18/1/15

GIÁO ÁN TU TẬP CỦA NGƯỜI CƯ SỈ BĂNG SỐ 09

BĂNG SỐ 09

(BBT:CĐ,09A,00:00:12)Thứ năm là chúng ta sau khi nhập thất vào là phải tu cái Hiện tại an lạc trú chánh định, nghĩa là tu bám chặt trên hơi thở.
Điều thứ sáu là phải Sống độc cư, coi như mình tịnh khẩu hoàn toàn.
Nếu mà hội đủ sáu điều kiện này thì chúng ta sẽ hoàn toàn nhập vào Sơ thiền rất mau. Bằng chứng cụ thể là chúng tôi vừa qua. Chúng tôi vừa qua trong sáu điều kiện này thì ở chùa trong mấy năm qua đã thực hành có. Bởi vì trước kia là một Tỳ kheo thì đã giữ giới rồi, tu mười điều lành và trường chay tiệt dục rồi. Thứ hai là tỉnh giác. Ở chùa thì chúng tôi lúc nào cũng tỉnh giác, tu trong các hành động. Cái thứ ba ở chùa Định vô lậu thì lúc nào cũng- thường thường tu cái thiền biết vọng. Khi vọng nổi lên là nhìn thấy nó. khi nhìn tận cùng của nó, mình phát hiện ra nguyên nhân ở chỗ nào rồi mình gạt ra. Đồng thời mình đọc kinh sách, truy tìm thêm giáo lý, đó là tịnh. Để mình dẹp mọi cái tham- sân- si- mạn- nghi, đó là Định vô lậu.
Cái thứ ba là xả tài sản. người tu tập hiện nay, trước khi vào Tu viện này chúng tôi đã tìm người để giao lại chùa với một quyết tâm nỗ lực là không bao giờ trở về để làm trụ trì nữa. Nghĩa là xả bỏ hết ngôi chùa, đồng thời giảm bớt lần đi mọi quan hệ, mọi tình cảm. Cho nên khi mà làm những cái động tác đó xong thì bắt đầu Thầy Viện chủ mới dạy cái phương pháp quán niệm hơi thở để bám chặt hơi thở. Rồi sống độc cư như vậy trong bảy ngày là vô Sơ thiền liền. Thì đó là cái kết quả mà một hành giả muốn đạt được thì chúng ta phải trang bị trước. Còn nếu chưa trang bị được sáu điều kiện này thì coi như chúng ta tu cũng mất thời gian thôi. Đó là về cái mặt thuận lợi.
Còn về khó khăn thì theo kinh nghiệm của bản thân chúng tôi thì vừa qua đã bị tẩu hỏa nhập ma. Tức là đã bị ma tưởng ấm nhập vào. Chúng tôi nghĩ là do có ba nguyên nhân.
Một,nguyên nhân thứ nhất là ngồi thiền ráng chịu đau quá. Chúng ta cố sức ngồi thiền. Khi ngồi thiền bị đau quá rồi, ráng hết sức ngồi cho lâu để tập cho cái giò cho nó quen. Thì như vậy chúng ta đã lầm, ngồi như thế đã lầm rồi. Chúng ta phải biết rằng, khi nào ðúng lúc chịu ðau. Khi nào chúng ta ở cái khoảng từ Nhị thiền tiến lên Tam thiền ðể phá cái thọ thì đúng lúc đó chúng ta mới chịu đau, chấp nhận chịu. Còn trong cái lúc này chưa nhập Sơ thiền hay chưa gì đó mà chấp nhận chịu đau thì mình tu sai. Hoặc giả mình tiến lên Nhị thiền rồi, mình chấp nhận ngồi chịu đau thì mình sẽ bị ma tưởng ấm nhập vào thôi. Bởi vì chính bản thân tôi trong cái lúc mà đi vào Nhị thiền, thì trong cái đêm ngày thứ mười tám. Thì sau khi thấy cái hơi thở mình quá nhẹ đi, rồi thấy cái thân người mình bay bổng lên khỏi giường. Thấy rất là thích thú, có hỷ lạc cho nên chịu ngồi như thế. Sau thời gian khoảng chừng hai mươi phút thì tới cơn đau của cái giò. Nó đau lên dữ tợn buộc kiềm. Kiềm khoảng chừng 20 phút thì tự nhiên nó bung ra. Nó bung ra thì trong lúc đó ma tưởng ấm nhập vào liền. Đó là đêm thứ mười tám. Lý do sao nhập- là lý do là chúng ta vừa bung giò ra thì tất nhiên là có một cái tư tưởng là phải nghĩ tưởng như thế nào cho nó bớt đau. Từ cái chỗ đó là cái ý thức của chúng ta nó rời ra, nó đâu có định trong hơi thở. Nó không định tâm chỗ đó cho nên tưởng thức nó nhảy vô liền. Mà mình tưởng, tưởng để cho hết đau thì tưởng thức nó vô. Nó vô thì bắt đầu nó mới bắt gân, bắt gân rồi nó vần, vò đủ thứ. Rồi có những cái nó bắt mình xá, lạy, rồi bắt ấn Chuẩn Đề, rồi làm đủ mọi động tác đặng cho nó hết đau. Là như thế nó kéo dài từ ba giờ khuya cho tới tám giờ sáng là mới xả ra, là lúc đó trời sáng rồi. Do đó sau cái lần này, sau khi xả ra thì chúng tôi chạy tới thưa Thầy viện chủ để thông báo liền. Thầy viện chủ cho biết là cái tưởng ấm ma nó nhập vào.
Từ đó chúng tôi cũng chưa có được kinh nghiệm nữa. Kinh nghiệm là lúc mình xả ra rồi nó thừa cơ, tưởng ấm nó nhập vào là lúc đó. Mà cũng chưa được kinh nghiệm. Do đó cho nên giờ chỉ có cái là bình tĩnh trở lại thôi, đặng rồi tiếp tục. Thì đó là điều thứ nhất mà chúng ta phải nhớ đừng có ngồi thiền mà kiềm đau quá. Khi mình ngồi mà thấy nó đau thì xả bỏ đi. Còn trong cái lúc mà chúng ta xả thiền thì phải luôn luôn với một cái chánh niệm, một cái tỉnh thức. Nghĩa là tôi chỉ biết xả thiền thôi, đừng có một cái mống lượng gì khác nữa hết. À, lúc đó mà chúng ta quên đi cái tỉnh giác chánh định này đó thì tất nhiên tưởng ấm nó sẽ nhập vào ngay. Thì trong lúc đó chúng ta nói là, trong lúc thân thể mệt mỏi ể oải rồi, chân nó đau nhức nữa đó, ý thức nó đã rời ra rồi, hay nó lơi lỏng rồi, thì có một móng niệm lên là tưởng ấm nó nhập vô liền, rất là nhanh trong vòng một niệm thôi.
Vấn đề thứ hai là chỉ cần có một ý niệm thần thông. đấy, vấn đề này cũng là rất quan trọng đây. Nghĩa là chúng ta chỉ có một ý niệm về thần thông thôi, một thần thông bay hay một thần thông như thế nào đó. Một suy nghĩ, một niệm thôi nó nhập vào liền. Cũng như sau khi xả thiền xong thì cái đêm, hình như là cái đêm hai mươi sáu hai mươi bảy gì đó. Là sau khi tiến lên cái đoạn cửa Tam thiền. Nghĩa là làm chủ được các hành. Sau khi tịnh chỉ được hơi thở rồi đó, mới tiến vào để tịnh chỉ các hành. Thì chúng tôi ngưng hoàn toàn, các hành ngưng hoạt động để cho nó lạnh từ dưới giò lên. Sau khi nó lạnh tới xương sống. Lạnh tới xương sống thì Thầy Viện chủ cứ cho tiếp tục lạnh lên hết toàn thân.
Sau đêm đó, lúc đó là ba giờ sáng chúng tôi ngồi thiền để cho lạnh lên toàn thân hết rồi mới xả ra. Sau khi xả ra toàn bộ hết rồi thì tính đi kinh hành rồi, nhưng mà tự nhiên có một cái luồng, một cái luồng ma lực nào đó cũng không biết tự nhiên nó thâm nhập vào hai cái chân mày. Nó xoáy xoáy xoáy coi như là phải nhắm mắt lại luôn đó. Nó xoáy lại mà cũng không biết đó là chuyện gì. Do đó mà chúng tôi mới lầm tưởng suy nghĩ là chắc có lẽ mình ngồi thiền hai con mắt mình nó làm cho thông qua lại, nó làm cho thông lỗ mũi và thông luôn miệng, nghĩ vậy thôi. Tự nhiên bắt đầu nó xoáy xuống mũi, xoáy xuống miệng rồi nó làm cho la lên đặng cho thông. Đó, rồi cứ như thế nó la hoài, la càng lớn càng tốt làm như mê nên mình phải la. Do đó cho nên là không còn tự chủ được nữa. Mà cũng may lúc đó có thầy Mật Hạnh và Thầy Viện chủ phát giác kịp. Thầy Viện chủ vô rồi bỏ tay lên vai chúng tôi rồi thì chúng tôi mới hoàn toàn tỉnh lại. Tỉnh lại là bảo ngưng không cho la nữa thì lúc đó mới hết. Thì sau khi hết xong thì chúng tôi mới ngủ trở lại, xả thiền xong ngủ trở lại. Thì đó xin tạm dừng lại để nói cái ý thứ ba.
Nguyên nhân thứ ba mà để bị nữa - nguyên nhân thứ ba là không biết trước được những trạng thái của cơ thể sẽ đổi khác khi chúng ta tịnh chỉ được các hành. Nghĩa là sau khi chúng ta tịnh chỉ được các hành, nghĩa là cho lạnh toàn thân rồi đó thì một người thiền sinh chúng ta phải biết trước những cái cảm giác thay đổi. Bởi vì lúc bấy giờ khi mà lạnh toàn thân hết thì máu cơ thể ta, hồng huyết cầu chúng ta đã thay đổi hết rồi. Coi như là nó đổi trượt hết rồi, thành một con người mới. Do đó cho nên các thiền sư hồi xưa chúng tôi nhớ lại là họ có nói: “ Rắn thành rồng không đổi vảy”. Hay là cái câu “ Bước qua đầu cầu trăm trượng mà có dám bước hay không” đó. Do đó cho nên là chúng ta phải biết trước những cái trạng thái này, trong cái trạng thái mà sau khi chúng ta tịnh chỉ các hành thì phải biết. Nghĩa là đã làm chủ được các hành rồi, làm chủ được hơi thở rồi thì nó sẽ có những trạng thái khác. Bởi vì chúng ta làm chủ nó thì ra lệnh nó. Mà nó giống như một cái người tướng mà cầm quân vậy đó. Nếu mà chúng ta làm tướng mà không điều khiển được quân lính thì nó náo loạn hết. Tất nhiên tan rã hàng ngũ.
Thì con người chúng ta cũng vậy. Khi chúng ta làm chủ được thân, làm chủ được hơi thở, làm chủ được các hành. Thì lúc bấy giờ nếu chúng ta không hiểu biết trước được rồi chúng ta khủng hoảng lên. Chúng tôi sẽ nhắc lại cái đêm đó, sau khi bị tưởng ấm ma xong rồi tiếp tục nằm ngủ thì khuya lại đến khoảng mười một giờ thì chúng tôi giật mình thức dậy, thì chúng tôi thấy sao mà toàn thân nó đều cứng. Nó cứng không phải theo cái kiểu mà lạnh tê cứng mà nó cứng theo cái kiểu mà mình thấy có thể nhúc nhích được. Nhưng mà do không có hiểu trạng thái này cho nên khủng hoảng lên. Tưởng đâu là các hành ngưng hoạt động cho nên mới ra lệnh cho các hành hoạt động trở lại, thì bắt đầu nó vận động trở lại. Thấy máu nó vận chuyển. Thấy như rằng nó nổ lụp bụp từ lỗ chân lông rất là nhiều.
Lúc này khủng hoảng sợ quá. Sợ quá thì bắt đầu bảo các hành ngưng hoạt động thì bắt đầu nó ngưng. Rồi thì bắt đầu nó giảm xuống nữa. Thành thử ra cứ làm như thế liên tục từ lạnh cho tới vận hành cơ thể liên tục, rồi cho tới lạnh. Đến hơi thở, hơi thở nó mất bình thường. Nghĩa là biểu ngưng, biểu thở nhẹ, thở chậm; đặng rồi ra lệnh đủ thứ hết. Cho nên tất cả trong thân đều náo loạn. À, lý do là không biết những trạng thái này cho nên mình điều chỉnh được tất cả những cái mà... Điều chỉnh được hơi thở, điều chỉnh được các hành nhưng mà mình điều chỉnh không đúng. Thành thử nó náo loạn tất cả các nội tạng hết. Lúc bấy giờ chúng tôi mới sợ quá đi, không còn tự chủ nữa nên mới chạy ra ngoài kêu Thầy viện chủ, mới báo lại. Lúc bấy giờ Thầy viện chủ mới bảo là cứ cho các hành hoạt động bình thường, và hơi thở thở bình thường. Thì chúng tôi cảm thấy yên ổn trở lại và ngồi gần với Thầy thì như nó có một cái từ lực gì đó. Có một cái từ lực gì đó mà làm cảm thấy yên ổn. Và ngồi nói chuyện với Thầy để bàn qua sự việc một hồi thì Thầy mới khuyên nên tu một biện pháp là tu Định vô lậu.
Lúc bấy giờ nên tu Định vô lậu nghĩa là giữ lại cái hơi thở bình thường, nhưng mà lúc bấy giờ chúng tôi đâu có còn bình tĩnh nữa đâu để mà tìm lại cái hơi thở bình thường. Lúc đó là bị khủng hoảng quá đi, cho nên nó quên mất hơi thở đó. Hơi thở mà bình thường là lúc ban đầu chúng ta học thiền đó. Thì Thầy viện chủ mới cho chúng tôi, bảo chúng tôi nên đi kinh hành. Thì đi kinh hành chúng tôi mới tập trung lại, tập trung tư tưởng lại đi kinh hành, vừa đi vừa quán tưởng rồi vô thường, vô ngã, rồi quán tưởng về thân bất tịnh, quán tưởng về tài sản thế gian giả tạm, quán tưởng đủ thứ để chúng ta quên đi cái chuyện khủng hoảng mà nó trở lại cái sự bình tỉnh thì tất nhiên là hơi thở nó điều hòa trở lại.
Thì từ chỗ đó con người mới cảm thấy nó nhẹ dần, nhẹ dần xuống. Rồi như vậy một hồi đi về, đi về nghỉ rồi ngồi một chỗ, không đi kinh hành mà ngồi một chỗ một mình thì bắt đầu nó làm trở lại. Bởi vì lúc đó các hành nó vận chuyển trở lại thì cái hơi thở của mình nó cũng hồi hộp trong đó, cho nên nó bất bình thường, thành thử toàn thể châu thân nó cảm thấy lúc nóng lúc lạnh đủ thứ mà khủng hoảng lên nữa, cho nên chúng tôi ra đây gặp Thầy viện chủ một lần nữa, rồi báo lại vì Thầy viện chủ cũng dạy cách y như thế đó, chúng tôi mới phải đi kinh hành suốt một đêm đi suốt luôn tới sáng thì nó cảm thấy yên ổn.
Nhưng mà đến sáng lại thì Thầy viện chủ mới bảo đưa cho một quyển kinh để mà đọc, thì khi lấy quyển kinh về ngồi đọc thì tâm chú ý vào đọc kinh, đọc, đọc một cách cho nó kỹ lưỡng thì nhờ cái tâm chú ý vào đó cho nên là mình không có nhớ cái chuyện mà hơi thở và các hành nữa, do đó cho nên là nó bình tĩnh trở lại, rồi từ đó hơi thở nó điều hòa, nó trở lại hơi thở ban đầu lại, cứ thở ban đầu, thở nhẹ như thế một hồi rồi tự nhiên ở dưới bụng, lúc này nó nặng bụng dữ lắm, nó nặng bụng, lý do sao bây giờ chúng tôi mới biết được lý do sao nặng bụng và nặng trên đầu. Đó là những cảm giác, những trạng thái mà đến khi cái cửa Tam thiền này, không biết ai có không chứ bản thân chúng tôi thì có, bởi vì nó nặng bụng quá là lý do nó chứa, chứa tất cả những lòng tham sân si mạn nghi ác kiến, nó chứa tất cả lòng tham sống sợ chết, nó chứa những cái tham ái, tham dục, ham của tài sản thế gian, nó chứa trong bụng.
Do đó cho nên khi mà thở lại hơi thở ban đầu rồi tự nhiên nó trào lên, nó tràn lên nhưng mà nó theo cái hơi thở rất là nhẹ, chứ không phải mạnh nữa, nó ra từ từ từ từ, trong lúc nó trào ra thì mình cứ quán, quán về tài sản thế gian, quán tất cả những cái tham sân si lòng ái dục quán nó tràn ra, nó tràn ra chừng năm sáu lần, cũng như cuối cùng mình ợ lên được nó nhẹ luôn, nó nhẹ cái bụng, nhẹ bụng còn nó nặng cái đầu thì cũng chưa biết, không biết nó nặng sao, thành thử ra mới đi kinh hành trở lại rồi về xem kinh, từ đó nó nhẹ bụng thôi. Nhưng mà sau này, qua bữa sau mới biết cái đầu nó nặng là cũng nên chữa đó, bởi vì chúng ta cái lòng tham thì chứa trong bụng, lòng tham ái tham dục thì chứa trong bụng còn trong tàng thức của chúng ta thì cũng chứa cái tham ái, tham dục trong cái thức A-lại-da là thức thứ 8 đó, nó chứa trong tàng thức đó, thì cho nên chúng tôi mới thở ra cái hơi thở bình thường nhưng khi mà thở ra chúng ta nhớ tập trung cái tư tưởng ở trên đầu, xả ra, xả ra tất cả những cái lòng tham dục, tham ái đó, những cái tham sân si đó ở trong đầu nó tràn ra hết, cho nó ra hết, ra, ra, coi như mình xả ra hết thì xả ra nguyên một ngày coi như cái đầu nhẹ luôn.
Thấy cái đó cũng rất là hay. Do đó cho nên là một cái bụng thì chứa những lòng tham, mà trên đầu thì chứa những chủng tử, do đó chúng ta ráng nguyện xả ra, xả ra thân, bụng cũng phải rỗng ra, đầu phải rỗng xuống, tàng thức không chứa chủng tử gì hết, bụng cũng rỗng ra và đồng thời lập một đài nguyện sống y như cuộc đời tu hành chân tu của Thầy Viện chủ. Nghĩa là phải sống phạm hạnh, lập một đại nguyện lớn là phải sống 3 y, một bát. Chỉ có con đường đó thôi, chúng ta mới đi vào cái thiền định của Phật được. Chứ còn nếu mà về ở nhà, tiếp tục trụ trì rồi là cứ lo xây dựng chùa chiền này nọ, thì tất nhiên là coi như đường tu tập vấn đề mà giải quyết vấn đề luân hồi sanh tử, làm chủ được chắc rất khó. Do đó cho nên chúng tôi mới lập cái nguyện lớn là phải sống theo hạnh của Thầy Viện Chủ Bổn Sư là chỉ 3 y, một bát, vậy thôi.
Do đó cho nên là chừng 3 ngày sau thì tất nhiên là thân hình nó nhẹ nhàng trở lại, rồi chúng tôi, lúc bấy giờ thì bình tĩnh trở lại mới bắt đầu ngồi thiền thì Thầy Viện Chủ có nhắc là đừng để cho nó tác ý chúng tôi ngồi thiền, mà lúc này khi ngồi thiền vô thì nó rất là nhẹ nhàng chứ không phải như hồi nãy, lúc mới ban đầu phải tập trung hơi thở. Bây giờ chúng ta chỉ ngồi hít nhẹ một hơi là nó vô, vô luôn tới tam thiền liền. Mà nó đi rất nhẹ mà xả ra cũng rất là nhẹ nữa.
Thì đến đây chúng tôi cũng xin nhắc thêm một cái chỗ nữa, trên cái đoạn đi từ Nhị thiền đến Tam thiền hơi thở của chúng ta, hơi thở chúng ta đi sâu vô nó nhẹ đến mức độ mà đến Tam thiền nó quá nhẹ đi, do đó cho nên cái huyệt sau lưng, chỗ mà vói không tới, tự nhiên nó bị lói hơi nhỏ rồi nó đau, rồi mình hơi thở không thông, trong những lúc tu thiền thấy nó thở vô nhỏ, hơi thở nó nhỏ tới đó là nó không thông, là nó đau, thì chúng tôi xả thiền ra tưởng là bị gió nhập, nhưng mà khi chúng tôi nhờ chú y sĩ, chú lại chú sửa, chú bóp, chú xoa dầu, nhưng không hết đâu, đó là do cái huyệt chúng ta chưa thông thôi, thành thử ra ngồi thiền liên tục 2 lần sau nữa thì tự nhiên hơi thở nó nhỏ dần, nhỏ dần rồi có một sức mạnh gì đó nó tống thông ra rất là nhẹ nhàng. Sau khi cái huyệt đó thông rồi đó, chúng ta nhập thiền vô Tam thiền rất là nhẹ mà rất là nhanh trong vòng chỉ 5 phút thôi là vô liền, chứ khỏi cần phải ngồi mà kiểm tra hơi thở rồi mình phải đủ thứ chuyện lúc mình mới ban đầu. Đó những cảm giác mà chúng tôi thấy được đó thì do 3 nguyên nhân đó, thì đến đây qua những kinh nghiệm của chúng tôi thực tập và bị vấp phải như vậy, nay xin trình lên Thầy Viện chủ và đại chúng biết rõ để chúng ta rút kinh nghiệm và giúp người đi sau khỏi phải sợ hãi và lúng túng khi gặp trường hợp bị tưởng ấm ma nhập vào.
Kính thưa đại chúng! Tưởng ấm ma nhập vào chúng ta đó, là nó nhập khi mà chúng ta xả thiền ra, nó thừa cơ chúng ta lơ đãng, chúng ta không tu tỉnh giác chánh định mà kỹ đó, lơ xơ 1 niệm là nó vô liền ngay trong lúc xả. Do đó cho nên khi xả thiền phải nhớ, ngồi phải tỉnh giác, tôi chỉ biết xả thiền thôi, đừng mống niệm gì hết, đừng mống niệm thần thông nữa. Do đó cho nên phải lưu ý chỗ đó.
Rồi cái cách mà trị liệu đó, để mình khỏi sợ bị tưởng ấm ma nó nhập vào đó, là chỉ có 3 cách, thì theo tôi nghĩ có 3 cách.
Một là khi xả thiền ra phải tỉnh giác, xả thiền chỉ biết xả thiền, ngồi chỉ biết xả thiền thôi đừng nghĩ gì khác hết, là tất nhiên tưởng ấm ma không bao giờ nó nhập vào được, cái đó coi như mình làm chủ cảm giác rồi.
Cái thứ 2 là khi đến cửa Tam thiền thì cơ thể nó thay đổi khác hết trơn rồi, nghĩa là rắn đã hóa thành rồng rồi, mình nhẹ nhàng mình thay trược hết rồi, nó rất là nhẹ nhàng, mà máu nó cũng đổi lại, hơi thở mình cũng đã khác rồi, mình làm chủ hoàn toàn thì chúng ta phải biết được những trạng thái đó. Tất nhiên là người đã tu tập xong hoặc là quý thầy hướng dẫn kỹ lại những trạng thái đó phía trước tất nhiên là hoàn toàn bình tĩnh, mà bình tĩnh thì mới chủ động được, chứ nếu không khéo thì trong lúc đó mà không chủ động thì coi như là sẽ đi đến cái chỗ là tưởng ấm ma nặng là coi như sẽ điên khùng thôi, điên khùng hoặc giả là hư hoại luôn coi như không còn tu hành được nữa đâu, bởi vì lúc đó mình đảo lộn hết trơn rồi, các hành mà bảo nó ngưng rồi, giống như một người mà đi cày đó cho 2 con trâu, người nào không biết cày mà biểu 2 con trâu, người bảo ví người bảo thá con trâu biết đi đường nào. Mắc mớ biểu ví cái biểu thá. Từ chỗ đó nó không biết đường đi. Cũng như các hành và hơi thở của chúng ta cũng vậy. Mình làm chủ được nó là phải điều khiển một cách thuần thục, phải tinh xảo. Do đó mình biết cách như vậy, mình làm như thế thì tất nhiên rất là yên ổn.
Thứ ba, chúng ta đi kinh hành, quán vô thường vô ngã, bất tịnh… để xem kinh để lấy lại hơi thở bình thường ban đầu. Nghĩa là khi gặp những trường hợp đó cứ đi kinh hành. Đi kinh hành để quán vô thường, vô ngã, hay bất tịnh. Rồi ngồi lại lấy cuốn kinh để tập trung xem, lấy lại hơi thở lúc ban đầu. Thì tất nhiên là chúng ta sẽ quét sạch được những cái lậu hoặc mà nó nằm trong bụng, trong đầu của chúng ta. Từ chỗ đó mà lòng tham dục, tham- sân- si- mạn- nghi- ác kiến và tất cả những cái ham muốn và tài sản thế gian phải quán bỏ hết. Chúng ta phải quán xả bỏ hết đi thì từ đầu cho đến bụng mình nó rỗng ra, giống như cây trúc vậy đó. Rỗng ra không có chứa một cái gì hết thì chúng ta đi vào định rất là hay. Do đó cho nên là quan trọng nhất nữa là phải lập một cái nguyện lớn là sống cái đời sống chân tu ba y một bát. Đó là cái quan trọng.
Chúng tôi cũng xin nhắc lại một lần nữa nếu mà chúng ta muốn có một cái thuận lợi để đi vào cái định thì phải tụ hợp, hợp đủ sáu điều kiện. Một là trước phải tu Mười điều lành là thập thiện, giữ giới luật trường chay, tiệt dục. Thứ hai là tu Tỉnh giác định chánh niệm. Thứ ba là phải tu Niệm vô lậu chánh định. Thứ tư xả bỏ tất cả tài sản của thế gian. Thứ năm là tu Hiện tại an lạc trú chánh định. Thứ sáu là sống độc cư, tịnh khẩu. Nếu ai thành tựu được cái này thì tất nhiên nhập thất chừng một tuần lễ là vào Sơ thiền rất nhanh. Đến đây thì qua kinh nghiệm thực tu thực thấy của chúng tôi thì cũng xin trình bày cho đại chúng biết. Cũng như có huynh Minh Tâm cũng trải qua quá trình Tam thiền với những trạng thái này thì sẵn hôm nay mình trao đổi với nhau luôn. Vì phải tịnh khẩu mà không dám hỏi. Do đó cho nên sẵn đây mình trao đổi luôn. Rồi đồng thời cũng xin qua ý của Thầy bổn sư Viện chủ nghe qua và bổ sung thêm một số ý kiến để chúng con tu tập thêm tốt.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (BBT:CĐ,09A,00:22:45)
Thầy xin nhắc cái này chút xíu. Trong cái sự kiện xảy ra, đây là cái hoàn cảnh rất tốt cho chúng ta hôm nay để chúng ta rút tỉa được kinh nghiệm của thầy Thiện Thuận. Và đồng thời phải thấy rằng nó có những điều kiện thực tế trong sự tu tập. Còn Minh Tâm thì được thầy dạy tu tập theo Thầy gần ba năm nay. Cho nên mỗi bước đi của nó Thầy theo dõi, tập luyện rất kỹ lưỡng. Cho nên không đến nỗi mà lạc lầm như vậy. Vì thầy Thiện Thuận xa thầy, chỉ có cái hạ này mới về đây gặp Thầy mà thôi. Do cái sự mà nhiệt tâm tu hành, nhiệt tâm xả tâm. Rồi trong công việc mặc dù là có duyên sự chùa nhưng mà thầy cũng không quên cái pháp tu. Do vì vậy mà đến đây nó quá nhanh chóng mà thầy không chuẩn bị được cái tư thế để làm chủ mọi mặt.
Còn Minh Tâm thì Thầy đã chuẩn bị cho nó mọi mặt. Từ bước đầu vào đây nó ngồi một giờ rưỡi hai giờ, Thầy dẹp xuống còn có mười lăm phút mà thôi. Nghĩa là Thầy chia làm bốn đoạn mười lăm phút như vậy cho nó tu tập. Từ cái ngồi kiết già cho đến cái ngồi ghế thường, cho đến cái đi kinh hành, rồi cho đến khi đứng. Tu trong bốn oai nghi. Do từng cái hướng dẫn cặn kẽ, kỹ lưỡng cho nên nó không xảy ra. Từ đó cho đến giờ thì theo Thầy thấy nó tịnh chỉ được các hành rất tốt và rất yên ổn mà không bị lạc lầm. Vì luôn luôn Thầy đã dạy cái Pháp hướng rất kỹ cho nó. Do như vậy mà Thầy biết rằng Minh Tâm sẽ đi vào con đường thiền này từng cái bước của nó rất là rõ ràng.
Sơ thiền như thế nào chắc chắn nó cũng nhận biết rõ, mà Nhị thiền như thế nào nó cũng biết rất rõ. Cơ thể nó thay đổi không phải như thầy Thiện Thuận. Bùng một cái dùng Pháp hướng cái cơ thể rối loạn liền tức khắc. Còn cơ thể nó từng ngày từng giờ nhẹ nhàng thay đổi. với sự thay đổi nó thường trình bày cho Thầy nghe: dường như thân con thay đổi bằng cách này, bằng cách khác, bằng cách nọ, nó trình bày cho Thầy nghe. Nhưng mà nó nhẹ nhàng, êm ái, không bị rối loạn. Còn thay đổi một cách đột ngột như thầy Thiện Thuận đó là cái rối loạn lớn và ma sẽ nhập đó. Cho nên chúng ta tu hành phải có bậc minh sư thì không bao giờ có bị ngũ ấm ma. Tại sao vậy? Tại vì bậc minh sư họ biết được cái chỗ nào, tu như thế nào, làm như thế nào. Vì vậy mà cái người đệ tử của họ rất vững vàng, không có lạc. Cũng như bây giờ nói là một điều, nhưng quý thầy thử nghĩ khi quý thầy mà xa Thầy thì quý thầy sẽ gặp những cái khó khăn. Cũng như thầy Thiện Thuận nếu mà không có Thầy trong một đêm đó. Cũng như không có sự hướng dẫn của Thầy chắc chắn thì làm sao mà thầy tu tập cho được như ngày hôm nay, phải không?
Vì vậy nó còn những cái khó khăn mà không phải mọi người đều giống nhau hết. Bởi vì đức Phật nói chúng ta có ba cái tướng: Hành tướng, Nhân tướng và Đặc tướng. Mà trong cái Hành tướng của mỗi người, mỗi hơi thở người thì thở dài, người thì thở ngắn ở mực bình thường của nó. Mà chưa phải là những hơi thở khác. Do đó trong Nhân tướng thì có mặt ai giống ai đâu. Người lùn, kẻ cao, người thấp. Đó là cái đặc tướng của nó. Cho nên tùy theo mỗi đặc tướng mà tu tập. Do cái người thiện hữu tri thức người ta mới nắm được cái đặc tướng của mỗi người, mà người ta giúp đỡ cho cái người tu vững vàng. Nó không có bị lệch lạc làm cho con đường tu càng ngày càng tiến, mỗi ngày mỗi thấy sự tiến bộ.
Cho nên hôm nay chúng ta là những người đủ duyên nhất, đã học được thực tế trên con đường tu tập thiền định. Không có còn cái chỗ nào mà hơn cái chỗ này hết. Nghĩa là làm chủ được cái sống chết, làm chủ được cái cơ quan vi tế nhất của loài người- là cái thân của chúng ta chứ còn gì nữa. Không có máy móc nào trên thế gian này mà bằng cái cơ quan, cơ thể của chúng ta. Mà hôm nay chúng ta làm chủ được nó, làm chủ cả trí óc của chúng ta nữa. Để rồi tới đây quý thầy sẽ nhập Tứ thiền và quý thầy sẽ biết cái sự vi diệu của nó vô cùng. Thầy không phải là quảng cáo cái thần thông đó đâu mà tại vì cái bộ máy cơ thể của con người rất là vi diệu. Khi mà chúng ta nắm làm chủ được nó, chúng ta điều khiển được. Cho nên càng đi tới chúng ta càng thấy con đường của đạo Phật thật tuyệt vời, nó thật là tối thượng. Tại sao? Tại vì trong tâm chúng ta không tham muốn một cái gì hết. Xả ly tất cả chỉ còn ba y một bát. Mà chúng ta sử dụng toàn bộ vì vậy mà chúng ta không hề dính mắc. Trái lại nếu mà tâm chúng ta còn chứa tham, ham muốn ở trong đó mà nó điều khiển được cái con người của chúng ta vậy thì thế gian này, trên hành tinh này chắc là con người bị hoại diệt. Nghĩa là cái tâm tham vọng của con người chúng ta điều khiển được con người, cái tâm tham vọng của chúng ta còn mà chúng ta điều khiển được con người như vậy thì Thầy nói thế gian này sẽ bị hoại diệt. Người ta sẽ dùng nó mà người ta làm việc gì vĩ đại. Như các nhà khoa học đã tưởng tượng những con người vĩ đại, thôn tín toàn cầu. Cái tâm tham vọng của chúng ta lớn lắm. Nhưng vì đạo Phật thấy được cái điều này nên dạy chúng ta xả ly cái tâm này để rồi thực hiện cái vi diệu này. Cho nên nó chỉ vi diệu ở cái chỗ làm chủ được cái sự đau khổ của con người, chớ không phải thôn tính toàn cầu để làm bá chủ. Chúng ta có thể, nếu mà người mà điều khiển được thân của chúng ta, có thể chúng ta thôn tính cả vũ trụ chứ chưa nói là toàn cầu.
Thầy nói tới đây thì tới chừng đó các thầy sẽ chứng nghiệm, sẽ thấy điều đó. Cho nên đức Phật Thích Ca nói: “Những gì Ta chứng như rừng lá cây, nhưng Ta dạy mọi người chỉ như nắm lá cây trong bàn tay”. Thật đúng như vậy. Khi thực hiện tới đây Thầy thấy lời nói đó không dối người.
Bây giờ thì qua cái sự trình bày Thầy biết rằng Thầy dạy Minh Tông rất cẩn thận và kỹ lưỡng, cho nên hàng ngày có những chuyện gì thì ngay đó nó đến thất Thầy, thầy trò bàn bạc nhau rút tỉa từng kinh nghiệm cho nên trên bước đường nó không sai. Nhưng có lúc nó cũng nông nổi là: Thầy dạy đừng có ngồi nhiều nhưng nó lại muốn ngồi nhiều để xem coi, do đó có lúc nó ngồi 5, 6 tiếng đồng hồ làm cho chân nó bị đau, bị khổ sở. Nhưng Thầy thấy đây cũng là sự thử thách mà thôi để rồi trên bước đường đi chúng ta mới có những kinh nghiệm. Chớ hầu như là mọi người đều đang nghĩ rằng mình phải ngồi từ 3 tiếng, 4 tiếng, 5 tiếng, 7 tiếng, 1 ngày, 2 ngày. Nhưng Thầy đã từng dạy các thầy chỉ cần trong một phút mà nhập định được thì nó được chứ ngồi nhiều nó chẳng ra gì.
Nhưng điều kiện tiên quyết đầu tiên mà Thầy muốn dạy quý thầy về Định niệm hơi thở hoặc Bốn thiền này thì Thầy đã nhắc nhở quý thầy rất nhiều là phải ổn định hơi thở bình thường, để chừng đó mà chúng ta tịnh chỉ các hành, hơi thở ngưng thì phải trở về mực bình thường của nó. Đó thì qua kinh nghiệm của thầy Thiện Thuận mà nhắc trở lại thì quý thầy thấy cái chỗ Thầy dạy căn bản, rất căn bản. Nhưng hầu hết Thầy nói các thầy không nghe mà cứ nghĩ rằng phải chậm nhẹ hoặc là hơi thở thế này thế khác để cho nó vào định cho nó hết vọng tưởng. Thầy đâu cần quý thầy loại hết vọng tưởng, mà Thầy chỉ cần tu tập đúng, ổn định đúng hơi thở để rồi có chỗ quý thầy trở về. Chứ nếu quý thầy mà tập không đúng cái hơi thở bình thường thì quý thầy trở về không được.
Cho nên lúc bấy giờ thầy Thiện Thuận nói, Thầy biết là thầy Thiện Thuận quên mất hơi thở của mình, bị rối loạn rồi làm sao nắm được nó nữa. Cho nên còn có cách giải quyết là để tự nó nó phải trở về bình thường thì phải dùng ĐỊNH VÔ LẬU mà thôi. Bởi vì lúc bấy giờ hễ chúng ta cần đặt tâm chỗ nào là ngay đó nó đã thu nhiếp lại rồi, thì nó khác bình thường rồi, không thể nào mà… Bởi vì thu nhiếp thì hơi thở nó phải chậm, nó phải nhẹ ra rồi, không thể nào mà bình thường được. Mà bây giờ chỉ còn giữ cái ý của mình để mà làm việc, để cho cơ thể nó tự quân bình lại bình thường, nó mới lấy lại cái hơi thở bình thường.
Còn nếu chúng ta tập nhuần nhã trong đó thì chúng ta biết hơi thở bình thường của chúng ta ở mức nào rồi. Do vì vậy mà khi đó, gặp trường hợp đó chúng ta cần sử dụng hơi thở bình thường và Pháp hướng chúng ta nhắc vài ba lần thì chúng ta trở lại bình thường, và trở về bình thường thì nó thư giãn toàn bộ thân của chúng ta không còn rối loạn nữa. Bởi vì chính bây giờ chúng ta sống hơi thở bình thường thì cơ thể chúng ta đâu có rối loạn. Cho nên khi mà chúng ta nắm được hơi thở bình thường là mạng sống chúng ta đã nắm được, còn không nắm được hơi thở bình thường là mạng sống chúng ta như chỉ mành treo chuông trong bước đi tu tập thiền định. Cho nên Thầy dạy các thầy tu tập kỹ điều này nhưng mà các thầy thì quá vội vàng mà quên cái mạng sống chúng ta là ở nơi hơi thở bình thường chứ không phải ở trong định đâu.
Đó thì hôm nay Thầy nhắc vậy còn bây giờ thì Minh Tông có ý gì để góp với quý thầy, để quý thầy thấy sự tu tập của mình thêm những cái kinh nghiệm tốt. (BBT:CĐ,09A,00:31:53)
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính bạch Thầy.
Kính bạch toàn thể đại chúng.
Tại vì con cũng không được chuẩn bị để có ý kiến cho nên được sự cho phép của Thầy và có sự yêu cầu của thầy Thiện Thuận, con cũng xin góp một vài ý kiến.
Cái điều thứ nhất, bây giờ con nhớ cái gì con nói cái đó, cái điều thứ nhất là nói về vấn đề xả bỏ. Trước khi để mà nhập thất tu hành thì chúng tôi cũng đã suốt gần sáu bảy năm theo Thầy để mà tu tập tại nhà, trong thời gian tu tập tại nhà chúng tôi cũng đã tu tập cái Định chánh niệm tỉnh giác rất là lâu và nhất là hồi trước chúng tôi cũng biết cái pháp tu Chánh niệm tỉnh giác của thầy Nhất Hạnh, cho nên chúng tôi cũng đã tu cái Định chánh niệm tỉnh giác rất là lâu.
Cái thứ 2, trước khi mà quyết định lìa bỏ gia đình mà đi vào tu tập, chúng tôi không phải là người mặc kệ cho gia đình sống chết thế nào thì mặc kệ đâu, chúng tôi phải tới ba bốn năm chuẩn bị. Chuẩn bị bằng cách nào? Bằng cách là chúng tôi tại nhà có cái sự sản xuất về cái ngành mình thích, chúng tôi bây giờ là ngồi yên không có hoạt động, giao cái sự hoạt động đó lại cho người bạn đời của tôi và đứa con trai. Chúng tôi chỉ theo dõi cứ như vậy trong vòng gần 3 năm để xem coi thử là cái sự hoạt động đó nó ra làm sao, khi mà chúng tôi thấy là những người mà có thể thay thế thì lúc đó chúng tôi mới quyết định từ bỏ. Đó là cái sự chuẩn bị và đồng thời cũng chuẩn bị cái tư tưởng cho những người nhà, cho con tôi, con tôi thì tới 5 đứa đang đi học và cái người bạn đời của chúng tôi nữa, chúng tôi cũng chuẩn bị cái tư tưởng, coi thử họ có đồng ý không thì chúng tôi cũng đem ra bàn bạc trong gia đình, thì mọi người đều đồng ý cho tôi được nhập thất.
Họ cũng cứ nghĩ rằng chúng tôi nhập thất trong 3 năm thôi, sau 3 năm là chúng tôi trở về lại, nhưng khi bây giờ chúng tôi đã vào theo Thầy mà tu tập thì chúng tôi thấy rằng là chuyện phá bỏ thì không thể nào mà trở lại đời sống mà của người cư sĩ nữa, vì khi mà đã tu tập và trải qua được cái đời sống độc cư, rồi đời sống của một kẻ xuất gia. Ví dụ như bây giờ tôi trở lại trong gia đình thì chúng tôi không thể nào mà ăn trở lại ngày 3 bữa được, bây giờ ăn một bữa thôi mà nếu ăn nhiều đã cảm thấy trong thân nó mệt mỏi rồi. Bây giờ ngủ chẳng hạn, bây giờ nếu tôi nằm ngủ quá 2 tiếng nếu không thức dậy thì nó rơi vào mộng, muốn cho nó không rơi vào mộng thì chúng ta ngủ đủ cái mức độ tới thức của nó thôi thì tỉnh dậy, tỉnh dậy rồi thì nó đâu có mộng được. Nhân cái chỗ này để nói đến cái chỗ mà làm chủ cái ngủ, nếu mà chúng ta làm chủ được cái ngủ thì đương nhiên là chúng ta đã vượt qua được cái tưởng, vì chúng ta tỉnh rồi thì ngủ đủ thức của nó mà chúng ta tỉnh dậy thì mộng nó không thể xâm nhập vô được. Cũng như khi chúng ta ngồi thiền mà nếu như ý thức chúng ta luôn luôn tỉnh thì không thể nào mà có cái tưởng nó xen vô được. Đó là chúng tôi xin nói đến cái chuyện xả bỏ.
Bây giờ nói đến cái chỗ mà nhập các định. chúng tôi thì không tu tập nhanh như thầy Thiện Thuận mà chúng tôi đi từ từ, bây giờ nếu mà nói qua cái kinh nghiệm tu tập thì nó mất thì giờ nhiều của quý Thầy lắm, cho nên chúng tôi chỉ nói đơn sơ thôi. Ví dụ như bây giờ vô Sơ thiền, chúng tôi thường nghe theo lời Thầy giảng dạy cũng như theo trong kinh điển Phật thì Sơ thiền thì chúng tôi sử dụng cái hơi thở mà không có Tầm nhưng mà còn Tứ. Thở bình thường không có vọng tưởng nhưng mà còn tác ý.
Rồi tới Nhị thiền, tức là chúng tôi chỉ thở nhẹ lại một chút, điều khiển cái hơi thở cho nó nhẹ lại một chút mà không có tác ý nữa, tức là không Tầm mà không Tứ thì nó là vô Nhị thiền. Đơn sơ vậy thôi. Sơ thiền là mình cứ thở bình thường, mà không có vọng tưởng nhưng mà còn tác ý. Lâu lâu mình nhắc nó cái, tức là mình tác ý, mình tác ý cho nó đi tiếp tục, chứ nếu mình không tác ý thì là nếu mà cái người mới tu thì vọng tưởng nó xen vô. Cho nên mình tác ý thì là nó vọng tưởng nó hết xen vô thì tức là mình ở trong Sơ thiền, thanh thản mà đi, thì đó là Sơ thiền. Còn bước vô Nhị thiền thì chúng ta ngưng cái tác ý, thở nhẹ, không Tầm, tức là không có vọng tưởng, mà không Tứ tức là không tác ý mà nhẹ lại thì là nó vô Nhị thiền.
Vô Tam thiền thì chúng tôi khác với thầy Thiện Thuận là tu tập rất là lâu. Tại bước vô Tam thiền, trước khi mà chúng tôi bước vô Tam thiền thì tôi là người không nghe lời Thầy cho nên là ngồi nhiều quá. Tôi ngồi cho đến khi tôi tăng lên đến 4 giờ, thì bắt đầu cái chân nó bị nứt ra thành vết thương. Mà bây giờ các Thầy cứ tưởng tưởng cái vết thương của chúng tôi chỉ là một ghẻ nhỏ ở bàn chân thôi, ở cái chỗ mà chéo cái chân lên đó, thì cái chỗ đó là cái chỗ mà điểm căng thẳng nhất chéo chân lên thì nó trở thành cái vết thương, chúng tôi ngồi trên cái vết thương đó có cái máu nó chảy ra thì suốt như vậy cho đến bây giờ vẫn chưa có lành, sắp lành rồi, như vậy là gần 1 năm.(BBT:CĐ,09A,E00:39:32)(BBT:BN,08,E01:31:39)
(BBT:BN,09,B00:00:00)(BBT:CĐ,09A,B00:40:11)Qua buổi giảng của Thầy, Thầy chỉ nói câu rất ý nghĩa. Thầy bảo là cái quan trọng không phải ở chỗ ngồi, quan trọng ở chỗ tịnh chỉ được các hành, cho nên tôi suy nghĩ, cho nên là tôi ngưng, cho nên tôi không có ngồi chéo nữa, không có ngồi kiết già nữa mà chỉ có ngồi dựa lưng vào ghế. Nhưng mà bây giờ nói đến cái chỗ kinh nghiệm, cái chỗ dựa lưng vô ghế này, các thầy đừng nghe nói là ngồi dựa lưng vô ghế cũng nhập định được. Ở chỗ này là phải biết lúc nào là ngồi dựa lưng vô ghế mà nhập định được. Quan trọng là ở chỗ pháp hành, ngồi dựa lưng vô ghế là nó buồn ngủ dữ lắm. Mà ai chưa phá được thì đừng ngủ, chưa đủ thức tỉnh thì ngồi cỡ 10 phút, 15 phút, 20 phút là nó buồn ngủ. Nó không rơi vô ngủ nó rơi vô thùy miên, nó không rơi vô thùy miên thì nó rơi vô vô ký. Thành ra là Thầy cho tôi ngưng đúng vào lúc mà tôi ngồi ghế không còn bị sâu vào giấc ngủ nữa, cho nên tới bây giờ thì tôi ngồi đến gần 5 tiếng liên tục dựa lưng vào thành ghế không nhúc nhích mà nó cũng không rơi vào ngủ. Đó là nói chút kinh nghiệm về vấn đề là ngồi ghế.
Mà bây giờ sau khi Thầy cho tôi ngưng không có ngồi chéo nữa cho đến bây giờ là gần 2 tháng rồi (..) mà cái vết thương ở chân nó chưa có lành, còn một chút xíu nữa. Vì vậy cho nên quý thầy cũng thấy bữa ăn nào Thầy cũng cho tôi bưng cơm về thất ăn. Là tại sao? Tại Thầy, Thầy nói rằng bảo vệ cho thật kỹ để cho vết thương nó lành. Nó lành rồi thì mình muốn ngồi bao giờ mình ngồi. Nhưng mà qua cái chỗ này tôi rút kinh nghiệm là cái ngồi chéo đó là lúc chúng ta bắt đầu tu. Thầy nói câu chúng tôi rất là thấm thía: Ngồi chéo là để mà kiết cái thân lại để cho vọng tưởng nó đừng xen vô lúc mới thôi, còn bây giờ chúng ta đã làm chủ được hơi thở, chúng ta đã có sức định thì ngồi chéo hay ngồi ghế hay là đi đứng hay nằm thì nó cũng như nhau. Không có quan trọng gì chỗ ngồi chéo đó. Thì ở chỗ này quý thầy thấy rằng là ngồi chéo tức là chúng ta dùng tư thế đó để buộc tâm lại, cho nó đừng có cái sự bung ra hay là nó vọng tưởng ra. Còn khi chúng ta đã điều khiển được nó rồi, tâm ta mà ta đã điều khiển được nó rồi thì ngồi ghế cũng có cái lợi là chúng ta tập tỉnh mà nó không có bị gục.
Qua một điểm nữa chúng tôi cũng xin góp thêm một chút xíu nữa: Vấn đề ngưng các hành và tác ý.
Thì từ hồi nào đến giờ chúng tôi vẫn là ám thị nhắc nhở nhưng mà nó không có kết quả. Sau này khi Thầy nhắc chúng tôi là tác ý cho mạnh, ám thị cho mạnh, ám thị cho cương quyết. Thì chúng tôi bắt đầu luyện tập cách ám thị cương quyết này, tức là ra lệnh cho mạnh thì mới ngưng được các hành. Thì các thầy cứ tưởng tượng rằng là khi phổi ta nó đang thở, các cơ trong cơ thể chúng ta đang hoạt động thì tức là cơ thể ta đang hoạt động mà chúng ta ra lệnh: Ngưng. Làm sao mình ngưng được. Thành ra phải có sự tập trung năng lực tinh thần rất là mạnh. Thầy bảo là: Đừng có nói là hơi thở ngưng, các hành ngưng. Đừng có ra lệnh vậy. Phải ra lệnh mạnh: Các hành ngưng. Hơi thở ngưng(BBT:CĐ,09A,E00:44:27) (chỗ này nghe băng mới thấy được nhấn mạnh giọng)(BBT:CĐ,09B,B00:00:06) thì sau lệnh đó là tự động nó tập trung vô tụ điểm liền. Nếu mà các thầy chưa có tập trung được cái tâm của mình vô tụ điểm thì sự ám thị đó nó cũng không có kết quả.
Cho nên sau khi ám thị rồi chúng ta bám hơi thở chậm liền, phải đưa hơi thở đi vào chỗ chậm liền, chậm liền. Thì bây giờ muốn vô Tam Thiền thì nhẹ chậm ở mức độ nào? Muốn vô tới Tứ Thiền, mặc dù là chúng tôi chưa đạt tới Tứ thiền nhưng mà chúng tôi cũng thấy bóng dáng của Tứ thiền.
Cho nên chúng ta đừng nghĩ rằng là vô một mạch từ sơ thiền tới tứ thiền liền đâu. Không. Khi vô sơ thiền thì chúng ta nương hơi thở nào để vô sơ thiền. Vô sơ thiền được rồi muốn vô nhị thiền thì chúng ta phải ra hơi thở trở lại, ra hơi thở lại chúng ta mới vô được Nhị thiền. Là thở nhẹ mà không có tầm, không có tứ. Đang không tầm, không có tứ, muốn vô Tam thiền thì chúng ta phải ra hơi thở lại. Cho nên đức Phật mới bảo là vô tới Diệt Thọ Định Tưởng thì cũng phải nương hơi thở là ở chỗ đó. Vô Tam thiền rồi muốn vô Tứ thiền thì chúng ta phải ra hơi thở lại, tác ý ra ra hơi thở lại đi ngay từ đầu. Giờ mà đi vô lại luôn cái hơi thở đó, giả sử vô Tam thiền hơi thở nó chậm ở mức độ nào mà vô Tứ thiền thì hơi thở nó chậm ở mức độ nào.
Hoặc tác ý mà ám thị cũng vậy, nếu chúng ta ám thị mạnh là nó bị động, khi vô Tứ thiền thì ám thị đó nó phải nhẹ lại, nhưng nhẹ lại và nó chậm lại ở mức độ như thế nào để cho ý thức nó ngưng.
Nói đến đây chúng tôi cũng xin nói một chút kinh nghiệm về vấn đề mà khi chúng tôi ngưng được cái ý thức, thì tưởng nó xen vô đấy, ý thức không hoạt động thì tưởng nó hoạt động. Thì chúng tôi cũng đã gặp trường hợp ý thức nó ngưng tưởng nó xen vô, thấy thân mình bay lên, nó bay lên rồi hạ xuống nó ngồi lại 3 lần như vậy nhưng mà chúng tôi bình tĩnh, chúng tôi nói rằng đây là tưởng cho nên là ta không theo nó, ta chỉ theo hơi thở thôi, cho nên nó phải ngưng. Rồi khi mà ý thức chúng tôi ngưng như vậy vô trình cho Thầy liền, thì Thầy nói là: đến lúc ý thức ngưng thì tưởng thức hoạt động mạnh cho nên con phải xả tưởng. Xả tưởng là ở trong Tam thiền, tức là phá hỷ. Các thầy nghe nói phá hỷ chứ chưa biết phá hỷ là phá cái gì, phá hỷ tức là xả các trạng thái tưởng. Các trạng thái tưởng thì nó gồm có 6 cái tưởng: sắc tưởng, thinh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng. Thì con phải phá 6 cái tưởng này, con đừng có theo nó và đừng có một mầm mống gì để cho về thần thông.
Chúng tôi nghĩ rằng lúc mà ý thức của chúng tôi nó ngưng mà chúng tôi mống một cái gì là nó có cái đó, chúng tôi mống một cái là cái thân nó bay lên, là nó bay. Mà chúng tôi mống một cái, nhớ tới cái gì là nó nhớ tới cái đó. Nhưng mà đó là tưởng cho nên Thầy bảo rằng không có được đi vào con đường đó. Đi vào con đường đó tức là đi vào con đường Định Tưởng.
Thì chúng tôi thấy được là khi ngưng được ý thức, chúng ta nhập vào 4 cái định tưởng được, tôi hỏi thầy Thầy nói dễ dàng chứ không khó khăn gì. Nhưng mà nếu bây giờ con nhập vô định tưởng thì nó mất thời giờ, cái thứ 2 là nhiều lúc con đã vô đó rồi con mê thì con không có ra được. Do đó chúng tôi không có dám vào. Nhiều lúc chúng tôi cũng có khởi niệm trong đầu là vô thử coi cái định tưởng này nó ra làm sao? 4 cái định tưởng tức là Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đó là trong kinh nói và theo lời Thầy dạy. Chúng tôi nghe vậy chúng tôi biết vậy và chúng tôi không có dám vào. Tại vì vào là chúng tôi sợ bị mắc dính vào đó và nó mất thì giờ. Và các thầy, quý thầy rút cái kinh nghiệm của tôi thì để đi cho được nhanh. Chúng tôi đi chậm vì lý do thứ nhất là cứ bị lạc vào cái tưởng, đi mà chậm nữa là chúng ta bị lạc vào chỗ hôn trầm thùy miên, vô ký. Nếu mà bây giờ mà cứ nằm mãi ở trong cái tưởng thì chúng ta cứ ở trong đó thôi, chứ nó đâu có tiến sâu thêm được nữa. Muốn tiến sâu thêm được nữa thì chúng ta phải ra hơi thở để mà dẹp cái tưởng đi. Dẹp cái tưởng đi và chúng tôi ngưng hơi thở thì chúng tôi mới tịnh chỉ tiếp các hành cho nó ngưng hẳn hoàn toàn.
Tại nói như vậy chứ các hành nó ngưng rồi nó cũng phóng lại, ý thức cũng vậy. Cái ý thức của chúng ta nó ngưng, nhưng nó ngưng tới mức độ nào mà chúng ta đang tập luyện thì như tôi hiện giờ nó ngưng được 2 tiếng, 2 tiếng rưỡi mà 3 tiếng là nó bắt đầu sống lại à. Nó sống lại rồi mà bây giờ tôi muốn đi tiếp thì phải tác ý cho nó ngưng tiếp tục. Tại vì tôi không chuẩn bị cho nên là không ghi lại được nhiều. Thì xin góp một vài ý kiến đó để làm vui lòng thầy Thiện Thuận và theo sự cho phép của Thầy.
Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.(BBT:CĐ,09B,00:07:02)
Bây giờ Thầy tiếp tục. Sau cái trình bày trước là của thầy Thiện Thuận rút tỉa những kinh nghiệm, sau trình bày của Minh Tông. Các con thấy Minh Tông được Thầy chỉ dạy tận tình, có thời gian để chuẩn bị cho nên Minh Tông trình bày rất là kỹ, rất là quan trọng. Còn thầy Thiện Thuận bởi vì trình bày cấp tốc quá cho nên thầy Thiện Thuận trình bày, quý thầy mà theo cái kiểu thầy Thiện Thuận, Thầy thấy là phải ở gần sát bên thầy chứ lơ mơ là tiêu, không có dễ đâu.
Còn Minh Tông, các thầy nên nghe theo cái lời của Minh Tông đó mà tuần tự tu tập như Thầy đã dạy Minh Tông. Cho nên sau này thì Thầy mà ẩn bóng thì Minh Tông mà tu tập xong, có đủ duyên nó là người thừa kế cho Thầy. Vì cái trình độ văn hóa của nó thì trên Đại học. Và sự tu tập của nó, Thầy thấy từ ngày đến đây kỷ luật rất là nghiêm chỉnh và nó cắt ly gia đình hoàn toàn. Thầy thấy ít có người cư sĩ nào làm được như nó. Cho nên Thầy hy vọng nó là người thừa kế của Thầy sau khi Thầy ẩn bóng. Nhưng Thầy chờ cho nó tu xong, vì vậy mà lúc này Thầy thấy rằng trong Tu viện chúng ta có nhiều người có thể tin tưởng, rất là tin tưởng phật pháp rồi. Đó là qua hình ảnh tu hành thứ nhất là Mật Hạnh, thứ hai là Minh Tông, thứ ba đến đây là thầy Thiện Thuận. Như trình bày cho các thầy thấy sự nỗ lực đó không phải là do Thầy để mà chuẩn bị cho họ nỗ lực đâu. Chính cái tư tưởng, chính cái tâm họ tha thiết nhiệt tình với sự giải thoát mà họ đã chuẩn bị cho họ, Thầy chỉ là một người bạn để mà biết đường dẫn họ đi cho đúng thôi. Chứ còn cái tư tưởng đó họ phải chuẩn bị. Cũng như quý thầy hiện giờ quý thầy nếu mà chuẩn bị tư tưởng như vậy thì Thầy dẫn đường thì quý vị đi dễ. Còn quý thầy chưa có chuẩn bị như vậy, Thầy có dẫn đi đâu thì quý thầy cũng loành quành đó mà thôi chứ không đi đâu được. Quan trọng là ở chỗ tư tưởng. Cho nên nếu Minh Tông mà không chuẩn bị cho tư tưởng của mình mà dứt khoát tu hành thì phỏng chừng bây giờ dù là 10 năm chưa chắc đã đạt được. Tại vì tư tưởng chưa dứt khoát, có ngồi đây cũng chỉ là vô ích, còn làm hao tốn của đàn na thí chủ.
Mà nếu thầy Thiện Thuận không chuẩn bị cho mình trong khóa hạ năm nay, thì chắc chắn muôn đời thầy không có dịp gặp Thầy, mà không có dịp gặp Thầy thì con đường tu của thầy lỡ dở. Đây cũng là cái duyên mà thầy có tâm tha thiết nhiệt tình, cách đây 6-7 năm thầy đã có cái tâm muốn theo Thầy từ đó rồi. Nhưng cái duyên nó không đủ, thầy phải chuẩn bị 6-7 năm trời, cho đến hạ này là hạ cuối cùng thầy mới thấy là mình sắp xếp. Nhưng vẫn còn vướng bận chứ chưa phải. Cuối cùng mà thầy ở đây thầy phải xả nó bằng cách, rõ ràng là nó chướng ở trong bụng thầy, nó chướng lên đầu thầy. Đó là thầy phải còn dùng cái Định Vô Lậu để xả nó ra một lần cuối cùng. Thì như vậy đủ biết rằng cuối cùng thầy phát nguyện 3 y một bát như Phật, hành trang của một vị du tăng khất sĩ, không còn là một vị trụ thế tăng nữa.
Ở đâu cũng là nhà của họ, ở đâu cũng là nơi họ ở, chờ khi hết duyên là họ ra đi với một cách không danh không lợi. Đó là mục đích Thầy đã nhận thấy những người tu sĩ đệ tử của đức Phật ngày xưa thực hiện phạm hạnh của họ đầy đủ như vậy. Đến đây Thầy xin chấm dứt.
Những lời hôm nay, những kinh nghiệm hôm nay rất quý giá. Mặc dù từ lâu Thầy chưa cho Minh Tông nói ra những cái lời này, bởi vì Thầy biết ai mà tin mà nói, nói làm sao người ta tin được. Vì cái nhân duyên có thầy Thiện Thuận về đây, sẵn đó Thầy mới gợi ý với thầy Thiện Thuận có sự yêu cầu để mà huynh đệ rút tỉa nhau mà tu tập. Cho nên Thầy vui lòng nhận. Chớ sự thật Thầy muốn chờ cho Minh Tông thực hiện xong mới mở miệng…
Thầy sẽ dạy về Tẩu Hỏa Nhập Ma
Để cho quý thầy thấy lý do nào mà có ma nhập, và để rõ được con đường của đạo Phật giải thích ma nhập như thế nào. Chớ hầu hết là chúng ta cũng chỉ nghe Thầy nói tưởng thôi, chớ chúng ta chưa biết cái tưởng nào là ma mà cái tưởng nào là không ma.
Tại sao có tưởng ma nhập?
Đạo Phật xây dựng giáo lý của mình trên nền tảng Đạo Đức Nhân Quả, nên cái thế giới siêu hình không có ma. Nhưng bài Thập Nhị Nhân Duyên của Phật đã xác định rất rõ ràng là thế giới siêu hình không có. Vậy sao ở đây lại có tưởng ma nhập?
Mà thường thì ma nhập vào những người sống trong tưởng nhiều: đồng bóng, cốt và những người tu thiền tưởng sai.
Ở đây quý vị cần phải rõ trong thân ngũ uẩn của quý vị có 5 cái thức:
1. Sắc thức uẩn
2. Thọ thức uẩn
3. Tưởng thức uẩn
4. Hành thức uẩn
5. Thức thức uẩn
Bởi đạo Phật dạy rất rõ để chúng ta thấy được thân Ngũ uẩn, là 5 uẩn hợp lại làm thân của chúng ta. Rồi thế giới siêu hình nó ở chỗ nào, mà khi thân ngũ uẩn này tan hoại thì thế giới siêu hình đi về đâu? Nó có hay là không?
Đó chính là điểm đặc biệt của đạo Phật để thấy được thế giới siêu hình nằm trong chỗ nào ở trong các uẩn này.
Do vì vậy đức Phật xác định bài Thập Nhị Nhân Duyên như Thầy đã nói rồi, là qua bài Thập Nhị Nhân Duyên chứng tỏ rằng thế giới siêu hình không có. Nếu mà nó có thực thì nó phải có một cõi giới của nó. Mà đã có một cõi giới của nó thì phải có con người chúng ta đến đó rồi về đây. Đằng này hầu hết nói thế giới siêu hình thì chúng ta chỉ tưởng tượng mà thôi. Không thấy ai đi đến cõi đó rồi về nói rằng chứng minh được tôi thấy cõi đó như vậy như vậy.
Trong kinh Phật cũng đã xác định nhiều bài kinh nói về hướng này để chúng ta thấy rằng thế giới siêu hình không có. Mà bây giờ chúng ta đang sống bị bao vây bởi thế giới siêu hình làm cho người ta trở nên mê tín, người ta không biết có hay không, nhưng mà người ta vẫn thấy nó có. Cho nên đó là một điều rất nan giải cho con người ở thế gian này.
Khoa học bây giờ chứng minh cũng không được. Không làm sao chứng minh được thế giới này. Thế mà chỉ có Phật giáo giải quyết được, mà ít có ai giải nổi cái này ra. Họ cũng loành quành loành quành rồi nghe trong kinh điển của Phật cũng nói thế giới Chư Thiên, 33 cõi trời như thế này như thế khác. Họ cũng cho đó là thế giới siêu hình. Họ đâu có biết đó là cái gì mà Phật đã muốn nói.
5 cái uẩn này gọi là 5 thức:
1. Sắc thức
2. Thọ thức
3. Tưởng thức
4. Hành thức
5. Thức thức
Ở đây chúng ta phân biệt cho rõ ràng. Sắc thức thì dùng lục nhập. Lục nhập tức là mắt tai mũi miệng thân ý của mình. Cái thân của chúng ta hiện bây giờ hoạt động để mà chúng ta nhận thức biết được mọi vật, thấy hình sắc cũng như nghe âm thanh biết được mùi vị hương thơm thì hoàn toàn là phải do 6 thức này, tức là phải do 6 căn này (mắt tai mũi miệng thân ý).
Do vì vậy mà chúng ta mới nhận ra được các đối tượng xung quanh chúng ta, các pháp xung quanh chúng ta. Còn nếu cái sắc này mà không có 6 cái căn này thì họ sẽ không nhận ra được. Và cái nhận ra được mà ở trong cái nhận ra được đó mà biết, mà nghe, mà thấy, mà cảm giác được thì ở trong đó phải có cái thức. Cho nên gọi nó là lục nhập. Vì ở ngoài mà tiếp xúc vào nó thì nó phải xuyên qua cái căn đó để rồi cái thức nó mới phát hiện ra đó là một âm thanh, đó là một hình sắc, đó là một hương vị.
Vì vậy mà về cái phần sắc như quý thầy đã biết rằng mỗi con người chúng ta hiện đang sống trước mặt, đang ngồi đây nghe là chúng ta hoàn toàn đang dùng lục nhập của chúng ta để tiếp nhận những bài pháp mà Thầy đang giảng. Và cái sắc thức tức là cái biết của chúng ta hiện giờ luôn luôn hoạt động để chúng ta tiếp nhận những đối tượng bên ngoài tác động vào thân và tâm của chúng ta. Do đó cái biết đó gọi là sắc thức. Nói riêng thì nó là mắt tai mũi miệng thân ý thức. Mà nói chung thì gọi là sắc thức.
Còn về phần thọ thức, chính là cảm giác làm cho chúng ta khi bị xúc chạm làm chúng ta thấy biết được cái nóng, cái lạnh, cái đau cái nhức cái đớn thì đó là thọ thức. Nhưng ở đây thọ thức không quan trọng. Nó không quan trọng là vì đối với chúng ta giải về ngũ ấm ma thì nó không quan trọng. Nhưng đến tưởng thức thì rất là quan trọng.
Về phần thứ ba thì tưởng thức rất là quan trọng. Khi mà sáu căn của chúng ta mắt tai mũi miệng thân ý ngưng hoạt động, tức là nó ngủ đi, nó không hoạt động nữa, thì cái tưởng thức này nó trỗi dậy, nó sử dụng cái thân của chúng ta, cái sắc thân chúng ta. Thì một người mộng du, nó điều khiển thân người đó đi như thường. Đây là Thầy nói cái mộng đặc biệt gọi là mộng du, còn cái mộng thường của chúng ta là nằm mộng, cái thân nằm đó mà thấy mình đi đây đi đó thì cái đó nó không có đặc biệt lắm. Nhưng cái tưởng ấm ma nó thuộc về mộng du, cho nên Tẩu Hỏa Nhập Ma nó thuộc về mộng du, cho nên nó nhập vô chúng ta thì nó điều khiển được cái thân của chúng ta. Nhưng lúc bấy giờ cái người đó họ không biết. Thầy nghe nói những người mộng du thì họ đi ở trên tường thẳng được, họ đi trên mái nhà hiu hiu không bao giờ họ té, họ không sợ gì hết. Họ đi vòng vòng vậy rồi một lúc họ trở về họ nằm ngủ lại, chừng thức dậy họ cũng không hay biết gì hết. Đó là cái tưởng thức hoạt động. Cũng như một người lên đồng nhập xác, thì những người này trong lúc đó họ chẳng biết gì hết. Hoàn toàn ý thức họ, 6 cái thức của họ mà do sắc thức ngưng hoàn toàn. Nó để cho tưởng thức làm việc, dùng cái sắc thân của họ mà làm việc, dùng cái tứ đại của họ mà làm việc. Đó là cái tưởng thức. Vì vậy chúng ta nhận xét qua chỗ này mới biết những hiện tượng xảy ra mà người ta thường thấy có những sự siêu hình đều là do tưởng này mà ra.
Ở đời người ta thường nói người nặng bóng vía và người nhẹ bóng vía. Nặng bóng vía tức là không thấy ma, mà nhẹ bóng vía tức là người hay thấy ma. Mà người nhẹ bóng vía tức là người này sống trong tưởng nhiều, mà người nặng bóng vía tức là người sống trong ý thức nhiều. Cho nên người nhẹ bóng vía này nghe thấy ma thì thấy hình bóng ma. Đó là những trạng thái của tưởng lưu xuất từ tưởng nhiều tưởng ít mà thôi. Chớ không phải có thế giới có linh hồn người khác mà xuất hiện ra để nhập vào mình hoặc nhập vào thân của người khác. Đó là chúng ta xác định cho được để thấy cái tưởng thức nó đặc biệt và vi diệu mà hiện tượng xã hội chúng ta nhiều người đã từng nghe thấy biết trực tiếp mà người ta không giải thích ra nổi được.
Hành thức thì chúng ta biết rất rõ, mỗi cái hành động, mỗi cái điều kiện có cái gì thì trong cái hành của chúng ta đều có sự hoạt động thì phải kèm theo bên cái thức của sự hoạt động đó. Cho nên nó có sự điều động. Nhưng mà hành thức thì không quan trọng. Cũng như thọ thức nó không quan trọng. Nó quan trọng là khi mà cái thọ thức này hoặc hành thức này nó làm việc với cái sắc thức, thì lúc bấy giờ thân rung động cảm giác này kia nọ thì cái thọ đó nó cảm giác theo sắc thức, cũng như theo hành thức của nó mà nó xúc chạm. Do đó nó có cảm giác hoặc cái này cái khác thì do đó mà chúng ta nhận ra được cái cảm giác và cái hành động của chúng ta trong khi nó sử dụng cái sắc uẩn của nó.
Còn cái tưởng thức này thì nó đặc biệt riêng, nó sử dụng riêng. Nhưng trong cái sử dụng của tưởng thức thì nó cũng có thọ thức và hành thức chớ không phải không có. Cho nên trong giấc mộng chúng ta thấy ăn chúng ta cũng biết ngon, mà chúng ta có cảm giác. Thí dụ như thấy lửa cháy, lúc bấy giờ chúng ta chạy vào trong cái nhà để chữa lửa, chúng ta thấy nóng, thấy rát nhưng mà sự thực ra thì nó không có phỏng lửa và không có nóng rát khi chúng ta thức dậy.
Cho nên cái thọ ở trong tưởng thức nó vẫn có, trong cái hành của tưởng thức nó vẫn có vì nó có đi đây đi đó ở trong đó, cho nên nó phải có cái hành ở trong đó. Vì vậy cái thọ thức và cái hành thức chỉ là những sự phụ thuộc vào sự điều khiển của tưởng thức và sắc thức mà thôi. Như vậy thì quý thầy đã hiểu rõ trên cái hành thức và cái thọ thức thì nó không quan trọng, nó không tạo thành thế giới siêu hình mà nó chỉ phụ thuộc vào những cái sắc thức và thức thức mà thôi.
Bây giờ đến Thầy giải thích về cái thức thứ 5 tức là Thức thức.
Thức thức nó dùng gì? Nó dùng thức. Ở đây Thầy xin giải thích thêm để chúng ta thấy này.
Sắc thức thì dùng lục nhập: mắt tai mũi miệng thân ý.
Mà thọ thức thì dùng xúc. Cái thọ của chúng ta mà nó không có xúc thì nó không cảm thọ gì được hết. Nó phải dùng cái xúc nó mới có thọ được.
Mà tưởng thức thì nó dùng tưởng. Chớ nó không thể dùng mắt tai mũi miệng thân ý chúng ta được. Phải rõ cái chỗ này.
Hành thức thì nó dùng hành, chớ nó không dùng tưởng được mà nó cũng không dùng xúc được, mà nó phải dùng cái hành. Cho nên hành thức thì nó phải dùng cái hành.
Mà cái thức thức thì nó dùng thức. Nó không có dùng cái lục nhập này. Tức là khi chúng ta nhập Tứ Thiền, cái thức thức nó hoạt động thì nó lại không có dùng mắt tai mũi miệng thân ý chúng ta. Vì mắt tai mũi miệng thân ý chúng ta, Phật nói mắt là nhục nhãn, con mắt nhục không thể nào thấy xa ngàn dặm được. Cho nên nó phải sử dụng thức thức của nó. Thức thức nó phải sử dụng cái thức, tự nó sử dụng cái tâm của nó cho nên nó ngồi đây mà nó thấy muôn ngàn vạn dặm. Hoặc nó thấy trong quá khứ nhiều đời nhiều kiếp. Đó tức là cái thức đó đó.
Như vậy là chúng ta thấy biết được 5 cái thức này: sắc thức, thọ thức, tưởng thức, hành thức và thức thức. Nó sử dụng cái gì thì ở đây Thầy giải thích quý thầy rất rõ.
Mặc dù ở trong kinh không có nói bài này, nghĩa là trong các kinh Phật không có giảng bài này như vậy nhưng mà qua cái sự hiểu biết của Thầy trong sự tu tập, Thầy biết rằng trong thời đức Phật chưa có người thưa hỏi ngay điều này cho nên không có bài giảng này. Trái lại vì trong thời chúng ta nó có những ma chướng như vậy, cho nên Thầy mới giải thích cái này để chúng ta thấy rằng cái thọ nó dùng cái gì, mà cái sắc thức nó dùng cái gì, mà cái tưởng thức nó dùng cái gì, mà cái hành thức nó dùng cái gì và cái thức thức nó dùng cái gì.
Cho nên chúng ta nghĩ cái thức thức nó dùng cái sắc uẩn của chúng ta thì không được, nó sẽ dùng mắt tai mũi miệng thân ý của chúng ta cũng không được. Mà nó dùng tưởng cũng không được. Nó dùng xúc cũng không được. Mà nó dùng hành cũng không được. Mà thức thức nó chỉ dùng cái thức của nó mà thôi. Tức là tâm dụng tâm đó. Người ta nói tâm dụng tâm đó. Hay một danh từ của Thiền tông thì nói thể dụng thể đó. Nó không có dụng cái chuyện khác được mà nó dụng ở nơi nó. Cho nên nó dẫn tâm về Tam minh là cái chỗ này. Vì vậy sau khi nhập Tứ Thiền quý thầy sẽ thấy rõ cái này.
Sắc thức dùng lục nhập là mắt tai mũi miệng thân ý căn. Mà ý căn là bộ óc của chúng ta, chủ thể điều khiển toàn thân qua các căn của nó. Nghĩa là cái ý căn, đương nhiên chúng ta thấy cái bộ óc của chúng ta là ý căn. Có nhiều người cho ý căn là trái tim của chúng ta. Nhưng mà sự thật không đúng. Trong kinh thường có chỗ cũng giảng nói ý căn là trái tim của chúng ta, như bây giờ nói nhãn căn là con mắt của chúng ta, mà nhĩ căn là lỗ tai chúng ta, mà tỷ căn là lỗ mũi chúng ta thì cái đó chỉ rất đúng. Nhưng mà đến ý căn thì hầu như người ta không hiểu đức Phật muốn nói cái gì. Nhưng mà chúng ta xét trong thời đại chúng ta, chúng ta biết rất rõ là vì khoa học có hẳn hòi. Bởi vì ý căn là bộ óc của chúng ta. Nó điều khiển toàn thân của chúng ta. Cho nên hiện bây giờ chúng ta sử dụng ý căn là một điều kiện rất tốt cho nên do sự hiểu biết này mà Thầy tận dụng ý căn của Thầy tu tập ở trong 4 thiền. Nương vào hơi thở để điều khiển cho nó từ chậm nhẹ cho đến khi nó ngưng hoàn toàn là do ý căn. Nếu mà chúng ta dùng tưởng thức mà điều khiển là chúng ta sẽ lạc.
Cho nên hầu hết một số người chưa biết cho nên người ta tưởng ý căn là trái tim của chúng ta. Thì người ta dùng cái tưởng mà người ta tu thì người ta sẽ bị lạc. Đồng thời người ta cứ bắt buộc cái ý căn phải ngưng hoạt động, không cho nó hoạt động, thì điều đó là người ta sẽ đi lạc mất, bởi vì ý căn mà ngưng thì chủ thể điều khiển cái thân cũng như ông vua điều khiển cái nước, mà ông vua bây giờ không điều khiển được thì người ta sẽ cướp nước ông. Do đó mà chúng ta biết cái ý căn nó rất quan trọng chứ không phải nhãn căn hay nhĩ căn quan trọng đâu, mà cái ý căn rất quan trọng, nó là cái bộ óc của chúng ta. Nhưng mà để người khác mà vào bộ óc chúng ta nó điều khiển trong đó thì guồng máy của đất nước đó sẽ bị mất.
Thì hôm nay chúng ta thấy ý căn là vấn đề rất quan trọng, bởi vì cái sắc này thì nó phải có cái ý căn, mà cái ý căn là cái vấn đề điều khiển toàn thân của nó, cho nên chúng ta muốn điều khiển sống chết do ý của chúng ta, ý căn đó. Vì vậy mà chúng ta mới làm chủ được cái sống chết của chúng ta. Do ý căn đó mà chúng ta mới chấm dứt được sự luân hồi, mới phát triển được trí tuệ. Nếu không có ý căn chúng ta chẳng phát triển.
Cho nên có một số người dạy tu thiền là tu vô phân biệt, tu rồi không phân biệt gì hết. Thì như vậy là ý căn có làm việc gì đâu? Tỉnh táo đó, biết đó, ai đụng tới hỏi bảo gì thì nói mà không bảo gì thì không phân biệt gì thì có phải giống như người điên không?
Đó là những cái họ hiểu lầm, họ tưởng rằng khi vô phân biệt thì tức là nó sẽ được giải thoát hoàn toàn thành Phật. Cho nên có một vị thiền sư sai một người đệ tử: Con hãy vào trong lấy cho thầy một cái thùng để ra xách nước. Vị đệ tử này mới vô xách cái rổ đem ra. Cái rổ thì quý thầy biết nó có lỗ lỗ. Thế mà vị thiền sư cả cười, người đệ tử của mình chứng đạo rồi. Thì các thầy nghĩ như thế nào?
Đó là những cái mà người ta tập trung để ca ngợi phương pháp vô phân biệt, để đưa con người đi đến chỗ ngơ ngẩn, lầm lạc. Họ đâu có phải chết, họ đâu có phải là người chết, bởi vì họ đang ở trong trạng thái vô phân biệt, họ không phân biệt gì hết, cho nên họ vẫn thản nhiên xách cái rổ mà họ tưởng là cái thùng, họ đâu có phân biệt. Bảo họ xách cái cuốc, họ vô họ xách cái dao. Bảo họ làm cái này họ lấy cái khác thì cái đó là cái làm cho ý căn của chúng ta nó ngưng hoạt động, nó không còn phân biệt được nữa, nó không còn biết được nữa. Thì như vậy là hệ thần kinh chúng ta bị lạc rồi chứ gì? Đó, đó là một điều sai mà trong nhiều thế kỷ gần đây người ta tu theo thiền người ta bị lạc rất nhiều cái điều đó.
Thọ thức dùng xúc cảm giác mọi trạng thái hỷ lạc, khinh an, đau nhức, tê nóng, rát hoặc là nặng nhẹ, nhói, chạy rần trên thân người. Đó là những cái cảm giác mà chúng ta cảm giác khi mà cái thọ thức của chúng ta làm cho chúng ta biết những cảm giác như vậy.
Tưởng thức thì dùng tưởng nên luôn luôn tưởng về quá khứ và vị lai. Nghĩa là chúng ta xét thấy cái tưởng nó không bao giờ tưởng ở trong hiện tại được. Tưởng ở trong hiện tại thì nó không bao giờ tưởng được mà nó tưởng thì nó phải tưởng ở quá khứ và tưởng ở vị lai. Nó ngồi nó ước vọng về vị lai, nó là tưởng đó. Mà nó nghĩ ngợi, nó nhớ một cái gì ở quá khứ, đó là tưởng. Nó thuộc về loại ma đó, nó không phải là thuộc về loại tốt đâu. Cho nên từ cái nghĩ về quá khứ làm tâm ta đau khổ, làm tâm ta dày vò, ray rứt về quá khứ, những sự kiện gì xảy ra trong đời chúng ta. Mà khi tưởng nó sử dụng cái tưởng về quá khứ để làm chúng ta nhớ lại thì tâm chúng ta nó đã bị khổ. Vì vậy khi mà tâm bị khổ thì Phật bảo rằng đó là bị ma.
Về tương lai thì nó quyến rũ ta, cho nên đức Phật gọi nó khi mà cái tưởng nó khởi về tương lai, nó nghĩ như thế này: Ngày mai này mình sẽ tu tập, mình sẽ làm chủ được sanh tử, rồi mình ra đây mình mở một cái tu viện to lớn đồ sộ, mình hướng dẫn cả trăm cả ngàn người để cho họ theo tu. Mình làm sáng tỏ Phật Pháp lại. Nghĩ về vị lai như vậy đó là nó thuộc về bị ma tưởng cám dỗ chúng ta, lôi cuốn chúng ta, chúng ta bị ma rồi đó. Thì đó rõ ràng nó nhập vô đó. Nếu ý thức của chúng ta luôn luôn ở trong hiện tại thì ma tưởng không bao giờ nhập. Đây là những cái mà chúng ta thấy nó chưa đến đỗi làm rần rần người chúng ta rồi chúng ta mất cái biết đâu, chúng ta còn ý thức một bên, vậy mà ma nó vô đó. Nó cám dỗ chúng ta trong quá khứ và trong vị lai. Nó lôi cuốn chúng ta, nó làm chúng ta đau khổ mọi từng phút giây ở trong đó.
Cho nên có một bài kệ Thầy nhắc quý thầy:
Quá khứ không truy tìm
Vị lai không ước vọng
Đó là ma tưởng của chúng ta ở trong quá khứ và vị lai đó, cho nên chúng ta phải biết mặt nó để mà diệt trừ nó. Không có để nó xen vô ở trong quá khứ của chúng ta. Mà không để nó xen vô ở trong vị lai của chúng ta. Thì lúc bấy giờ chúng ta đang ở trong hiện tại. Thì đó là một nguồn giải thoát chơn thật nơi quý vị.
Nó không có môi trường hoạt động trong hiện tại. Đó là Thầy xác định cho rất rõ. Vì môi trường hoạt động của nó trong hiện tại không có. Bởi vì trong hiện tại phải có những đối tượng. Mà có đối tượng thì ý thức hoạt động. Cho nên vì vậy Thầy mới xác định được cái chỗ mà chúng ta tu thiền. Hơi thở chúng ta mất là bị tưởng, mà hơi thở còn là không bị tưởng. Vậy thì chúng ta khi mà vào định mà hơi thở mất thì chúng ta biết chúng ta ở trong trạng thái của đối tượng nào của ý thức, của định. Còn nếu mà cái trạng thái đó nó là tưởng thì nó làm cho chúng ta thích thú, tức là tưởng nó phải là dục rồi, nó đâu còn thanh tịnh nữa. Cho nên nó làm chúng ta thích, nghe mà ngồi nó hỷ lạc khinh an nghe khoái quá. Đó là chúng ta bị trạng thái tưởng chứ đâu phải là trạng thái của thiền định.
Phật nói định sinh hỉ lạc hay là ly dục sanh hỉ lạc đâu phải cái trạng thái khiêu khích chúng ta thích thú. Mà là một trạng thái rất là thanh thản. Làm cho thân tâm chúng ta thanh tịnh, càng thanh tịnh càng sâu mầu trong thanh tịnh. Nó mới lắng sâu được chứ. Còn đằng này cứ nghe yên yên, khinh an nhẹ nhàng là cho nó là định, là thiền. Hỏi ai mà tu có khinh an là thấy là được rồi, như vậy là tốt rồi. Điều đó là đưa người ta đi đến chỗ chết. Chưa biết trạng thái khinh an như thế nào mà dám xác định điều đó là dẫn người ta vào những định tưởng.
Nó không có một môi trường hoạt động trong hiện tại, chỉ có bố cục những hình ảnh, tâm lý, tình cảm con người qua những điều diễn biến trong cuộc sống hiện tại của người đó. Rồi diễn lại một màn ảnh, đó là trong giấc mộng của chúng ta. Khi tưởng thức dùng tưởng để hoạt động thì ý thức phải nghỉ ngơi. Nghĩa là lúc bao giờ mà tưởng thức hoạt động thì ý thức phải nghỉ, còn ý thức mà còn hoạt động thì tưởng thức nghỉ. Nghĩa là bây giờ chúng ta ngồi đây mà khởi vọng tưởng, đó là tưởng hoạt động. Cho nên cái biết của chúng ta hiện giờ mà nghĩ về quá khứ thì cái đó là tưởng chứ không phải ý thức của chúng ta đâu. Chúng ta phải thấy rõ, ý thức của chúng ta là cái thân sắc uẩn của chúng ta, là cái đối tượng của các vật tiếp xúc qua cái thọ chúng ta, thì nó phải có cái đối tượng tiếp xúc đó. Mà cái ý thức thì luôn luôn nó phải tiếp xúc ở trong cái đối tượng đó nên nó luôn luôn sống trong hiện tại. Mà khi chợt nó qua quá khứ thì cái đó là cái tưởng thức, hoặc là chợt nó đến tương lai thì nó là cái tưởng thức. Cho nên ở đây chúng ta rất dễ nhận được cái tưởng thức của chúng ta. Khi mà chúng ta nhận được tưởng thức hay hoặc là cái ý thức của chúng ta không khó khăn, cho nên thường thường người ta nói vọng tưởng (vọng tưởng là những niệm mà khởi lên ở trong đầu chúng ta), bây giờ chúng ta ngồi mà ức chế những cái vọng tưởng đó gọi là ức chế cái tưởng, chớ không phải ức chế cái ý thức của chúng ta đâu.
Còn ý thức của chúng ta đang biết hơi thở ra vô, đó là cái đối tượng của nó là ý thức, vì vậy mà cái ý thức của chúng ta dễ mất. Cái tưởng nó xen vô là ý thức của chúng ta mất liền. Cho nên chúng ta biết được cái phần nào hoạt động của cái người nào và cái trách nhiệm đó trong lúc đó nó là ai, chúng ta biết đó là ma hay hoặc là chính mình. Mà cái tưởng thức chúng ta đã nói là nó là ma thì tức nó phải ma thôi. Vì nó làm chúng ta đau khổ.
Bây giờ thì quý thầy đã nhận ra được cái nào là ý thức và cái nào là tưởng thức rồi. Thì bây giờ Thầy nhắc đến cái phần thứ 4 là cái hành thức. Hành thức thì nó dùng hành, nên ở đâu có hành là ở đó có sự hoạt động của nó. Bởi vì nó dùng cái hành mà. Nếu cái sắc nó hành động thì ngay đó là có nó. Quý thầy cứ suy ngẫm Thầy nói rất đúng không có sai. Bởi vì nó dùng cái hành. Nếu mà cái hành ở đâu có cái sắc hay cái tưởng ở đâu có thì ở đó nó sẽ sử dụng. Cho nên đến khi cái thức thức mà nó sử dụng cái hành thì ở chỗ cái thức thức nó sử dụng. Tức là cái thức thức nó hoạt động thì ngay đó thì nó mới có cái hành. Nghĩa là cái thức nó hoạt động thì ngay đó nó có hành thức liền tức khắc tại đó. Cho nên trong thức thức nó sử dụng thì tức là nó có cái hành. Cái hành đó thì ngay đó nó hướng tâm đến Tam minh thì nó thấy được nhiều đời nhiều kiếp nó đó.
Ở đây Thầy dạy quý thầy hiểu rõ được cái này để nắm được cái thân ngũ uẩn của chúng ta. Để biết để mà tránh ngũ ấm ma và Tẩu Hỏa Nhập Ma. Nó không có khó khăn gì hết, biết rõ rồi thì chúng ta sẽ không bị lầm lạc. Còn không biết rõ, bây giờ hầu hết số người tu thiền họ không biết rõ cái này, họ ngồi ở trong ma, họ ngồi trong thiền ma mà họ tưởng ngồi trong thiền chánh của họ. Bởi vì cái ma tưởng của chúng ta, ngồi đây hỷ lạc khinh an đó là ngồi trong ma. Cho nên cái sai là tại người không có hiểu mà dạy thiền mới đưa người ta đi đến chỗ chết, hoặc giả nó không tới, không tới là tại vì cái người đó chưa có nhiệt tâm tu pháp môn đó. Chớ còn người nào nhiệt tâm tu pháp môn nào đó mà người đó chưa rành các hoạt động của thân ngũ uẩn chúng ta thì người đó sẽ đưa những người khác đi vào chỗ chết. Hầu hết những người nhiệt tâm tu hành như thiền ông Tám hoặc thiền người này kia đó thì hầu như bị lạc vào, họ bị điên khùng đó, đó là trường hợp mà họ dùng tưởng quá nhiều và họ có sự nhiệt tâm tu hành. Còn cái người mà tu chơi chơi, tu sơ sơ thì họ không bị gì hết. Bởi vì họ tu cầm chừng thì không bị. Nhưng mà cái người quyết tâm tu thì bị. Cũng như người ta dùng như thế này, trên thân chúng ta thì do cái sự mà các nhà võ sỹ đạo, hoặc là nhà khinh công hoặc là nhà châm cứu người ta tìm những huyệt đạo trên thân để người ta giải trừ cái gì đó. Không biết mấy ông này cũng nghiên cứu ba cái đó, rồi nghiên cứu qua thiền rồi chuyển trên những cái huyệt đó để cho nó thông suốt cái này kia, không ngờ là mình tưởng ra những huyệt đó để thông suốt. Từ đó nó gây chúng ta có những cái trạng thái của tưởng, làm lệch lạc con đường tu chân chánh của đạo. Vì vậy mà khó có thể làm chủ sinh tử được.
Ở đây Thầy không thấy Phật dạy chúng ta phải khai triển huyệt này, khai triển huyệt kia mà cuối cùng thì Người làm chủ sanh tử hẳn hòi. Còn hầu hết là các nhà võ sĩ, khinh công hoặc là những nhà châm cứu y học thì họ tìm những cái đó để trị bệnh, điều đó là một cái điều Thầy thấy nó không đúng con đường thiền định của đạo Phật. Mà nó làm cho con người ta cứ nghiên cứu bên đây rồi lấy râu ông này cắm cằm bà kia, nó thành một cái pháp môn để rồi từ đó tu tập dẫn nhau đến điên khùng cùng nhau hết cả đám. Chớ chưa có một người nào lấy râu ông này cắm cằm bà kia mà thực hiện được đạo giải thoát làm chủ như đức Phật bao giờ? Trong cuộc đời chúng ta đã chứng kiến quá nhiều. Suốt gần sáu mươi mấy năm tuổi đời của Thầy, Thầy đã chứng kiến biết bao nhiêu người tu thiền định mà cũng chỉ vì những pháp môn không có người thực hiện được, chỉ tưởng ra rồi dẫn nhau mà đi trên con đường đó. Cho đến bây giờ chúng ta mới thấy được, tìm được một lối đi của đạo Phật chơn thật, thực hiện bằng ý thức, không phải bằng tưởng thức.
Bây giờ Thầy tiếp: như sắc hoạt động tại 6 căn thì hành thức hoạt động tại đó nên gọi là sắc hành. Nghĩa là bây giờ cái thân chúng ta hoạt động tại 6 căn chúng ta là mắt tai mũi miệng thân ý thì tại nơi đó chúng ta gọi là sắc hành.
Thọ hoạt động tại xúc thì hành thức hoạt động tại đó. Nghĩa là cái thọ mà nó tiếp xúc với đối tượng gì của nó thì cái hành thức nó sẽ hoạt động tại nơi đó. Nên gọi là thọ hành.
Tưởng hoạt động dùng tưởng, thì hành thức hoạt động tại nơi đó nên gọi là tưởng hành (Ở đây Thầy phân biệt từng cái, từng cặp một Thầy ghép lại để cho thấy sự hoạt động của thân chúng ta nó hoạt động từng cặp, hoặc hoạt động 3 cái hay 5 cái ở trong đó một lượt), gọi là tưởng hành.
Hành hoạt động tại hành, dùng hành nên gọi là hành hành.
Thức hoạt động tại thức, dùng hành nên gọi là thức hành.
Khi chúng ta hoạt động chung một việc trên thân ngũ uẩn, nghĩa là chúng ta làm chung một việc gì đó thì nó kết hợp câu hữu lại, với thọ thì gọi là sắc thọ. Nghĩa là cái cảm giác của chúng ta mà nó hoạt động kết hợp lại thì trong đó có hành có này kia đủ thì gọi là sắc thọ. Sắc kết hợp với tưởng thì gọi là sắc tưởng. Nghĩa là bây giờ cái sắc của chúng ta kết thọ, cái thân của chúng ta kết với cái cảm giác thì chúng ta thấy cái chân đau, thì đó gọi là sắc thọ. Còn nó kết với tưởng, cái sắc thì bây giờ chúng ta thấy hình ông Phật hiện ra trước mắt của chúng ta, mà không có ông Phật thì đó gọi là sắc tưởng.
Nếu mà nó kết hợp với hành thì gọi là sắc hành. Bây giờ thấy ông Phật ông đi, ông rờ tay trên đầu mình, ông xoa rồi ông ấn chứng cho mình một kiếp nữa sẽ thành Phật thì đó là sắc hành. Hoặc là cái sắc của chúng ta hành, nếu mà kết hợp với hành thì gọi là sắc hành. Như bây giờ chúng ta nó kết hợp với hành, thì cái tay chúng ta rờ đầu người nào đó, đó là nó kết hợp với hành thì gọi là sắc hành.
Nếu nó kết hợp với thức thì gọi là sắc thức, nếu nó kết hợp với cái thức của chúng ta, mà bây giờ chúng ta biết cái gì đó, thì cái đó ngay cái thân của chúng ta biết, thì cái đó gọi là sắc thức.
Thọ tưởng hành thức kết hợp từng cặp nhau cũng đều gọi như vậy.
Tóm lại,ở đây chúng ta chỉ nêu lên 3 cái thức, một là sắc thức, hai là tưởng thức và ba là thức thức. Đó là những điều quan trọng, nêu lên để chúng ta thấy còn những cái phần kia là cái phần câu hữu, kết hợp lại, nó bằng cách này bằng cách khác nó rất là vi tế ở trong đó. Chúng ta không phải là nhà duy thức học nên chúng ta không phân tích nhiều rườm rà và đồng thời nó cũng làm cho rối loạn. Cho nên Thầy chỉ nhắc sơ như vậy để chúng ta hiểu mà thôi chớ còn cái vấn đề đó chúng ta không cần quan trọng. Cần quan trọng là ở chỗ chúng ta tu tập làm sao mà để làm chủ sanh tử mà thôi.
Nhưng vì trường hợp xảy ra để chúng ta biết được thế giới siêu hình và cái ma mà nhập vào trong người chúng ta là do cái thức nào để chúng ta biết nó để mà chúng ta tránh trong thời gian tu tập thiền định, chúng ta biết được cái nào là tưởng thức, cái nào là sắc thức, cái nào là thức thức để chúng ta thực hiện cho đúng con đường thiền định mà thôi. Đó là cái ý ở trong cái bài này chớ không phải là giảng duy thức nói về 6 thức hoặc nói về tất cả những câu hữu, kết hợp của thân ngũ uẩn này bằng cách này bằng cách khác. Chia chẻ nó ra nhiều làm rối loạn thêm chứ không ích gì.
“Có 4 nguyên nhân đưa đến tu tập thất bại trong giáo pháp của Ta”.
Đây là lời đức Phật nói, như vậy là sau khi mà nói về vấn đề Tẩu Hỏa Nhập Ma, Thầy phân cho biết mấy cái thức, rồi đây là bài của Phật nói để chúng ta biết phải được như thế nào mà chúng ta tránh. Đây ông Phật cũng dạy chúng ta để chúng ta biết mà tránh chứ không phải riêng Thầy mà Thầy nói cái vấn đề này không.
- Một:Một vị thầy và học trò chưa thấu đạt sự thành tựu pháp môn và giáo giới của người cư sĩ mà vội vàng cùng nhau tu tập những điều chưa biết hay biết một cách lờ mờ, không rõ thì cũng giống như người chưa thấu đạt pháp ăn trái cây rụng để sống, và chưa thấu đạt pháp ăn củ rễ cây để sống mà vội vàng vào rừng thì những người này có sống được chăng?
Ông Phật ví dụ. Nghĩa là chúng ta chưa rõ cái giáo giới của Phật, pháp môn của Phật mà hiểu một cách lờ mờ chưa có chính xác rồi cùng nhau mà tu tập thì thử hỏi giống như là cái người mà ăn trái cây rụng, vô trong rừng lượm trái cây rụng để ăn, sống ở trong rừng, cũng như đi đào rễ cây củ trong rừng để ăn để sống, không cần ăn cơm nữa đó. Thì thử hỏi những người đó chưa có tập ăn như vậy, chưa bao giờ tập ăn lá cây, chưa bao giờ tập ăn trái cây rụng để sống, chưa bao giờ ăn củ để sống, ăn rễ cây để sống mà vội vào trong rừng mà ở thì những người này có chết không?
Nghĩa là trước khi chúng ta muốn sống ở trong rừng ăn trái cây rụng, củ rễ cây mà sống thì chúng ta phải tập và biết cái cây, cái củ nào, trái cây nào ăn được, trái cây nào ăn không được. Vô trong rừng đụng trái cây nào cũng ăn thì có điên không? Cho nên khi đó mình không biết mà đi vào rừng ở để không ăn cơm gạo thì người đó không bao giờ sống được. Cũng như một người chưa biết giáo pháp(BBT:CĐ,09B,E00:45:37), pháp môn, giáo giới của Phật như thế nào mà vội vàng tu tập thì cũng như những người đó. Đó là phần thứ nhất.(BBT:BN,09,E00:49:57)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét