là
cái chánh kiến. Vì cái chánh kiến thì bắt đầu mình phải thông suốt nó, vì đó là
những cái ở trong tâm của mình mà, những cái đòi hỏi, ham muốn của mình đều nằm
ở trong tâm của mình. Do đó những cái đó nó làm cho mình đau khổ, làm cho mình
phiền não. À, tôi sẽ nghĩ như thế nào, người này nghe Như Lai, hay đệ tử của Như
Lai thuyết pháp loại trừ tất cả những cái kiến sử này, cái cố chấp này, cái
thiên kiến này được một bậc thầy, được Phật và đệ tử của Phật thuyết pháp cho
họ nghe đó là những cái tà kiến, cái kiết sứ đó, cái cố chấp đó, cái thiên chấp
đó, cái thiên kiến đó, cái tuỳ miên, cái miên man ở trong đó, cái sự đòi hỏi
ham muốn của mình cái điều đó. Mà khi được Phật và các đệ tử của ngài chỉ
rõ cho mình biết cái đó nó không đúng thì từ đó mình phá vỡ cái tà kiến, cái
kiến chấp đó đi thì cái tâm của mình nó sẽ được thoải mái và dễ chịu. Cho nên
nó tịnh chỉ mọi hành động, sự từ bỏ mọi sinh y, sự diệt trừ khát ái
đưa đến ly tham đoạn diệt, Niết bàn. Cái
người đó khi mà được nghe như vậy, cái người đó nếu mà hiểu được thì họ sẽ thấy
rằng mình hoàn toàn được giải thoát, hoàn toàn ly được những cái tà kiến, cái
kiến xứ đó.
Còn cái người đó mà
không hiểu thì họ lại nghĩ rằng cái lời của Phật và các đệ tử của ngài nói như
vậy là mình đoạn diệt hết những cái tà kiến, những cái kiến xứ, những cái thiên
chấp này, thì mình đoạn diệt nó hết rồi thì tới chừng đó mình ly hết cái lòng
ham muốn của mình rồi, mình đoạn diệt rồi thì bắt đầu nó mất tiêu luôn, mình
cũng không còn có nữa, thì đó là đoạn mất hết rồi còn gì. Người đó có thể nghĩ
như sau:
chắc
chắn ta sẽ bị đoạn diệt, chắc chắn ta sẽ không tồn tại, người đó nghĩ như vậy
rồi đau khổ, rồi sầu muộn, rồi than vãn, rồi đấm ngực đi đến chỗ bất tỉnh. Này
các thầy Tỳ kheo, có cái không thực có ở trong ta có thể gây cho ta phiền muộn.
Nếu
mà chúng ta bị cái kiến chấp rồi chúng ta không thoả mãn được những cái đó, rồi
chúng ta nghe cái lời của đức Phật dạy rồi ta đoạn trừ cái đó đi, người đó lại
khởi một cái nghĩ, nếu mà đoạn trừ thì mất hết rồi còn gì? Mình phải chấp có
cái gì chứ để không nó mất hết chứ. Cũng như bây giờ nói cha mẹ của mình mà bảo
mình bỏ đi, thì như vậy đức Phật dạy như vậy thì mình bất hiếu thì sao? Mình
không thương cha mẹ thì còn thương ai, cha mẹ chết mà không khóc thì như vậy là
sao?Đức Phật muốn nói đây
không có nghĩa là bỏ cha mẹ mà đây là bỏ cái tâm nức nở, cái tâm mà than khóc,
mà trước cái sinh tử luân hồi của mọi người thì chắc chắn ai cũng phải đi vào
con đường đó hết. Thì như vậy là mình không khổ, chứ
không có nghĩa là bỏ cha mẹ, không có nghĩa là bỏ cho ông chết đói đi hay hoặc
là để cho ông chết đi, đâu có nghĩa như vậy. Đó là những cái tà kiến, cái kiến
xứ mình chấp sai làm cho mình khổ sở, làm cho mình khổ tâm. Còn mình hiểu đúng
những cái lời của Phật dạy thì mình không có khổ và mình thấy mình hết phiền
muộn.
-
Bạch Thế Tôn, có thể có cái gì không thực có ở trong, không gây lo âu phiền
muộn.
-
Có thể có, Này các thầy Tỳ kheo có người không có tà kiến như sau: nghĩa là những
người mà không có những cái tà kiến, cái kiến chấp, cái thiên chấp của họ, cho
nên họ dễ giải thoát lắm, họ mới nhìn thấy đây là thế giới, đây là tự ngả. Sau khi chết, tôi
sẽ thường còn, thường hằng, thường trú, không biến chuyển, tôi sẽ trú như thế
này mãi mãi.Những cái người đó có những cái tà kiến như vậy họ nghĩ
như vậy, nhưng mà khi nghe Như Lai và đệ tử của Như Lai nói rồi thì họ không
còn dính mắc cái đó nữa, họ buông xuống.
Cũng như quý thầy
yêu cầu Thầy giảng thì Thầy cũng lần lượt Thầy sẽ giảng cho quý thầy nghe hết chứ
đâu phải là không giảng. Nhưng mà trên cái bước đường mà giảng cái bộ giáo án
nó phải đi tuần tự để chúng ta xây dựng lại một cái đường lối không riêng một
người nào, không riêng gì một người nào hết mà đây là dựng lại một nền Phật
Pháp. Thì công việc của quý thầy mà hôm nay ngồi nghe được là phước báu của quý
thầy được nghe cái đường đi của đạo Phật chứ không phải quý thầy muốn ngay liền
quý thầy học một cái pháp thiền nào đó để về mà tu. Thì cái ham muốn đó là cái
ham muốn sai, nó không đúng.
Quý
thầy phải hiểu được cái chỗ đó, cho nên nó đưa đến cái chỗ bất mãn của quý
thầy, nó làm cho quý thầy không toại nguyện theo ý của quý thầy.Nhưng mà Thầy làm sao khi mà Thầy là người dựng lại cái đường đi
của đạo Phật cho nó đúng cách để cho người sau, không riêng gì quý thầy hiện
diện có mặt ở đây, mà còn biết bao nhiêu người đang mong đợi nó. Và cái nhiệm vụ của quý thầy là nghe
không phải để giải thoát liền bây giờ. Để nghe rồi còn phải suy tư, còn phải
chín chắn, còn phải giải quyết, còn phải lo lắng như thế nào để sắp xếp một đời
sống của mình như thế nào để đi được trên con đường này. Thì đó là cái vấn đề
quan trọng của quý thầy. À, quý thầy phải hiểu, còn nếu mà quý thầy đòi hỏi
trên cái quý thầy cấp thời thì tức là quý thầy không thấy được cái vấn đề, mà cái
giai đoạn cuối cùng mà Thầy nói ra cái lời này. Nếu mà Thầy thấy rằng không có
đủ duyên độ chúng sanh thì Thầy chẳng làm mích lòng ai hết, thì Thầy giảng chi
cái này làm gì? Quý thầy trong mùa hạ này họ có vấn riêng gì với Thầy thì các
thầy dạy muốn tu thiền như thế nào thì Thầy dạy thiền như thế ấy mà thôi, muốn
tu hơi thở trật thì dạy sửa lại thôi. Rồi các thầy cũng chẳng hiểu Phật Pháp ra
làm sao hết, thì mặc quý thầy. Rồi sau ba tháng hạ này, quý thầy trở về chùa
quý thầy hoặc về trụ xứ của quý thầy, hiểu được cái gì đó hiểu. Bây giờ đến đây
quý thầy muốn dạy về tu hơi thở thì dạy về hơi thở, tu cái gì đó thì dạy cái
đấy. Quý thầy trật chúng thì Thầy sửa lại cho cái đúng thôi, còn trong ba tháng
này quý thầy tu đến đâu thì mặc, Thầy không có trách nhiệm.
Còn
đây Thầy dựng lại cái Giáo án này tức là Thầy có một cái trách nhiệm với quý
thầy từ bước thấp đến bước cao. Cho nên Thầy mới đem cái sức của mình ra trong
những ngày quá ngắn ngủi, mà đem hết tàn lực của mình ra để xây dựng, để cho
quý thầy thấy rõ con đường đi của Phật Pháp và để cho quý thầy có đủ cái duyên mà sau này quý thầy đem cái giáo
án này ra để phổ cập lợi ích cho mọi người.
Còn riêng Thầy thì
kể như từ ngày ra cái Giáo án này rồi thì Thầy ẩn bóng rồi, thì cái
chuyện danh chuyện lợi Thầy còn làm nữa không, Thầy còn đi thuyết giảng nữa
không, Thầy còn ai nữa mà Thầy nói, Thầy còn độ ai nữa không? Cuộc đời Thầy
sống như chết rồi không còn gì nữa hết. Thầy đã nói rõ ràng mà, những lời này
coi như là những lời di chúc. Ngày xưa, đức Phật di chúc cho các ngài để tự lấy
Giới luật mà làm thầy, còn Thầy để lại cái Giáo án này là để lại cái lời di
chúc của Phật, tức là Giới Luật của Phật, nói như vậy rồi thôi. Bổn phận của
Thầy coi như là làm xong cái Giáo án này, là cái trách nhiệm của Thầy coi như
độ chúng sanh là xong, còn ai tu được, không tu được là phước báo của họ chứ
không phải của Thầy nữa, Thầy hết nhiệm vụ.
Thế thì ở đây chúng
ta phải thấy được những cái pháp ở bên ngoài nó làm cho tâm chúng ta đau khổ,
rồi những cái pháp ở trong do nó làm cho chúng ta đau khổ. Thì quý thầy đã nhận
ra qua quý thầy giống như ý kiến của quý thầy đưa lên, nó là cái ý kiến làm cho
nó không có đúng với cái Giáo án của Thầy, làm cho nó gián đoạn cái Giáo án mất
đi. Tới đây, thay vì Thầy phải dạy nó đi từng bậc, từng bậc của cái pháp của
Phật, 37 phẩm trợ đạo. Trước kia Thầy đã dạy các thầy thấy rằng Tứ vô lượng tâm
- Từ bi hỷ xả, rồi đến Tứ chánh cần, thì bắt đầu bây giờ là Tứ bất hoại tịnh,
rồi đây rồi sẽ học Ngũ căn, rồi Ngũ lực, rồi bắt đầu mới học tuần tự tới trạch
pháp Thất giác chi, rồi lần lượt mới tới Tứ niệm xứ, rồi mới Tứ thiền, rồi bắt
đầu mới dạy Tứ như ý túc, rồi mới Tam minh. Thì trong cái điều kiện đó thì bắt
đầu Thầy xen vào Bát chánh đạo, tức là từ Chánh kiến như thế nào, Chánh tư duy
như thế nào, để lần lượt để khai triển tám cái nẻo này ra trong những cái pháp
tu này. Thì trong khi đó Thầy sẽ xen vào bốn Chân lý từ cái Khổ, Tập, Diệt,
Đạo.
Như
hồi nãy giờ đây là Thầy xen cái Khổ, Tập rồi này, các pháp bên ngoài làm chúng
ta Khổ tức là khổ tập rồi chứ gì? Đó là cái Chân lý. Cha mẹ mình chết làm sao
mình không khổ. Mà bây giờ cha mẹ chết mình vẫn thấy đó là nhân quả cho nên
mình vẫn không buồn mà cũng không vui.Lo
hết bổn phận của một người con đối với cha mẹ là hiếu hạnh, chứ không phải ngồi
khóc than mẹ tôi chết hay cha tôi chết đó là cái lòng hiếu của mình đâu?Như
vậy đạo Phật muốn cho chúng ta thoát ra khỏi cái tâm dày vò đau khổ cho vui. Mà
mình phải thấy, hiểu biết cho nó rõ ràng, như vậy là Thầy đã dạy. Đã dạy gì, đã
dạy Khổ đế, phải không. Phải dạy khổ đế. Rồi cái tư tưởng cái kiến chấp của
mình bằng cái này hoặc bằng cái kia mà mình không có thoả mãn được mình mình
sanh ra buồn khổ. Thì cái này chính là cái chỗ mà chúng ta biết rằng đó là
những cái pháp ở bên trong của mình mà mình cũng sanh ra đau khổ đó. Cho nên đó
là những cái mà đức Phật đã nêu ra cái Khổ đế. Cái Khổ đế ở bên ngoài, chúng ta
thấy các pháp ở bên ngoài làm cho chúng ta khổ, rồi cái khổ đế ở bên trong ta
nó có những cái pháp làm chúng ta đau khổ. Do cái chỗ này mà Thầy đã giảng Khổ
Tập Diệt Đạo. Như vậy là bốn cái Chân lý mà Phật đã dạy chúng ta. Rồi từng
những cái mà chúng ta tu tập tám cái nẻo thì lần lượt nó đều diễn tả ở trên bốn
cái pháp này hết, không có chỗ nào sai. Như vậy quý thầy đã thấy được cái điều
mà Thầy đã dạy, như vậy thì quý thầy sẽ được từ nội tâm của chúng ta, không có
các pháp ở trong tâm chúng ta mà làm chúng ta khổ, mà không có các pháp ở bên
ngoài mà làm chúng ta khổ. Thì tức là chúng ta ly dục ly ác pháp rồi. À, quý
thầy thấy rõ, mà ly dục ly ác pháp rồi thì chúng ta sẽ sống như Phật rồi. Cho
nên Tứ bất hoại tịnh chúng ta sẽ thành tựu được rất dễ, mà nếu mà chưa ly dục
ly ác pháp mà muốn tâm mình giống như Phật thì chắc chắn là rất khó chứ không
phải dễ, nói là một lẽ mà không đơn giản được. Vì vậy mà hàng ngày chúng ta
phải dùng pháp hành như thế nào để thực hiện cho được Tứ bất hoại tịnh.
Bây
giờ chúng ta sẽ tiếp tục học Tứ bất hoại tịnh.Ở đây chúng ta học
Khổ đế rồi đó, khổ đế - các pháp bên ngoài làm chúng ta khổ. Bây giờ các pháp ở
trong làm cho chúng ta khổ, chúng ta thấy rất rõ. Do chỗ mà chúng ta thân cận
được những cái bậc Thánh hiền, những cái bậc Chân nhơn, học các pháp của Thánh
hiền, các pháp của Chân nhơn do đó các pháp bên ngoài không làm cho chúng ta
khổ, các pháp bên trong cũng không làm cho chúng ta khổ. Do đó chúng ta đã quét
sạch, chúng ta đã y như Phật. Vậy thì y như Phật thì như thế nào? Chúng ta đã
học cái tâm thứ 8 rồi, bây giờ chúng ta tiếp tục học cái tâm thứ 9.
Tâm
thứ 9,Tâm Phật không hiềm hận.
À
đây quý thầy sẽ nghe, cái tâm của ông Phật không hiềm hận, vậy
tâm ta niệm Phật thì cũng vậy, cũng giống như Phật không bao giờ hiềm hận,
nghĩa là không có bao giờ mà hận thù ai hết. Hiềm hận tức là hận thù và hiềm
nghi. Hận thù và hiềm nghi là pháp ác, pháp làm cho khổ mình, khổ người. Mà
muốn tâm niệm Phật không còn hiềm hận, hiềm hận ai ta phải trạch pháp để dùng
pháp hướng Như lý tác ý:
“Hiềm
hận và hận thù nghi kị là pháp ác, làm đau khổ mình, đau khổ người, ta phải từ
bỏ đoạn dứt không bao giờ có tâm hiềm hận ai hết’.
Nghĩa là hàng ngày
mình trạch pháp cái câu này ra mình nhắc cái tâm của mình đừng có hiềm hận. Mặc
dù bây giờ mình đâu có hiềm hận ai nhưng mình cũng thường nhắc nó, và mình nhắc
nó thì mình sẽ không hiềm hận. Đó thì Thầy nhắc để quý thầy thấy được cái chỗ
đó mà hàng ngày mình chưa có hiềm hận ai hết nhưng mình phải nhắc cái tâm của
mình. Bởi vì nhiều khi nó tới rồi mình hiềm hận chừng đó nó đã làm cho chúng ta
khổ rồi. Bây giờ nó không có, chúng ta nghĩ là mình không có đâu. Sự thật ra
mình còn tâm phàm phu mà, mỗi mỗi cái nó đều có thể xảy ra cho mình mà. Cho nên
mình muốn mình niệm Phật, tâm mình niệm Phật thì phải giống Phật. Mà muốn giống
Phật thì mình phải chuẩn bị, phải ngăn ngừa trước những cái pháp để cho tâm
chúng ta đủ một cái lực khi mà gặp cái đối tượng mà làm cho cái đối tượng hiềm
hận thì chúng ta thấy mình không có, rồi mình nói rằng tôi đâu có đâu.
Thứ
10,Tâm Phật không giả dối. Tâm ta
niệm Phật cũng vậy, cũng giống như Phật, không giả dối, không lường gạt, không
bịp bợm ai, luôn luôn thành thật, biết sao nói vậy, biết sao làm vậy.Muốn
cho tâm ta niệm Phật không giả dối, ta phải trạch pháp câu này, dùng làm pháp
hướng, như lý tác ý:
“Giả dối, lường gạt, bịp người là một pháp cực ác, làm khổ mình và
trạo hối, làm khổ người vì bị lường gạt, vì thế ta phải xa lìa, từ bỏ, luôn
luôn ngay thẳng, chân thật”.
Đó là cái câu pháp
hướng chúng ta cần phải nhắc đi nhắc lại trong tâm của mình, nhiều khi bây giờ
mình thấy mình không giả dối, nhưng mà sự thực ra nó có cái trường hợp
mình không thể nào cầm giữ được cái tâm không giả dối. Mà lúc bấy giờ
chúng ta không thường ám thị, không thường nhắc mình thì tới chừng đó mình
không thể nào mà cầm giữ nó được, kìm giữ nó được cho nên chúng ta sẽ trở thành
giả dối.
Đây
Thầy nhắc lại “giả dối, lường gạt, bịp người
là một pháp cực ác, làm khổ mình, vì trạo hối”,nghĩa là mình lường
gạt người ta rồi cái lương tâm của mình nó cắn rứt, do đó mình cứ hối hận, mà
làm khổ người vì lường gạt người. Vì thế ta phải xa lìa, từ bỏ, luôn luôn ngay thẳng chơn thật.
Cứ nhắc mình như vậy để đến khi gặp đối tượng thì chúng ta kịp thời đối phó,
kịp thời tâm chúng ta không còn giả dối nữa.
Mười
một, Tâm Phật không tật đố. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, giống như Phật,
không tật đố ai hết. Tật đố là lòng ganh tỵ nhỏ nhen, ích kỷ, thường hay làm
khổ mình. Nghĩa
là cái tâm tật đố nó đem lại cái khổ mình chứ không phải khổ ai hết. Nếu người
có tâm tật đố là người đã tự làm khổ mình, hết sức tàn nhẫn đối với mình. Nghĩa
là mình có tâm tật đố, mình ganh ghét người ta, mình không ưa người ta, mình
thế này thế khác, thì tức là mình sẽ đem lại cái sự tàn nhẫn đối với mình, mình
làm khổ mình, rất là khổ mình. Cái tật đố là cái pháp nó đem đến cho đối tượng,
cái người mà có tâm tật đố đó, thì cái người đó phải thọ lãnh cái rất là khổ.
Nó không làm khổ ai hết, mà ngầm ngầm mình ganh tỵ người khác thì tự mình mình
đã làm khổ lấy mình. Cho nên tâm Phật không bao giờ mà tật đố. Đối với Đề Bà
Đạt Đa thì ngài nói như vậy thôi chứ ngài cũng không ghét Đề Bà Đạt Đa, không
tật đố Đề Bà Đạt Đa. Nhưng đối với Đề Bà Đạt Đa luôn luôn tật đố với đức Phật
cho nên tìm mọi cách lợi dụng nhà vua tin yêu mình, bằng cách này, bằng cách
khác để hại Phật. Đó là cái tâm tật đố làm cho Đề Bà Đạt Đa rất là khổ. Còn
riêng đức Phật thì tự tại, vui vẻ để trả những cái nghiệp đó mà thôi.
Muốn cho tâm niệm
Phật giống Phật, không có tật đố, ta phải trạch pháp câu này, dùng làm pháp
hướng để nhắc nhở tâm mình và hàng ngày Như lý tác ý:
“Tật đố là lòng ganh tỵ ích kỷ nhỏ mọn xấu xa đê tiện, khiến cho
tâm ta đau khổ phiền não. Ta phải dứt trừ, từ bỏ đối với bất cứ một ai để cứu
mình ra khỏi biển khổ của tâm tật đố xấu xa đê tiện hèn hạ. Từ đây phải dứt bỏ,
dứt bỏ đi”.
Nghĩa là cuối cùng
chúng ta nhấn rất mạnh cái điều này để không... Thấy người ta hơn mình một chút
là đã tật đố với người ta rồi, đó là những cái xấu. Do đó vì vậy mà chúng ta
hãy cố gắng tu tập cái này để mà ai tu tốt hơn mình thì mình mừng, mình hoan hỷ
theo cái người tu tốt chứ mình không có thấy mình ganh ghét.
Mười
hai, Tâm Phật không gian lận. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, cũng giống như
Phật không gian lận. Gian lận là một tánh tham lam, gian xảo cực ác, đã lường,
gạt biết bao nhiêu người, đã làm khổ biết bao nhiêu người. Muốn
cho tâm ta không xan lẫn thì ta phải trạch pháp câu này, dùng pháp hướng Như lý
tác ý để đoạn dứt tâm xan lận, tệ hại, xấu xa hèn hạ đó:
“Gian lận là tâm tham lam, gian xảo đê tiện hèn hạ, làm khổ người,
tàn nhẫn, nhất là đệ tử của Phật ta phải nỗ lực dứt bỏ, từ
khướt, xa lìa, ném bỏ như chiếc dẻ rách”. Nghĩa là ném bỏ nó như một chiếc dẻ
rách. Phải thấy rằng cái tâm xan lận là cái tâm quá tệ, cho nên chúng ta cứ
nhắc nhở hàng ngày, mình ném quăng nó như là ném quăng một chiếc dẻ rách vậy.
Mười
ba, Tâm Phật không phản bội.Tâm ta niệm Phật cũng vậy,
không phản bội. Phản bội là một pháp môn rất ác, phản bội làm hại biết bao
nhiêu người đau khổ. Phản bội là tánh hèn nhác ích kỷ nhỏ mọn, chỉ nghĩ đến cá
nhân mình, phản bội để mưu cầu sự sống ca nhân, phản bội để mưu cầu lợi danh
của mình, phản bội là những kẻ bán dân bán nước, phản bội là những người bán
tôn giáo, biến tôn giáo thành nghề sống của mình, phản bội biến Phật giáo thành
Thần giáo, làm mọi người lạc hậu mê tín. Phản bội Phật giáo là những kẻ phá
Giới luật của đạo Phật, ngang nhiên giữa ban ngày ăn uống phi thời, ăn thịt
chúng sanh, sống theo dục lạc thường tình thế gian. Đó là những kẻ phản bội
Phật giáo. Phật giáo chỉ sống ‘ba y một bát’, ăn xin. Còn những kẻ phè phỡn
trong nhung lụa gấm vóc, hưởng dục lạc thế gian là những kẻ phản bội lại Phật
giáo, bán đứng Phật giáo cho Ma vương, họ lường gạt Phật tử bằng mọi hình thức
để móc tiền Phật tử, lợi dưỡng cá nhân của mình. Họ lợi dụng những danh từ “từ
thiện” bằng cách này, bằng cách khác. Họ giống như những tay địa chủ giàu có
trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác. Họ ăn trên ngồi trước trên danh và lợi của
mọi người, mà Pháp luật không bắt tội họ được. Họ là những kẻ phản bội Phật
giáo, làm ngược lại đời sống của Đức Phật, làm ngược lại Đạo giải thoát của Đức
Phật. Họ phản bội lại Giáo lý của Đạo Phật. Họ làm Giáo lý của Đạo Phật đảo lộn
khiến cho mọi người mờ mịt, mê man, không biết đâu là Chánh pháp của Phật, đâu
là tà pháp của ngoại đạo.
Phật giáo ngày nay
mà ra nông nổi này là do một số đệ tử Phật đã phản bội lại Phật giáo. Nhưng
chúng ta không thể kết án họ, vì họ là những người u mê, không biết, chỉ đi
theo gót của người xưa, liếm gót của người xưa, nhai lại đờm giãi của người
xưa. Họ chỉ nghĩ rằng người xưa “xưa bày thì nay làm” hoặc là “Tổ Tổ truyền
nhau”, chỉ lấy những cái lời như vậy để cho họ làm theo những cái gì mà nó phản
lại Phật giáo, phản bội lại Phật giáo.
Họ cho rằng xưa bày
nay làm hà, tôi chẳng biết gì hết, hồi nào các thầy các tổ làm sao bây giờ dạy
tôi tôi làm vậy, tôi không có làm khác các thầy các tổ được. Phật giáo bây giờ
nó vậy thì tôi làm vậy à, chứ tôi không có làm sai. Tổ Tổ truyền nhau như thế
nào thì bây giờ tôi cứ theo tổ tổ tôi tu tập, tôi làm như vậy. Tổ có vợ con thì
tôi cũng có vợ con, mấy người nói gì nói, tôi chẳng có nghe đâu. Những cái đó
gọi là phản bội lại Phật giáo.
Bởi vì mình phải
nhìn cái gương hạnh của Phật và chúng đệ tử của Phật ngày xưa, và nhìn lại các
Tổ của mình thì mình thấy nó có xa quá xa. Do đó chúng ta không nên trách những
người này mà chúng ta nghĩ đến những người sai lạc xưa kia rồi để bây giờ chúng
ta đang sai lạc. Rồi bây giờ chúng ta cố chấp cái kiến chấp đó mà chúng ta
không chịu buông ra mà cứ sống mãi như vậy gọi là phản bội lại Phật giáo. Không
phải họ là những người không hiểu Phật pháp vì giáo pháp của đức Phật còn để
lại rõ ràng, nhưng họ vì ngũ dục lạc thế gian mà làm mờ mắt họ.
Nghĩa là bây giờ các
thầy biết rõ họ biết Giới luật của Phật là không ăn uống phi thời, không cất
giữ tiền bạc, không xây chùa to tháp lớn nè, mà họ cứ mãi họ làm thì không phải
là họ không biết Phật pháp. Giáo lý giới luật của Phật rất rõ ràng, cụ thể như
vậy. Hàng ngày mà chúng ta có những tạng kinh như tạng kinh Việt Nam bây giờ đã
in ra như vậy thì chúng ta đã thấy rất rõ rồi, từ cái tạng kinh A Hàm, bốn bộ
kinh A Hàm và đến tạng kinh Nikaya, đều là quá rõ ràng không còn cái chỗ nào
sai nữa. Thế mà họ vẫn ngang nhiên họ sống ở trong cái dục lạc rồi họ chỉ nói
Tổ Tổ truyền nhau xưa bày nay làm thôi, chứ còn họ chẳng biết cái suy nghĩ này.
Cho nên họ phi đi những cái Giáo lý chơn thật của Phật đi, họ chẳng còn biết mà
họ ở trên cái dục lạc nó mờ mắt họ, cho nên họ chẳng còn biết cái gì nữa hết.
Đó, như vậy họ chỉ nghĩ cái đời sống họ phè phỡn là sung sướng ở dục lạc này
thôi.
Hôm nay thì chúng ta
thấy rất rõ những cái điều này, vì thế đó là những người phản bội lại Phật
giáo. Đâu phải là kinh sách của Phật không có, thì chúng ta cũng cho họ rằng
không hiểu. Đằng này kinh sách của Phật có, mà thậm chí Thầy nói mà những người
dạy kinh sách Phật đó cho những người khác, cho những người hậu sinh này nghe
những cái Giáo lý đó mà họ vẫn sống không có đúng lời Phật dạy đó. Thì như vậy
là họ như thế nào, đâu phải là không hiểu, họ hiểu mà họ cố phạm chứ không phải
là không hiểu. Họ hiểu mà họ phản bội lại Phật giáo chứ không phải là họ không
hiểu. Dục lạc thế gian làm mờ mắt họ, làm tối đen đầu óc của họ, họ mượn chiếc
áo tu và chiếc đầu của tu sĩ để sống trong lợi dưỡng danh lợi của thế gian và
còn được mọi người kính phục lạy lễ nữa. Chẳng khác nào như vua chúa, họ làm
những Đại vương, tiểu vương. Đâu đâu chúng ta cũng gặp, ông nào cũng ở trong
cung hoàng, điện ngọc, tức là chùa to tháp lớn đó. Họ tu hành chẳng ra gì, giới
luật chẳng nghiêm túc gì mà chùa cất lên thì hằng hằng tỷ bạc. Họ tu hành chẳng
ra gì, giới luật không có gì, không có giới nào mà họ không phạm. Thế mà khi họ
chết nằm xuống xây tháp vĩ đại, đồ sộ như lăng nhà vua, tiền của ở đâu mà họ
xây dựng đồ sộ như vậy? Cả mồ hôi nước mắt của bao nhiêu tín đồ Phật giáo. Một
ngôi chùa vĩ đại người ta ca ngợi là Kim cổ kỳ quan thế giới, là một thời đại
đau khổ nhất của dân tộc đó. Nhà vua Phật giáo độc tài này bắt dân chúng sưu
cao thuế nặng, để làm công trình vĩ đại này. Biết bao nhiêu xương máu của người
dân nước này đã tô đắp lên những kỳ quan, những bức tường vĩ đại. Đi ngược lại
thời gian ta sẽ nghe tiếng ca thán tận trời xanh lúc bấy giờ. Là người dân hiền
lành, làm sao kêu gọi thấu trời.
Nghĩa là bây giờ
chúng ta, ai mà có đến thăm ở cái Chùa vàng, chùa bạc, cái đền Ancót mà ở
trên đất nước Campuchia chưa? Chúng ta thấy cái công trình vĩ đại mà người ta
gọi là Kỳ quan thế giới đó. Cái gì mà vĩ đại, mà gọi là kỳ quan thế giới thì
chúng ta biết rằng cái khổ đau của bao nhiêu người ở trong cái đất nước đó. Họ
đâu có bắt người dân Việt Nam
qua đắp cái chùa đó được, họ phải bắt dân họ chứ. Bắt họ phải nộp vàng, nộp
bạc, rồi tiền rồi thuế này kia, rồi phải đi dân công, phải đập đá, phải đào đá
mới xây lên được chứ, bao nhiêu người mới bật lên cục đá vĩ đại như vậy mới xây
được cái đền đấy chứ? Nếu ai có đến thăm mới thấy được cái công trình của những
người dân ở lúc đó bấy giờ. Nhà vua độc tài họ ra lệnh, nếu mà người nào mà
không làm thì họ giết, bắt bỏ tù. Ai cũng sợ chết hết thành ra phải đem xương
đem máu mà xây dựng lên một ngôi chùa vĩ đại.
Đạo Phật như vậy,
giáo lý của đức Phật như vậy làm sao mà nhìn được những cái điều kiện đó được.
Còn bây giờ chúng ta nhìn cái chùa mà có hàng tỷ bạc cất lên, đẹp đẽ vô cùng
thì chúng ta nhìn biết bao nhiêu là cái mồ hôi nước mắt của người ta mà góp lại
để mà xây dựng nó không, biết bao nhiêu sự đau khổ ở trong đó. Một người mà tu
chân chánh người ta không thể nào mà người ta ngồi đó ngó được. Vậy mà có người
nói: Ông thầy này ngon thiệt chớ, ổng có uy tín ổng mới cất nổi chứ. Còn nếu mà
cái hạn thường thường thì làm sao cất cho nổi, chỉ cất tầm vông cốt tre thôi
chứ làm gì mà cất được. Đó là họ sẽ nghĩ, so sánh được mà. Cái người giàu có
mới cất được cái nhà tường chứ, còn người nghèo thì cất nhà tranh thôi chứ làm
sao cất được nhà tường. Họ so sánh cái kiểu đó. Nhưng một người tu sĩ Phật giáo
của chúng ta thì không thể nào mà so sánh điều đó được. Thì chúng ta nhìn thấy
cái đồ sộ vĩ đại đó là cái đau khổ. Mà lúc bấy giờ ở thời điểm đó, chúng ta đi
ngược lại cái thời gian thì cái lời của những người dân hiền lành đó họ kêu
Trời. Họ làm sao họ sống được ở trong cái lúc thời bấy giờ, cho nên tiếng kêu
gọi họ làm sao cho thấu trời. Vậy mà cái ngôi chùa đó gọi là thờ Phật. Nhưng
chẳng biết làm sao.
Cho nên nói Phật
pháp nó suy đồi, nó suy đồi khi mà thấy những ngôi chùa vĩ đại mọc lên càng
nhiều thì nó suy đồi. Nó suy đồi là như thế nào? Là không có những bậc chơn tu,
là không có những người giới hạnh nghiêm túc. Nó phản ảnh được cái sự tu hành
và cái sự không tu hành rất rõ ràng qua cái hình ảnh. Các ông đem những giáo lý
vụn vặt gạt người cúng dường xây chùa tháp, tô đắp tượng vàng là được phước báu
vô lượng. Lời nói này đã lường gạt biết bao nhiêu người. Vì tâm tham lam ham
muốn được nhiều phước báo của mọi người, nên họ đâu tiếc rẽ tiền bạc cúng dường.
Vì vậy quý thầy thấy nè, người ta lường gạt họ bằng những cái danh từ rất là
bịp bợm.
À, bây giờ các cư sĩ
mọi người đều đóng góp để xây chùa tháp, họ đúc tượng vàng hay chuông đồng này
kia thì được phước báo vô lượng. Đời nay thì nó không được chứ đời sau sanh lên
thì làm vua chúa hoặc là giàu sang đầy đủ đó, cố gắng đi, bỏ hết đi. Bây
giờ mình bỏ cúng dường đi, xây được cái chùa thì sau này thì coi như cái phước
báo của quý vị hưởng hết, quý vị hãy ráng cố gắng đi. Cái lời nói đó làm cho
người ta- cái tâm tham của người ta mà, người ta muốn được phước báo mà. Bây
giờ mình bỏ một đồng hà, ngày mai mình làm vua mình có trăm triệu đồng, không
phải sướng sao? Không phải là nghe cái phước báo này ai hổng tham. Mà bây giờ
nói chung mọi người, người nào cũng có tâm tham hết hà, mà nghe cái chuyện đó
là ai hổng ham. Cho nên đó là lường bịp, cái lời lừa bịp người ta, để rồi người
ta bỏ công bỏ sức ra.
Cũng như bây giờ mấy
người hổng có tiền mấy người vô đẩy đất đi, đắp nền đi, hoặc là lăn đá đi, phụ
đi, cái công đức này bữa sau thì mình sẽ sanh lên những cái nhà giàu sang,
phước báo này kia nọ đầy đủ, không có thiếu. Trời ơi, cái ông ổng nai lưng ổng
làm công quả thiếu điều tới chừng đó ổng bệnh đau hổng ăn hổng ai cho thang
thuốc hết, bởi vì ổng đẩy đá quá nặng. Một hôm ổng ráng ổng đẩy đá làm công quả
cho được trời Phật, cho được chùa phù hộ ổng. Cho nên cuối cùng ông đẩy cục đá
nặng quá trẹo xương sống ổng về ổng nằm cả tháng ở bệnh viện. Trời đất ơi, đau
đó ai chịu. Có phải là ổng vì tham. Tham để mình bỏ cái công ra mình làm để cho
được cái phước báo lớn. Vì mình cất chùa mà, mình đem cái công lao của mình ra
mình làm công quả mà, cho nên nó được cái phước báo. Vì vậy ông ta cứ nghĩ
phước báo, không ngờ cụp xương sống ông ta, ông ta nằm liệt giường mấy tháng trời,
mà rồi về đó thì nhà cửa không có tiền bạc khan hiếm, vợ con nghèo nheo nhóc
gần chết. Không thấy ơn ông thầy chùa mà ổng cho mình băng nữa, thấy không. Coi
mấy ông chùa, ổng cất cái chùa giàu chứ chưa chắc đẩy đá mà được hưởng cái gì.
Cho nên Thầy nhớ hồi
ở trên Chơn Không, trong khi ở trên đó đâu có phải ngồi tu không đâu, cũng phải
có lao động chứ. Lao động như thế nào, đâu có phải lao động mà làm ra gạo cơm
ăn. Thì bây giờ phải lao động cất những cái thất. Mà đất mà ở trên núi, các
thầy cứ nghĩ xuôi xuôi gì, làm sao mà làm cái nền được. Ôi thôi quý thầy phải
xeo đá, mà đất đá thì nó có cục đá lớn cục đá nhỏ như thế này. Lớn quá thì phải
kêu mấy ông thợ đá chẻ ra nhỏ rồi mấy ông mới xúm nhau một cây mà nạy cho nó
lăn xuống dưới cái bìa thấp đó. Rồi ở trên này đất cứ đùa xuống, đùa xuống cho
làm được cái nền, rồi cái nền mới xây được cái thất hoặc là xây thêm được cái
chùa hay cái gì đó. Cứ làm ra làm ra, mà đất ở trên núi thì các thầy nghĩ cứ
làm cho được bằng diện tích như cái Trai đường của mình là công lao không phải
chuyện dễ đâu. Cho nên có ông đẩy ráng đẩy, làm công quả cho dữ tợn để đẩy cho
dữ cho nên có ông cụp xương sống. Hết làm, nằm đó thôi, vì rung rinh là cái
xương sống đau quá chịu không nổi rồi. Bởi vì ráng đẩy quá nặng, bởi vì đá mà.
Các thầy cứ nghĩ đá là không có bao giờ nó nhẹ đâu. Mà ráng đẩy làm cho được
thì cuối cùng được cái này thì mình thọ lấy cái bệnh. Cho nên ông thầy này
chẳng còn ngồi thiền ngồi gì hết. Cuối cùng thì hễ sau này mà khi làm gì nặng,
nó bớt vậy chứ khi làm nặng thì nó ẹo trở lại. Cho nên cuối cùng thì ông mang
cái tật luôn. Mà sao Thầy không thấy ông Phật hay là chùa phù hộ ổng chút nào
hết không biết. Để ổng khổ cái đời ổng quá trời. Có phải là vì công quả để được
phước báu hay là vì công quả đó để thọ lấy cái quả khổ. Nhưng trước mặt Thầy đã
thấy cái quả khổ cho ông ta, còn sau này không biết cái quả đó nó có được hay
không? Hay là như hạt giống mà bỏ trên đường đất mà không đúng cách cho nên hạt
giống đó nó sẽ không còn nảy hoa quả để đem lại cái lợi ích cho cái người
hưởng.
Cho nên chúng ta
phải sáng suốt, phải trí tuệ, làm một cái việc gì nó phải đúng giáo lý của đức
Phật, cái lời dạy của đức Phật phải ở trong thiện pháp chứ không được để cho
người ta lường gạt mình. Những lời này thì quý Phật tử phải suy nghĩ, quý thầy
phải suy ngẫm. Chúng ta là những con người không nên lường gạt người khác mà
phải làm đúng, nếu chúng ta không tu thì thôi mà đã tu thì quyết tu cho đúng để
mà chúng ta xin một hạt cơm của người khác, xứng đáng để mà thọ dụng hạt cơm
người khác. Còn tu không đúng thì cái hạt cơm người khác nó là cái nợ cho chúng
ta nhiều đời nhiều kiếp mà phải trả chứ không phải nói rằng chúng ta ngồi không
đây mà chúng ta làm chùa, cất chùa hoặc là ngồi thiền sơ sơ đây là nó hết nợ
đâu? Quý vị chưa chấm dứt được sinh tử luân hồi thì cái nợ này nó còn mãi mãi
trong đời của quý vị, chứ quý vị đừng nghĩ rằng ăn rồi nuốt rồi qua khỏi cổ là
tiêu rồi đâu, nó không có đâu. Cái mồ hôi nước mắt, cái nhân quả của người ta
thì nó không bao giờ tiêu tan được đâu, dù là một hạt cơm. Quý vị mà đem cái
sức mồ hôi của mình mà nuôi mình thì nó không nợ ai, còn nếu quý vị mà không
đem mồ hôi nước mắt của mình nuôi mình mà nhờ hạt cơm của kẻ khác thì coi chừng
mà giải thoát không được đó thì đời đời kiếp kiếp của quý vị không thể thoát
được đâu. Bây giờ chúng ta ngồi không ăn đó, nhưng mà chúng ta không khéo đi
đến nơi cuối cùng giải thoát, chấm dứt được luân hồi thì chắc chắn quý thầy sẽ
tiêu à.
Phải nhớ kỹ như vậy
mà đừng có tưởng rằng sung sướng đâu. Giới luật của Phật, nhân quả của Phật nó
còn ràng ràng để chỉ cho chúng ta biết cái đường nhân quả, biết cái nợ vay của
chúng ta nó dứt hay là không dứt.
À, đó là Thầy muốn
nói vì cái tâm tham lam của Phật tử, của những người khác mà mê muội mới nghe
cái lời lường gạt này, lại còn kêu gọi những người khác nữa. Nghĩa là cái người
Phật tử đó họ đã nghe cái lời lường gạt đó họ tưởng đó là cái phước của họ rồi.
Họ cũng bỏ tiền ra rồi họ cũng nghe ông thầy bảo bây giờ Phật tử có quen với
ai, cứ kêu gọi họ đi, mọi người đóng góp nữa, mọi người đóng góp càng nhiều
càng tốt để cho chùa cất được tốt thì công lao của quý vị, nhất là cái công của
cô hay của thầy, của cư sĩ lớn lắm đó, bữa sau nữa phước dữ lắm, chư Phật gia
hộ cho quý vị lớn lắm. Cho nên hầu hết là quý thầy thấy có một người cư sĩ khéo
miệng lường gạt người ta thôi mà bao nhiêu người khác đóng góp vô, có không?
Thầy nói thật sự một cái người mà khéo miệng khéo mồm họ đi rỉ tai người này
người kia một hơi thì năm bảy chục người, năm bảy chục gia đình họ đóng góp lại
một người một cắt cắt thấy cũng nhiều rồi. Có cái người khéo léo thôi, mà cái
người đó là con chim mồi của quý thầy đó, chứ đâu phải là người nào họ cũng đem
đến họ cúng mình đâu? Có người đi quyến rũ họ chứ không phải không đâu, họ khéo
lắm chứ không phải là không có đâu, mà ông thầy ổng chỉ nuôi dưỡng chừng năm
bảy người mà có cái tài mà móc nối mà khéo léo như vậy đó thì cái chùa ổng cất
rất dễ. Thậm chí ở Việt Nam
đây nè mà có người Phật tử của họ ở đây mà móc được cái người Phật tử ở ngoại
quốc. Nói với bà ta bên đó, bà có uy tín bà nói với Phật tử bên đó đóng góp cất
cái chùa cho tốt thì bà được phước báo lớn nhất, còn mấy người kia thì nhỏ hơn.
Do đó cái ông này, cái bà này nghe như vậy là mình la không chứ có gì đâu. Mình
chỉ la không mà cái phước của mình ngon thôi. Mai mốt đây rồi con của mình làm
chủ tịch, vì mình làm cái này thì con mình lên làm chủ tịch được rồi. Cho nên
bà nỗ lực bà đi làm những cái công chuyện này. Nhưng cuối cùng thì đó là cái
mánh khoé để lường gạt mà thôi.
Ông Phật ổng đâu có
cho cất chùa. Như các thầy thấy khi mà một vị tỳ kheo mà bị- cái thất bằng cây
lá mà bị người ta rút đi rồi, cái vị này mới nói: à cây lá thì bị họ rút
chứ nếu đắp gạch lên, làm cái thất của mình ở chắc chắn là không ai rút nữa.
Nhưng mà đắp lên, xây được cái thất của mình bằng gạch bằng đất rồi thì đức
Phật sai các vị tỳ kheo đập bỏ hết. Ngay cả những câu chuyện ở trong thời đức
Phật như vậy rồi, chứng minh rõ ràng đức Phật đâu có cho chúng ta sống ở trong
cái nhà bằng gạch chắc chắn đâu. Chúng ta chỉ sống tạm bợ bữa nay ở đây, mai đi
ở chỗ khác, có gì đâu mà phải xây cất kiên cố như vậy?
Đó là những cái, vì
vậy mà Thầy nghĩ rằng ngày nay mà chúng ta trở lại đất Phật, chúng ta thấy còn
những khu rừng hoang vu mà không có gì hết, mà vì vua chúa muốn giữ lại cái di
tích lịch sử đó mới xây cất cái chỗ này chỗ kia để làm lại cái di tích của
Phật. Mà ngày đức Phật còn ở tại đó thì chắc chắn toàn là cái chòi tre với vông
chứ không bao giờ có một cái nhà bằng gạch bằng ngói gì hết. Thậm chí mà khi
nhà vua đi cất cho những vị tỳ kheo toàn là chòi lá không, không phải là
ý kiến của ông Phật sao? Chẳng lẽ vua chúa mà ổng cất cho quý vị như vậy sao?
Các con hiểu điều đó, cho nên hầu hết trong cái thời đức Phật sống đều là ở
chòi tranh vách lá, do đó nó không dính mắc các đệ tử của Phật.
Ở đây chúng ta muốn
nói vấn đề là cái chỗ phản bội, mà cái tâm phản bội là cái tâm rất xấu, một
người mà phản dân phản nước, tức là phản bội lại dân nước. Trong cái thời mà
chiến tranh chúng ta thấy có người bán dân bán nước chứ đâu phải. Vì cái cá nhân,
vì cái lợi dưỡng của họ. Còn những người bắt buộc thì chúng ta không nói, vì
cái hoàn cảnh của họ bị bắt buộc.
Đó là một điều kiện
mà chúng ta thấy rằng cái người tu chúng ta, nhiều khi chúng ta phản bội lại
Phật giáo.
Những người Phật tử
làm mối lái kêu gọi các người Phật tử khác cúng dường bằng cách này bằng cách
khác. Riêng đời sống của họ càng ngày càng không thấy phước ở đâu, mà thấy
những cái tai hoạ xảy đến cho những người này, mà không thể lường được những
cái tai họa đó. Thầy có biết được một cái người Phật tử đó, Thầy không nêu cái
tên họ ra đây, nhưng mà Thầy biết được cái người Phật tử đó họ thường hay kêu
gọi Phật tử chỗ này chỗ kia để đóng góp, để mà xây chùa, hoặc làm này cái kia
gọi là Phật sự đó. Cái người Phật tử này cũng lanh lợi lắm, họ cũng mồm mép
lắm, kêu gọi người này người kia, làm cho người nào mà nghe bà ta nói thì cũng
rất là thích thú để mà cúng dường hết chứ không có người nào mà từ chối cúng
dường. Do đó thì cuối cùng thì Thầy đã quan sát được cái gia đình của cái người
mà làm công việc này. Bà ta chẳng có ăn có uống gì trong cái đồng điếu nào ở
trong cái sự kêu gọi cúng dường hết, chỉ làm xong rồi kêu gọi được bao nhiêu
tiền thì giao cho ông thầy hết, chứ không bao giờ bà có cất một đồng riêng gì
hết. Nhưng cuối cùng thì Thầy thấy con bà hết đứa này đau đến đứa kia đau, hết
đứa nọ rồi gia đình xảy ra hết chuyện này rồi gia đình xảy ra chuyện đến chuyện
khác, cuối cùng tới bà rồi bà cũng đau muốn chết bà luôn. Mà bà làm phước mà
sao mà, làm phước cho chùa cất chùa tốt tháp này kia đẹp mà sao bà lại thọ lấy
cái khổ quá như vậy? Rồi cuối cùng còn lại những đứa con khác thì đứa như thế
này, đứa như thế khác nó không đúng là những cái con người tốt trong xã hội này
hết.
Đó là những cái mà
Thầy thấy trước mặt của Thầy, thậm chí Thầy thấy thiệt là ngao ngán. Tại sao
người ta làm những cái chuyện phước mà quý thầy nói là phước báo lớn, thế mà
người ta cố gắng người ta làm giúp cho quý thầy mà tại sao cái phước đó không
đến cho người ta mà đến cái tai hoạ cho người ta, hay là những cái tai hoạ ở
đời nào mà bây giờ họ lại chịu? Điều này là một cái điều suy luận để mà biện
hộ, họ làm được những cái điều mà lợi ích cho Phật pháp như vậy gọi là phước
lợi ích rất lớn như vậy, họ chuyển tất cả những nhân quả của họ được, tại sao
họ chuyển không nổi. Tức là những cái việc làm của họ chưa phải là lợi ích lớn,
chưa phải là đúng cái lợi ích. Cho nên do đó họ phải chịu lấy những cái hậu quả
của họ đã làm vì đó là cái hậu quả của sự lừa bịp người khác mà họ lại là những
người bị sự lừa bịp của người khác nữa. Chính do đó họ kêu gọi những người khác
lừa bịp những người khác bằng những cái lời nói mà của các ông thầy đó đã nói
cho họ như vậy. Nên cuối cùng thì họ phải chịu lấy những cái hậu quả cho cá
nhân họ rất là nhiều. Còn những cái người khác thì ta không kêu gọi ai hết, chỉ
đến kêu gọi người ta đóng 5 ngàn, 10 ngàn, 100 hay 200 trăm ngàn rồi thôi,
người ta không cần kêu ai thì người ta ít có tội hơn. Còn bà này bả đóng 100
hay 200 trăm ngàn rồi để lo mà cất chùa rồi mà bả còn kêu thêm những người khác
phụ vô cất chùa nữa, kêu mười người, hai chục người, trăm người, ngàn người,
kêu đóng góp vô.
Cũng như ví dụ như
bây giờ ở trên một chuyến xe mà đi quảy hội ở Chùa Bà, khi về đây, thì mọi
người ta đâu có chuẩn bị là người ta cúng dường cho chùa mình đâu. Nhưng có cái
bà hoặc ông cư sĩ nào đó bắt đầu đến đây, thì cái thoả mãn ông ta là muốn đến
đây được nghe thầy thuyết pháp, ông ta xin. Còn mấy người kia họ đi chơi thôi
chứ họ đâu mà nghĩ điều đó đâu, do đó ông xin thầy thuyết pháp. Ở đây Thầy nói
đây là cái sự thật mà, sau đó thì được Thầy chấp nhận thầy thuyết pháp qua cái
điều kiện ông ta hỏi. Hỏi như thế nào đó thầy thuyết pháp ông ta nghe thấy hứng
chí quá, hay quá, cho nên bây giờ một mình ông thì có 5 ngàn bạc làm sao cúng
coi được. Cho nên mới bắt đầu ông ra ngoài ông rỉ bà con mình đến đây, cái chùa
người ta vậy vậy, bây giờ nhìn chùa người ta bằng tầm vông cốt tre không, mấy
chùa kia giàu, thôi mấy bà bỏ khá khá đi cúng dường cho ta đi. Lợi dụng cái chỗ
tầm vông cốt tre thì chỉ để người ta bỏ tiền nhiều hơn. Do đó người bỏ ra 5
ngàn, mười ngàn, 20 ngàn, mà trên cái xe đò đó khoản độ chừng 60 người hay 100
người đi thì bắt đầu bây giờ nó thành một số tiền quá nhiều. Cho nên do đó có
nhiều người họ động lòng họ thấy cái chùa bằng tầm vông trúc tre này nhìn nghèo
quá, nhìn cái thất ông thầy ổng nghèo quá. Thôi bà ta còn bao nhiêu tiền, thôi
bây giờ mình đi về rồi, chớ mình đâu còn đi chơi nữa, bao nhiêu tôi dốc hết tôi
cúng dường cho ông thầy. Bởi vì cúng dường được như vậy là được phước, cho nên họ
cứ nghĩ như vậy là được phước, cho nên họ dốc hết họ đi về. Trời ơi về
chồng hỏi, bà đi bà mang tiền hết đi giờ còn đồng nào không? Nói tôi cúng
dường hết rồi, trời ơi ngày mai không có cơm ăn bà mang bà đi cúng hết chắc
chết tui rồi.
Đó là những cái khổ
mà mình không thấy, mà hồi đó cái ông kia tha thiết nói nghe cũng có lý, thôi
mình bỏ hết. Nhưng mà sự thật ra mình phải thấy được cái khổ của gia đình của
mình.
Thầy nói những cái
ví dụ đó, vì cái làm đó nhưng nếu mà nơi đó mà chuyên tu đúng cách thì nó cũng
được phước báo, mà nơi đó giới hạnh không nghiêm túc mà mình cũng bị người ta
gọi cúng dường như vậy thì nó chẳng phước báo gì cho mình mà đem đến sự
đau khổ cho mình.
Phản
bội là một pháp rất ác, nhất là những người tu theo đạo Phật mà phản bội lại Phật
giáo, phá kinh sách Phật, thêm thắt đủ điều, viết bậy bạ, không đúng giáo pháp
của Phật, như các thầy thấy họ viết Giới bổn không?Họ thêm cái này thêm
cái kia, như vậy làm sao mà đúng được cái giới bổn. Sống phá giới luật, viết
dịch sai lệch, hoặc thêm, hoặc bớt không đúng giới luật của Phật để lại cho đời
sau, không biết đâu là Chánh pháp của Phật, đâu là tà pháp của ngoại đạo. Quý
thầy thấy bây giờ kinh sách mình đọc, chẳng biết cái đâu hết, nhiều khi lại cấm
không cho chúng ta chỉ, phê bình người tu sĩ sai đúng về phạm giới nữa, cấm
người nào nói đọa địa ngục làm cho chúng ta thấy biết mà ngao ngán quá không
dám nói. Nói ra là đọa địa ngục đó cho nên cũng không ai dám nói hết. Vì vậy mà
các ông thầy mừng, mừng cho đến khi mấy ổng lái xe chạy mà cảnh sát thổi rét
rét còn không muốn dừng nữa.
Đó là quý thầy thấy
không, đến mức độ như vậy đó cảnh sát cũng lắc đầu, nó cũng sợ luôn mấy ông
nầy. Và làm cho đời sau bỏ đời tu hành mà không đi tới đâu được. Nghĩa là người
ta vào tu, ai mới bước chân vào tu người ta cũng quyết đi tìm con đường giải
thoát hết, nhưng mà lần lượt lần lượt cái đời của người ta nó biến thành cái
đời sống mang hình thức của đạo, mà lại đời sống lại là đời sống của thế gian.
Người mà biết suy ngẫm một chút người ta biết đau khổ lắm. Nghĩa là quý thầy
hôm nay mặc chiếc áo đạo như Thầy, đầu tròn như thế này, quý thầy xấu hổ lắm,
chúng ta nếu mà biết được chúng ta thấy đau lòng lắm, xấu hổ lắm. Làm sao cho
mình được giải thoát, làm sao cho mình đã đi tu rồi không thể đi tìm cuộc sống
một cách hèn hạ ở trong chiếc áo tôn giáo đâu, không thể nào ăn bòn ăn rút của
người Phật tử đâu. Chúng ta có sức khỏe, có nghề nghiệp, có những cái việc làm,
chúng ta có tiền chứ đâu phải chúng ta là những người không làm ra tiền sao.
Thế mà chúng ta ngồi đó mà bòn rút từng đồng từng cắt của Phật tử, nhất là bòn
rút của phái nữ. Mấy ông cư sĩ chứ khó ăn của mấy ông lắm đó. Chứ mấy bà nói
ngọt ngọt, nói cái gì mà mê tín là mấy bà mê lắm, bỏ tiền ra hết của. Cho nên
hầu hết là đi chùa, hầu hết là Thầy nói thực sự nhìn chung đi cư sĩ nam ít lắm
mà cư sĩ nữ đầy hết à. Mấy bà nói mấy ông không đi thôi để tôi đi cho, mấy bà
giành mấy ông đi hết. Cho nên mấy ông mà đi thì ít có khi cúng dường mấy ông
thầy lắm mà mấy bà đi thì bao nhiêu cũng tuôn ra hết. Cho nên vì vậy mà
chùa phần nhiều chúng ta thấy là Phật tử nữ, Phật tử nam ít lắm, một vài người,
không có nhiều.
À, đời chẳng ra đời,
mà đạo chẳng ra đạo, rất uổng phí cho tất cả những tu sĩ của Phật giáo hiện tại
trên cái thế gian này. Nghĩa là chúng ta nói tất cả tu sĩ trên thế gian này
không chỉ riêng đất nước Việt Nam ,
tất cả mọi đất nước trên thế gian này, trên hành tinh này. Người mà theo đạo
Phật bây giờ chẳng biết đường nào mà đi hết, chẳng biết cái lối nào mà giải
thoát cho họ, họ sống theo cái kiểu mà nửa đời nửa đạo, nó hổng ra gì hết. Dục
lạc thì cũng tham mà tham không trọn, mà đạo thì muốn tu giải thoát mà giải
thoát cũng không đầy. Cho nên từ Đông sang Tây, từ Nam sang Bắc đều là phải thấy hình
thức của tu sĩ là phản bội lại Phật giáo. Cái lối sống của họ là họ phản bội
lại cái giáo lý của đức Phật, cái giới luật của đức Phật. Cho nên chúng ta thấy
chúng ta biết là họ phản bội lại Phật pháp.
Họ sống trái ngược
với những người tu sĩ Phật giáo ngày xưa. Nghĩa là những Thánh tăng ngày xưa,
chúng ta thấy gương hạnh của các ngài, bây giờ tu sĩ của chúng ta trái ngược
trở lại chứ không giống chút nào hết. Bây giờ chúng ta tìm lại những cái điều
mà chúng ta cần phải tìm hiểu đó thì chúng ta mới thấy rõ ràng, nếu không phản
bội lại Phật giáo ta phải mạnh dạn thẳng tay. Nếu bây giờ chúng ta tìm lại
những cái đúng cái sai của Phật giáo thì chúng ta phải mạnh dạn, thẳng tay, chỉ
thẳng mặt, không có nể nang không có vị tình một người nào. Bởi vì đạo Phật là
đạo Phật còn không phải đạo Phật thì đừng có mạo danh là Đạo Phật được. Cho nên
chúng ta phải mạnh dạn, chẳng sợ một ai hết, cứ nói thẳng, người nào mà phá
giới, phạm giới, sống không đúng đời sống phạm hạnh của tu sĩ của Đạo Phật thì
chúng ta chỉ thẳng để cho họ sửa sai, để cho họ tránh không có làm cái điều tội
ác nữa. Phải giúp cho họ thoát ra khỏi những cái điều mà họ đã mê mờ, đã lầm
lạc. Mặc dù họ có tìm mọi cách giết chúng ta chúng ta cũng thẳng thắng nói.
Cũng như ngày xưa,
ông Galile, người ta bảo ông, chỉ cần ông nói là trái đất vuông là người ta sẽ
không giết ông. Thì một nhà khoa học như vậy, người ta vẫn gang dạ trước một
cái đám đông như vậy, người ta sắp hành hình ông ta, mà ông nói quả quả đất
tròn thì ông nói tròn chứ sao lại bắt ông nói vuông. Cũng như bây giờ Giới luật
của Phật, phạm hạnh của người tu sĩ như vậy, bảo chúng ta phải nói sai làm sao
chúng ta nói được, chúng ta phải thẳng thắn. Thà là chúng ta chết, chứ chúng ta
không bao giờ phản bội lại Phật Giáo. Còn chúng ta sợ chết chúng ta nói thế này
thế khác, để mà phạm giới, phá phạm hạnh của Phật thì tức là chúng ta là những
người phản bội lại Phật giáo. Cho nên chúng ta không phản lại cái sự thật mà
chúng ta lại phải nói đúng sự thật. Dù có chết, sự thật vẫn là sự thật. Một nhà
khoa học kia người ta còn không sợ chết người ta còn dám nói cái lời nói đó.
Trước một cái Giáo hội đông đảo như vậy người ta đem ra xử cái ông này. Người
ta bảo ông chỉ cần nói một lời nói giữa quần chúng đông đảo như thế này là cái
trái đất này vuông thì chúng tôi sẽ không bao giờ mà làm hại ông, mà còn ca
ngợi ông nữa, mà ông nói tròn là không được. Thì trái đất tròn thì phải nói
tròn chứ sao lại nói vuông. Thì tức là thà chết chứ không bao giờ nói sai cái
sự thật. Chúng ta là những người tu sĩ Phật giáo cũng vậy, thà chết chứ không
bao giờ nói sai, nói phản bội lại Phật giáo được.
Vậy thì hôm nay Thầy
muốn nhắc nhở quý thầy qua cái chỗ mà chúng ta phải sống với cái tâm Phật không
phản bội và chúng ta cũng phải là người tu sĩ của đạo Phật phải thực hiện cái
tâm không phản bội. Mà phản bội đây với ai, phản bội Phật giáo, phản bội Giáo
lý của nhà Phật. Phản bội với người khác mà chúng ta không phản bội với Phật
giáo, phản bội với Phật giáo tức là chúng ta không phản bội với người nào.
Đó thì những cái
điều mà chúng ta cần phải tu học, chúng ta cần phải hiểu.
Để họ tránh làm điều
tội ác gạt người bán Phật bán pháp, chạy theo lối sống phong kiến Vua chúa,
chùa tháp to lớn. Đó là chúng ta dựng lại Phật giáo, làm tốt lại Phật giáo, thì
mới mong có những bậc chơn tu của Phật giáo xuất hiện, còn hiện giờ Phật giáo
mất phạm hạnh như thế này thì các bậc chơn tu thiện đức của Phật giáo làm sao
họ còn được, họ phải ẩn bóng mãi mãi. Cũng như bây giờ Thầy là một cái người mà
tu hành có những kinh nghiệm có thể hướng dẫn người khác mà bây giờ mà Phật
giáo như thế này thì làm sao không ẩn bóng được, còn độ ai được nữa, nói ra có
ai nghe được nữa. Bây giờ một số quý thầy đang nghe Thầy, chắc gì quý thầy đã
nghe lời Thầy nói, chưa chắc đã là tin cái lời Thầy. Cho nên tuy là nói là nói
một lẽ, chưa chắc dục lạc cám dỗ ghê gớm, làm gì mà quý thầy sống được những
cái lời nói của Thầy đâu, cho nên quý thầy cũng có những cái kiến chấp và lý
luận. Thầy nói là một lẽ, ai mà sống được. Mà sống không được như vậy thì Phật
giáo làm gì mà có người tu hành giải thoát được đâu? Đó là những cái lý luận
của quý thầy để bào chữa những cái sai lệch, cái lợi dưỡng của chính tâm mình
mà không thể nào mà mình thoát ra được.
Câu 1, trạch pháp
câu này dùng làm pháp hướng Như lý tác ý:
“Phản
bội là một pháp cực ác, nhất là người đệ tử của Phật, phản bội lại giáo lý của Phật
thì còn tệ hại hơn là súc sanh. Tội phản bội ấy phải đọa địa ngục vô lượng
kiếp. Ta phải dứt trừ, xa lìa tâm phản bội ấy, hành động phản bội ấy, cuộc sống
phản bội ấy”.
Nghĩa
là mình nhìn thấy được cái sự phản bội của Phật giáo của các tu sĩ hiện giờ thì
bắt đầu mình dùng cái câu pháp hướng này, mình không thể nào, mình phải lìa cái
tâm phản bội ấy, cái hành động phản bội ấy, cái cuộc sống phản bội ấy. Hằng
ngày mình sống mà ăn uống phi thời đó là mình sống phản bội lại Phật giáo. Hằng
ngày các hành động mình thô tháo bằng cách kêu gọi Phật tử này nọ kia góp đóng
tiền bạc hoặc là sống trong nhung lụa, trong đầy đủ thì đó là hành động phản
bội lại Phật giáo. Cái tâm ham muốn của mình, cái tâm không ly các ác pháp thì
cái đó là phản lại Phật giáo. Đó là, cái câu này để chúng ta trạch ra để mà
diệt trừ cái tâm ham muốn của mình, cái tâm phản bội. Thầy xin nhắc lại: phản
bội là pháp cực ác nhất, là người đệ tử của Phật, phản bội lại giáo lý của
Phật, thì còn tệ hơn là loài súc sanh. Tội phản bội ấy phải đọa địa ngục vô
lượng kiếp, ta phải dứt trừ, phải xa lìa tâm phản bội ấy, hành động phản bội
ấy, cuộc sống phản bội ấy.Đó là câu thứ nhất.
Câu thứ hai:
Một
tu sĩ Phật giáo mà sống phá giới luật, sống không đúng phạm hạnh của người tu
sĩ Phật giáo là phản bội lại Phật giáo, mọi người biết được, hiểu được sẽ khinh
chê, không còn cung kính và cúng dường nữa. Vậy chúng ta là tu sĩ Phật giáo là
phải sống đúng giới hạnh, không phản bội lại Phật giáo, luôn luôn phải xa lìa
tâm phản bội ấy. Đó là câu thứ hai.
Mười
bốn: Tâm Phật không ngoan cố. À, bây giờ tâm Phật thì
không ngoan cố, có cái gì thì ông không có cố chấp, ông xả ra. Còn nếu mà không
thì cứ cố chấp hoài trong tâm của ta, đó là đem lại cái sự đau khổ.
Ở
đây chúng ta lấy cái tâm niệm Phật thì cái tâm của chúng ta cũng không được
ngoan cố. Tâm ta niệm Phật cũng vậy không ngoan cố, ngoan cố là một tánh cố
chấp biết sai mà không chịu sửa, biết tội mà không chịu chừa, khăng khăng giữ
đến cùng, không chịu từ bỏ kiến chấp sai lệch. Giới hạnh - sống phi phạm hạnh của
mình, khi người khác nhắc nhở đến mình còn đặt câu hỏi này câu hỏi khác. Khi mà
có người ta dạy cho mình, người ta chỉ cho mình - đó là cái sự ngoan cố của
mình. Mình chấp cái chỗ mà mình sống phá giới luật, sống không có phạm hạnh thì
người ta chỉ người ta nhắc nhở mình thì mình còn đặt câu hỏi này câu hỏi khác. “Ông
ta có phải là Phật không, hay là Bồ tát A La Hán không mà nói như vậy, mà dám
chỉ vạch như vậy - lỗi của tu sĩ hiện giờ”. Đó là, những cái câu
này là những câu mà Thầy lặp lại, có những người khi nghe cái lời dạy của Thầy
trong cái “Phật môn bảo huấn”. Cuộn băng thuyết là Thầy chỉ cho những tu sĩ
hiện giờ là sống như vậy không có đúng cái phạm hạnh, sống chạy theo những cái
dục lạc, thì có một vài thầy họ đặt câu hỏi như này: Ông ta (chỉ Thầy) có phải
Phật không, Ông ta có phải là Bồ tát, Alahán không mà dám nói như vậy? Dám chỉ
trích những cái lỗi của tu sĩ bây giờ như vậy? À, người ta đặt câu hỏi như vậy.
Sự thật thì quý thầy thấy rằng, trên vấn đề ngày xưa mà có một vị tỳ kheo mà
sai, phạm lỗi thì vị cư sĩ đó họ chỉ trích, họ phê bình thì cái đó có cần phải
là Phật không? Còn bây giờ quý thầy nhan nhãn sai mà nói quý thầy sai thì quý
thầy nói có phải Phật không mà nói như vậy? Quý thầy thấy cái sự luận điệu của
họ như vậy. Chỉ có ông Phật nói thì họ mới nghe thôi, bây giờ không phải ông
Phật nói thì ai nói họ cũng chẳng nghe, ý họ muốn nói như vậy đó.
Ngày xưa trong thời
đức Phật, những cư sĩ có phải là Phật, Bồ tát , A La Hán đâu, họ luôn luôn thấy
tu sĩ, các vị tỳ kheo sai lầm, đều chỉ trích những cái sự sai lầm ấy để cho các
thầy tỳ kheo sửa lại. Còn bây giờ thì quý thầy rất là ngoan cố, bây giờ mới
thấy cái chỗ mà các thầy nói như vậy thật ngoan cố. Mình không thấy cái lỗi của
mình phạm giới, phi phạm hạnh như vậy. Mà bây giờ người ta nói thì mình không
sửa thôi mình làm thinh đi. Còn cái này còn ngoan cố để bào chữa mà; ông ta có
phải là Phật, Bồ tát không mà dám nói vậy. Đó, các thầy thấy cái lời họ nói như
vậy thì các thầy nghĩ như thế nào? Họ rất ngoan cố đó, đã phạm giới, không sửa
mà còn hỏi Phật, Bồ tát, A La Hán. Nếu quý vị biết họ là Phật, Bồ tát, A La Hán
thì quý vị còn có được gặp họ chăng? Nếu mà ổng, cái ông đó mà ổng nói ổng là
Phật, Bồ tát, A La Hán thì khi mà biết họ là Phật, Bồ tát, A La Hán mà nói mình
rồi thì quý vị có còn gặp được ổng nữa không?
Bởi
vậy, ngoan cố là một pháp rất cực ác, khiến cho người ta cố chấp không chịu
buông xả để đời đời kiếp đọa ở địa ngục, nợ nần của đàn na thí chủ biết bao giờ
mà trả cho hết.Quý thầy có thấy chăng, những vị tu sĩ ngoan cố không chịu sửa
sai, sống không đúng phạm hạnh, để giờ phút chết lâm chung để lại một thảm
trạng đau lòng cho những người đệ tử cũng như những người tu sĩ sau này. Đó
cũng là một sự cảnh báo của những người tu phạm giới, phá giới, phi phạm hạnh,
những người tu sĩ ngoan cố, chẳng bao giờ để ý thầy tổ mình, họ để lại những
gương xấu đau lòng. Mắt họ đã nhìn thấy cái thảm trạng này, tai họ đã nghe
những cái cực hình này của những bậc thầy của họ mà họ không có chịu sửa đổi.
Khi đã thông hiểu
được Phật pháp, gần gũi các bậc giới đức sống đời phạm hạnh, ta hãy noi gương
theo họ, xả tâm ngoan cố, chấp hành giới luật, sống đúng đời sống phạm hạnh là
ta đã thắp sáng lại ngọn đèn của Phật pháp, làm sống lại Phật pháp. Chùa to
tháp lớn chúng ta dẹp qua một bên, để thực hiện đời sống trắng bạch như vỏ ốc,
giải thoát hoàn toàn những sợi dây ràng buộc, thương ghét và đoạn dứt những dục
lạc thế gian, để thanh thản tiến bước đến mục tiêu giải thoát sanh tử luân hồi
hoàn toàn. Nghĩa là chúng ta phải cất chùa to tháp lớn, dẹp sạch đi để cho họ
đi tham quan đi, đừng có thèm ở trong đó nữa. Bây giờ đi cất cái chòi tranh
vách lá nào đó ở trong cái khu rừng hoặc chỗ nào yên tịnh, nơi đó để chúng ta
thực hiện thiền định, giữ gìn giới hạnh, sống đúng phạm hạnh của Phật để ly dục
ly ác pháp, thực hiện Định vô lậu, xả hết tâm lậu hoặc, thực hiện bốn Thiền để
làm chủ sống chết. Đó là những cái điều mà hiện giờ Thầy thành thật khuyên quý
thầy ai có chùa to tháp lớn dẹp hết đi, không có còn kêu gọi Phật tử đóng góp
để xây dựng nữa. Chùa quá nhiều rồi, xây quá nhiều rồi, tiền bạc đổ xuống đây
quá nhiều rồi, bao nhiêu mồ hôi nước mắt của quý vị đổ quá nhiều. Thì quý thầy
không nên mà giữ gìn nó nữa, bỏ hết xuống đi để chúng ta tìm lấy cái sự giải
thoát. Vậy ta trạch pháp câu này để thường nhắc tâm ta hướng đến Như lý tác ý:
“Ngoan
cố là một pháp cực ác khiến cho ta khó buông xả, khiến cho ta sống phá giới,
sống phi phạm hạnh, sống theo dục lạc thế gian và không chịu buông bỏ, ta phải
đoạn dứt, ta phải từ bỏ nó. Ngoan cố hãy đi đi, đi để cho ta sống đúng đời sống
phạm hạnh, sống không phạm giới, sống ly dục ly ác pháp. Một lần nữa ngoan cố
hãy đi đi, đừng có ở đây, không được ở đây, không được bén mảng với chúng ta
nữa, đi đi”.
Đó là chúng ta ra
lệnh đuổi cái tâm ngoan cố, không khéo ngoan cố nó cứ dính hoài trong tâm chúng
ta nó không chịu buông ra. Ví dụ như mình muốn cái gì đó mà mình không có thoả
mãn được nó thì mình phải dùng cái pháp hướng này, mình tu tập mình đuổi nó đi,
chứ không khéo nó đòi hỏi nó không được thì nó sẽ thành ra cái tâm nó làm chúng
ta khổ đau. Do vì vậy mà chúng ta phải dùng cái pháp hướng này. Thì chúng ta
biết đó là những cái pháp mà nó là cái pháp ác nó làm cho chúng ta rất khổ sở,
làm cho tâm chúng ta không được vui vẻ, làm cho tâm chúng ta rất là đau khổ,
cho nên chúng ta phải xả nó đi, phải quét sạch nó ra đi, để lần lượt chúng ta
đi vào thẳng con đường giải thoát. Từ đó chúng ta phải nỗ lực, từng mỗi cái mỗi
cái mà Phật đã dạy chúng ta trong này là những điều mà chúng ta cần phải tu
tập, hết sức tu tập mỗi tuần, chứ còn nếu mà chúng ta không tu tập thì chắc
chắn chúng ta sẽ không đạt được.
Mười
lăm - Tâm Phật không nông nổi.
Bây giờ chúng ta,
từng cái phần nhỏ phần nhỏ để mà chúng ta lấy cái tâm mà niệm Phật chúng ta
phải biết từng cái phần này để mà dùng cái pháp hướng để mà chúng ta thực hiện
ở trong cái sự tu tập của mình. Tâm ta niệm Phật cũng vậy, không nông nổi. Nông
nỗi là nông cạn, hời hợt, thiếu cân nhắc suy nghĩ trước khi hành động, đó là
một tánh tình bộp chộp. Bởi vậy Phật dạy chúng ta ý tứ, tư duy khi muốn làm một
điều gì, hầu hết là quý vị quý thầy ở đây phải có suy nghĩ kĩ lưỡng, phải tư
duy cân nhắc để rồi khi làm nó không có bị thất bại. Còn nếu mà quý thầy nông
nỗi bộp chộp thì quý thầy sẽ gặp những thất bại khi mà làm những công việc
gì.Cũng như quý vị tu hành mà quý vị không có suy nghĩ kĩ khi mà cái pháp hành
đó đúng cái thời điểm đó hay là không đúng thời điểm đó. Cho nên quý vị nông
nổi lắm, nghe nói hay là cứ lo tu chứ còn chưa biết, chúng ta phải suy nghĩ cái
đó nó phải ở trong chỗ nào, lúc nào, chỗ nào, thời nào, cái điểm nào mà chúng
ta tu cái tâm này.
Từ ngày Thầy dạy các
thầy tu tập năm loại định, có năm loại định:
1- Định niệm hơi
thở,
2- Chánh niệm tỉnh
giác định,
3- Định sáng suốt,
4 - Định vô lậu,
5- Hiện tại an lạc
trú định.
Mỗi loại định tu đều
có khác nhau, thế mà quý thầy đã nông nổi không chịu suy tư tu tập như thế nào
cho đúng, quán như thế nào cho đúng, hướng như thế nào cho đúng. Đến khi Thầy
hiểu được là quý thầy đã tu sai. Quán Vô lậu mà quý thầy cứ kê ra một chữ hoặc
là một số chữ nghĩa nào đó để rồi quý thầy cứ nhẩm đi nhẩm lại cái số chữ đó mà
nó không thành ra một cái chỗ Vô lậu của nó. Đó là quý thầy sai, tức là quý
thầy có cái sự lười biếng ở trong cái sự quán Vô lậu. Quý thầy quán như vậy thì
biết bao giờ cho hết lậu hoặc, nghĩa là quý thầy đem ra một số từ Thầy ví dụ
như “ vô thường, khổ không, vô ngã “ rồi quý thầy cứ đem cái thân mình đặt ra
thân vô thường, khổ không, vô ngã. Rồi cứ quán hoài như vậy, đọc hoài như vậy
cũng như là niệm Phật như vậy thì thử hỏi cái quán này nó có nhằm nhò gì cho
cái sự tu tập của quý thầy đâu. Bởi vậy Thầy mới sợ quý thầy không hiểu mới nêu
lên những cái gương của các Thánh Tăng, của các Ni, trong cái thời trước
để lấy đó mà chúng ta tự suy tư tìm cái vô thường cái khổ nó như thế nào để mà
tu tập.
Muốn cho quý thầy tự
mình khai triển được cái trí tuệ vô sư, cái tri kiến giải thoát, chớ đâu có
muốn cho quý thầy nhẩm đi cái đờm dãi đó hoài, làm sao cho nó vô lậu được. Rồi
đến cái định Chánh niệm tỉnh thức định, không biết như thế nào, có đúng hay không,
cho đến Định sáng suốt, chẳng ai thưa hỏi gì cả, chắc chắn là không có tu. Theo
Thầy nghĩ mà, nếu tu thì chắc các thầy sẽ có cái sai cái đúng chứ, làm sao mà
không thấy trình gì hết, đâu lẽ dạy như vậy mà quý thầy tu cái đúng liền đâu?
Cho nên quý thầy không có trình bày cho Thầy biết, vậy mà Thầy nghĩ rằng cái sự
tu của quý thầy chưa hẳn đã là đúng. Định hiện tại an lạc trú thì người trình
hơi thở như thế này, kẻ trình hơi thở như thế khác, tu thì có tu, nhưng tu đúng
cách thì như thế nào đúng. Hầu hết quý thầy không rõ. Cho nên nhìn quý thầy
sống thì biết quý thầy tu đúng tu sai. Nghĩa là nhìn cuộc sống của quý thầy
hiện mà đang ở trong tu viện này, cái lối sống của quý thầy thì biết quý thầy
đã ở trong năm cái định này có tu đúng tu sai Thầy biết, chứ Thầy không có cần
mà theo dõi hơi thở của quý vị. Thấy cái lối sống là biết được cái sự tu của
quý thầy. Nếu một người mà tu đúng thì họ phải như thế nào, mà tu sai thì họ
phải như thế nào?
Đó thì quý thầy biết
được cái điều đó, nếu một bậc thầy người ta có kinh nghiệm, người ta thấy cái
lối sống người ta biết cái thiền định nó đúng, người ta thấy cái lối sống nó
không đúng thì tức là cái thiền định đó tu sai.
Thời gian của Thầy
nó không cho phép nữa, còn ngắn quá mà làm việc nhiều quá. Bởi vậy lấy tâm niệm
Phật thì quý thầy không được nông nổi, mà quý thầy muốn tu một cái định nào
phải suy nghĩ cho kĩ xét xem có đúng chưa rồi mới thực hành, khi thực hành còn
phải xem coi có kết quả hay không, hay có những trạng thái gì xảy ra, những
trạng thái đó đúng hay sai, phải thưa hỏi lại, nếu không thực hỏi, lỡ có gì,
sửa rất là khó khăn. Câu này quý thầy phải trạch pháp để dùng pháp hướng như lý
tác ý:
“Tánh nông nổi là một tánh bộp chộp, rất xấu, thường đưa người ta
đến thất bại trong mọi việc làm cũng như trong sự tu hành. Từ đây làm việc gì
hay tu tập ta thường nhắc nhở không được hời hợt nông cạn, suy tính cho kĩ
lưỡng rồi mới hành. Tánh nông nổi phải đi không được ở nơi ta nữa, nông nổi
việc gì cũng thất bại, hãy đi đi đừng ở đây nữa”.
Nghĩa là mình nhắc
mình đuổi như vậy, cho nên mỗi lần nhớ nó thì mình muốn làm việc gì, mình muốn
tu gì thì mình suy nghĩ rất kĩ rồi mình mới làm. Chứ còn mình không suy nghĩ
tới nó thì mình bộp chộp lắm, ngay đó mình lo mình tu à, không có chịu suy nghĩ
cái đó đúng hay sai. Cho nên từng những cái pháp như vậy, từng những cái điều
kiện rất là quý báu mà chúng ta cần phải theo dõi cần phải hiểu để mà học.
Đó là những cái cơ
bản, căn bản mà chúng ta đi vào thiền định. Nó là những cái pháp mà cần lúc nào
chúng ta cũng tạo thành cái niềm tin bất diệt ở trong lòng của chúng ta đối với
Phật. Bởi vì tâm Phật như vậy mà tâm ta không có đúng như vậy thì tức là chúng
ta quy y Phật làm gì? Quy y Phật phải là nương theo Phật, phải sống như
Phật mà bây giờ nó còn khác Phật thì chúng ta phải nỗ lực làm sao cho giống
Phật, như vậy gọi là niệm Phật. Còn nếu mình không theo Phật thì thôi, thì mình
muốn niệm cái gì cũng được, còn mình đã theo Phật thì mình phải niệm Phật bằng
cách đúng của Phật. Tại sao theo Phật lại không làm đúng, mà làm đúng như vậy
thì có giải thoát không? Mà có giải thoát rồi thì quý thầy thấy như thế nào?
Tin không? Tin chứ, nếu không có kết quả làm sao ai tin, mà đã có kết quả là
phải tin. Cho nên, từng cái tánh nhỏ mọn, như là nông nổi, như là phản bội mà
chúng ta nghe danh từ nó thì thường, nhưng mà đến rồi chúng ta mới thấy hành
động của chúng ta, sự diễn biến của Thầy để cho quý thầy thấy rõ sự diễn biến
đó là những hành động phản bội, những hành động nông nỗi của chúng ta cho nên
đưa dần chúng ta đến chỗ sai lệch.
Ngày mai chúng ta sẽ
học buổi thứ mười, tâm ta không phóng dật. Bây giờ chúng ta dừng lại.
Trước khi học tâm
Phật không phóng dật, Thầy xin đọc lại một cái bài kệ của một vị Thánh tăng để
giúp cho chúng ta trên đường tu tập tâm không phóng dật.
Ngài Khitaka,
sau khi chứng quả A La Hán, thường thường là ngài dùng kệ khuyến khích các bạn
đồng tu của mình. Qua cái bài kệ này, chúng ta nghe để mà chúng ta cố gắng giữ
tâm mình không phóng dật như tâm Phật vậy:
“Tâm ái như tảng đá,
Đứng vững không dao động”
Cái tâm mà ham muốn
của mình, mình tập luyện nó như là một cái cục đá, luôn luôn nó vững vàng trước
các cái pháp làm cho nó bị dao động thì chúng ta cố gắng giữ không dao động. Và
do nó không dao động thì cái tâm chúng ta không phóng dật ra ngoài, vì vậy mà
chúng ta sẽ thoát ra những cái khổ đau do các vật, các hoàn cảnh, các sự kiện
nó lôi cuốn nó làm cho chúng ta khổ sở trong cái cuộc sống của chúng ta hàng
ngày.
“Hỡi vật khả ái kia,
Tâm ta không tham ái”
Nghĩa là tất cả mọi
cái đối tượng của ngũ dục lạc ấy, thì nó gợi lên những cái khả ái, khả lạc, khả
hỷ dễ làm cho tâm chúng ta dễ bị say đắm, dễ bị ham mê. Do vì vậy đó mà chúng
ta phải giữ gìn cái tâm của mình không có cho tham ái. Cho nên Ngài mới nhắc ‘hỡi
vật khả ái kia, tâm ta không tham ái’. Thì như
vậy, giữ cái tâm của mình như vậy nó không có ham muốn thì các vật kia nó không
cám dỗ được và do đó mình mới giữ tâm mình nó mới vững vàng như cái tảng đá.
“Đối vật dễ dao động,
Tâm ta không dao động”
Trước các vật, trước
các pháp, tâm nó dễ bị dao động lắm nhưng người tu hành thì phải đầy đủ cái
nghị lực, đầy đủ cái can đảm không có để cái tâm chúng ta bị dao động theo các
cái vật nó cám dỗ nó lôi cuốn mình.
“Tâm ai tu tập vậy,
Từ đâu khổ sẽ đến”
Nếu mà chúng ta giữ
gìn tâm được như vậy đó, cái tâm mà không phóng dật theo vật được như vậy thì
làm sao có khổ đến với tâm ai? Đó là cái bài kệ của ngài khuyến khích ta tu
hành để cho cái tâm của chúng ta không phóng dật. Cho nên trước khi mà học về
tâm Phật không phóng dật thì chúng ta phải lấy cái bài kệ này để rèn luyện, để
thực tập cho chính tâm mình nó không phóng dật. Đây Thầy đọc lại cả bài kệ:
“Tâm ai như tảng đá,
Đứng vững không dao động,
Hỡi vật khả ái kia,
Tâm ta không tham ái,
Đối vật dễ dao động,
Tâm ta không dao động,
Tâm ai tu tập vậy,
Từ đâu khổ sẽ đến”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét